Xu Hướng 6/2023 # Bài Văn Vẻ Đẹp Con Người Của Lão Hạc Trong Truyện Ngắn Của Nam Cao, Ha # Top 10 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Bài Văn Vẻ Đẹp Con Người Của Lão Hạc Trong Truyện Ngắn Của Nam Cao, Ha # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Bài Văn Vẻ Đẹp Con Người Của Lão Hạc Trong Truyện Ngắn Của Nam Cao, Ha được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Em hãy phân tích vẻ đẹp con người của lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao

Vẻ đẹp con người của lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao

Bài văn mẫu Vẻ đẹp con người của lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao

Xuôi dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, đề tài viết về người nông dân luôn là mảnh đất thu hút ngòi bút, sự khai phá của rất nhiều tác giả. Trong bức tranh phong phú và đa dạng đó, “Lão Hạc”của Nam Cao là một trong những sáng tác tiêu biểu viết về cuộc đời, số phận của người nông dân. Bằng tài năng trong việc xây dựng tình huống truyện, tác giả đã khắc họa bức chân dung người cố nông nghèo với những phẩm chất cao quý, tốt đẹp. Đó là những vẻ đẹp về tâm hồn và nhân cách như giàu tình cảm, yêu thương con, sống vị tha, có ý thức giữ gìn lòng tự trọng của bản thân.

Trước hết, lão Hạc là một người cha rất mực thương con và có trách nhiệm. Người con trai phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền cao su đã để lại trong lòng lão Hạc một vết thương tinh thần không thể chữa lành. Đó là nỗi day dứt, đau đớn khôn nguôi của một người cha không thể lo cho đứa con trai duy nhất của mình cưới vợ. Bởi vậy, lão yêu thương, chăm sóc chú chó mà anh con trai để lại như chăm sóc chính đứa con ruột của mình. Không chỉ dừng lại ở đó, dù cho cảnh cái đói, cái nghèo luôn đeo bám, bủa vây, sống trong cảnh lay lắt qua ngày nhưng người cố nông nghèo vẫn kiên quyết chịu kham khổ để thu vén, dành dụm cho con. Tất cả đã cho thấy vẻ đẹp trong tấm lòng của một người cha vị tha, giàu đức hi sinh và quên đi bản thân vì con cái.

Lão Hạc còn là người nông dân hiền lành, có tấm lòng nhân hậu, giàu tình cảm. Tất cả những vẻ đẹp này đã được thể hiện thông qua cách mà lão chăm sóc, nâng niu cậu Vàng. Lão xem cậu Vàng là chỗ dựa tinh thần, như người bạn để tâm sự, sẻ chia những nỗi niềm lúc tuổi già. Lão gọi nó bằng một cái tên đầy âu yếm và thân mật là cậu Vàng và dường như bao nhiêu tình yêu thương mà lão dành cho người con trai đều được sẻ chia với cậu Vàng: “Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm. Lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu. Lão ăn gì lão cũng chia cho nó cùng ăn”. Lão yêu thương, chăm sóc cậu Vàng như một đứa con cầu tự.

Tuy nhiên, vẻ đẹp nổi bật nhất trong tâm hồn người cố nông nghèo chính là giàu lòng tự trọng. Mặc dù sống trong cảnh nghèo đói, phải ăn củ khoai, củ sắn sống lay lắt qua ngày nhưng lão từ chối mọi sự giúp đỡ từ ông giáo với thái độ gần như là “hách dịch”. Và rồi khi không thể tiếp tục nuôi cậu Vàng, lão phải bán đi cậu Vàng nhưng cũng từ đó, lão luôn sống trong ân hận và day dứt khi “trót lừa một con chó”. Nỗi đau đó đã khiến lão chọn cái chết đầy dữ dội và đau đớn bằng bả chó như thể lão muốn tự trừng phạt bản thân và chuộc lỗi với cậu Vàng. Cái chết đó còn là sự lựa chọn của lão để gìn giữ nhân cách cao đẹp của mình trước cái đói và sự khốn cùng. Trước khi ra đi, người cố nông nghèo còn gửi tiền cho ông giáo để lo ma chay cho mình và không muốn phiền lụy đến hàng xóm. Những câu văn đầy ám ảnh về sự ra đi đau đớn, quằn quại của lão Hạc đã tô đậm và khẳng định hơn nữa nhân cách cao đẹp của lão Hạc, đồng thời thể hiện tiếng nói cảm thông của tác giả Nam Cao trước bi kịch của người nông dân, từ đó gián tiếp lên án, phê phán xã hội phong kiến nửa thực dân phi nhân đạo đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng không có lối thoát.

Bằng tài năng trong việc miêu tả tâm lí nhân vật, tác giả Nam Cao đã tái hiện thành công bức chân dung của người cố nông lương thiện với những nét đẹp về phẩm chất như giàu tình cảm, giàu lòng tự trọng, sống trong sạch, lương thiện. Chính những điều này đã góp phần làm nên giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc cho tác phẩm.

https://thuthuat.taimienphi.vn/ve-dep-con-nguoi-cua-lao-hac-trong-truyen-ngan-cua-nam-cao-51440n.aspx Lão Hạc là hình ảnh chân thực mà cũng đầy xót xa về tình cảnh và số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Cùng với bài Vẻ đẹp con người của lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao, các bạn có thể tìm hiểu về những nét đặc sắc của tác phẩm qua các bài: Tình cảnh của người nông dân qua truyện ngắn Lão Hạc, Phân tích bi kịch của lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao, Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, Phân tích diễn biến, tâm trạng lão Hạc xung quanh chuyện bán con chó Vàng.

Vẻ Đẹp Của Người Nông Dân Việt Nam Trước Cách Mạng Qua Truyện Ngắn “Lão Hạc” Của Nam Cao Và Truyện Ngắn “Làng” Của Kim Lân

Vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng qua truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao và truyện ngắn Làng của Kim Lân

Viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước cách mạng, mỗi nhà văn có cách khám phá khác nhau nhưng đều thống nhất ở chỗ họ là những con người hiền lành, chất phác, ham sống và không ngừng tìm cách vươn lên. Tuy mỗi số phận là một bi kịch, nhưng lúc nào họ cũng sống đầy lòng yêu thương. Nếu Tắt đèn của Ngô Tất Tố phát hiện ra sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong nhân vật chị Dậu – một người phụ nữ khốn khổ thì nam Cao lại tìm thấy tình người quý báu trong nhân vật Lão Hạc, Kim Lân bắt gặp tấm lòng yêu nước, yêu làng thắm thiết của nhân vật ông Hai.

Vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam trong hai tác phẩm trước hết họ là những người nông dân hiền lành, cần cù chịu khó, một đời chăm lo lo làm ăn.

Lão Hạc khi còn sức lực thì cầy thuê, cuốc mướn tự nuôi thân mình. Chưa bao giờ lão làm phiền một ai. Khi già yếu, lão vẫn gắng gượng, đem chút hơi tàn còn lại để kiếm sống. Ông Hai may mắn hơn Lão Hạc đó là ông còn có gia đình. Lúc còn ở làng, ông chăm chỉ làm ăn. Vợ ông cũng tảo tần buôn bán. Khi ở nơi tản cư, dù khó khăn nhưng ông cũng không chịu ngồi không bó gối. Ông tìm được mảnh đất, cần mẫn cuốc bới. Vừa làm việc, vừa trù tính cho tương lai một cách háo hức.

Họ là những người giàu lòng nhân ái. Dù trong nggichj cảnh, họ vẫn quyết giữ lấy phẩm chất cao cả, lương tâm trong sạch.

Lão Hạc là người cha hết mực yêu thương con. Có thể nói lão sống là để vì con, chỉ vài con. Vì nghèo không có niềm tiền mà con trai lão không lấy được vợ, phải bỏ nhà bỏ quê đi làm ăn xa. Điều đó khiến lão ăn năn nhiều lắm. Lão nhiều lần tự trách mình không chăm lo cho con được trọn vẹn. Bởi thế, khi anh con trai đi đồn điền, lão chắt chiu từng đồng để dành. Dù đau ốm, khó khăn, thiếu thốn đến mức nhịn ăn nhưng quyết không tiêu vào tiền hoa lợi từ mảnh vườn để dành cho con.

Không những yêu thương con trai, lão còn yêu thương cậu Vàng (con chó lão nuôi) như đứa con đặc biệt của mình. Có thể nói, tình yêu của lão Hạc dành cho cậu vàng thật đáng quý, hiếm gặp trên đời. Lão là người nghèo khó nhưng giàu lòng tự trọng. Chưa bao giờ lão phiền phức đến ai. Thấy lão khổ cực, đáng thương, ông Giáo âm thầm giúp đỡ nhưng lão từ chối tất cả. Biết mình đơn chiếc nên lão cũng đã sớm lo cho cái hậu sự của mình. Lão đem tiền gửi tiền ông giáo để lúc nằm xuống phải phiền lụy đến dân làng. Lão thà chết để giữ chọn ba sào vườn cho con trai.

Ông Hai cũng là người yêu thương con, thương vợ. Ông còn yêu thương cái làng chợ Dầu của mình nữa. Lúc nào ông cũng tự hào về cái làng chợ Dầu vừa đẹp, vừa to, lại có truyền thống đấu tranh kiên cường, anh dũng. Đi đâu ông cũng nới về cái làng ấy như thể nó là của riêng ông vậy.

Ông Hai yêu làng một cách vô tư. Chính nó là nguồn sống trong trái tim ông. Từ tình yêu làng chuyển biến lên tình yêu nước, tình yêu cách mạng, tình yêu lãnh tụ. Sự chuyển biến tình cảm trong ông hai khẳng định, ở người nông dân hiền lành ấy có một trái tim trong sáng, một nhân cách cao đẹp, một tình thần yêu làng, yeu nước thiết tha.

Ở mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, in đậm dấu ấn lịch sử.

Lão Hạc sống trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám. Cuộc đời Lão từ khi vợ chết có nhiều cơ cực, đau khổ. Là người nông dân nghèo, một mình nuôi con. cái nghèo đói lắm cuộc đời lão càng thêm tăm tối, bất hạnh. Lão ân hận, khổ sở vì không có tiền cho con lấy vợ. Lão lo tiền cho con, lo tiền làm ma cho mình hơn là lo cho cuộc sống hàng ngày của mình. Cuối cùng lão chọn đến cái chết như một sự giải thoát. Đó là một cái chết đau đớn, vật vã về thể xác (ăn bả chó tự tử) để giữ lấy lương tâm và phẩm giá trong sạch của mình.

Cuộc đời lão Hạc đi vào bước đường cùng không lối thoát. Dù lão đã gắng gượng hết mình nhưng cũng không thể thoát ra khỏi cái kết cục bi thảm. Cái chết của lão Hạc không khỏi khiến cho người đọc ngậm ngùi và cảm thương về cuộc đời khổ đau và số phận khắc nghiệt của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

Ông Hai nghèo khổ trong kháng chiến chống Pháp. Cách mạng đã đem cho ông sự suy nghĩ và hành động mới. Ông được sống trong tự do, được làm chủ bản thân và cuộc đời. Ông thoát khỏi sự áp bức nặng nề của chế độ thực dân phong kiến. Và vượt lên trên hết, ông còn có gia đình, có một nguồn vui sống dạt dào: tình yêu làng thiết tha. Ông hể hả, vui mừng tự tin và hiểu rõ trách nhiệm của mình trươc làng xóm, trước Cách mạng.

Nhân vật ông Hai trước hết là một người nông dân thuần khiết như bao người nông dân Việt Nam khác mang trong mình tình yêu làng quê thật giản dị mà sâu sắc. Ông thường hay nói về nó, kể về nó với một tâm trạng háo hức say mê. Đó là một ngôi làng với phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng. Chòi phát thanh cao bằng ngọn tre. Nhà ngói san sát, sầm uất như trên tỉnh. Đường cái quan to lớn, có lát đá sạch sẽ.

Không những đẹp về hình thức, làng ông còn đẹp cả trong tinh thần. Làng ông đã theo kháng chiến những ngày khởi nghĩa dồn dập. Cái làng với nhiều ụ, nhiều giao thông hào chuẩn bị kháng chiến…”. Và khi phải tản cư rồi, ông vẫn bồi hồi không yên. Từng ngày, ông luôn lắng nghe tin tức ở cái làng thân yêu của mình trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Ông đã vô cùng xấu hổ, đau xót và căm hận khi nghe làng mình theo tây. “Cổ ông nghẹn đắng”, “nước mắt trào ra”… .Và ông cũng thật hả hê, vui mừng khi được tin cải chính. Ông Hai là hình ảnh sinh động của những một người nông dân gắn bó với quê hương, yêu làng, yêu cuộc sống, yêu nước, yêu cụ Hồ, và hăng hái kháng chiến…

Cái nhìn chân thực về hình ảnh người nông dân trước cách mạng qua Lão Hạc (Nam Cao) và Làng (Kim Lân)Người nông dân Việt Nam ở hai thời kì đều mang những nét đẹp đặc trưng tiêu biểu cho truyền thống nông dân Việt nam. Đó là phẩm chất cần cù chịu khó, chăm chỉ lương thiện và giàu lòng nhân ái. Yêu nước, yêu quê hương (làng mình, mảnh vườn…). Cả hai nhân vật ông Hai và lão Hạc đều là những nông dân nghèo, chưa có nhận thức đầy đủ về giai cấp trước Cách mạng. Họ đã đi theo Cách mạng, tham gia kháng chiến. Vẻ đẹp ấy càng đẹp hơn bao giờ hết là tình yêu làng, yêu nước gắn với Cách mạng và Kháng chiến. Họ đã không thỏa hiệp với kẻ thù, không đội trời chung với kẻ thù, không là Việt gian bán nước.

H́ình ảnh người nông dân qua tác phẩm Lão Hạc(Nam Cao) và Làng (Kim Lân)

Lão Hạc (Nam Cao) và Làng (Kim Lân) là những truyện ngắn hiện thực xuất sắc giai đoạn 1930 – 1945, ra đời trong thời kì xã hội thực dân phong kiến, người nông dân chịu nhiều áp bức, bóc lột.

Hình ảnh người nông dân trong hai tác phẩm mang vẻ đẹp truyền thống của người nông dân Việt Nam:

– Họ là những người chăm chỉ, cần cù lao động:

+ Lão Hạc: già mà vẫn đi làm thuê, làm mướn ” để kiếm ăn”. Lúc ốm đau, cũng tự mình làm lụng. Lúc đói khát, mò cua bắt ốc để sinh sống.

+ Ông Hai: ở nơi tản cư ” hì hụi vỡ vạt đất rậm ngoài bờ suối từ sáng tới giờ” ,”tính để trồng thêm vài trăm gốc sắn ăn vào tháng đói” , ” hai vai mỏi nhừ”

– Họ là những người giàu lòng lòng tự trọng, sống trong sạch, lương thiện:

+ Lão Hạc gửi tiền cho ông giáo để lo ma chay cho mình, đỡ phiền hàng xóm,” từ chối hách dịch” sự giúp đỡ của ông giáo, sẵn sàng chết bằng liều bả chó chứ không sống bất lương như Binh Tư….

+ Ông Hai yêu làng tha thiết. Khi nghe tin làng theo giặc, ông vô cùng tủi hổ, đau đớn. Ở nơi tản cư, vợ chồng ông tự lo lấy cuộc sống, chẳng nhờ vả ai.

– Họ là những người hết lòng yêu thương con cái:

+ Lão Hạc nổi bật với phẩm chất giàu tình yêu thương con. Lão xót xa khi con phải đi mộ phu, lão nhớ con da diết( đếm từng ngày, tính từng giờ mong con về ” Bố cậu lâu lắm không có thư về…đi có lẽ đến ba năm…hơn ba năm…ngót bốn năm.. “.

Đỉnh điểm của lòng yêu thương con chính là lão sẵn sàng hi sinh tất cả vì con, sống vì con và chết vì con. Lúc sống: lão kiên quyết giữ mảnh vườn cho con vì nó là tương lai, hạnh phúc của con “ta không cho bán là ta có ý giữ cho nó”, “cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào..”, nhờ ông giáo viết văn tự giữ vườn….; Lão buộc phải chọn cái chết cũng là để giữ vườn cho con. Lão chết bằng bả chó, chứ không sống bất lương như Binh Tư, cũng là để giữ tiếng thơm cho con.

+ Ông Hai cũng là người yêu thương con tha thiết. Đi đâu về, ông cũng mua quà cho chúng. Nhìn thấy chúng tíu tít chia quà mà ông vui. Khi từ quán nước về, trong lòng buồn bã vì nghe tin làng theo giặc, nhìn mấy dứa nhỏ, ông xót xa trong lòng. Nghĩ đến tương lai của chúng khi làng theo giặc, không thể trở về làng, ông đớn đau, căm phẫn.

Bài Văn Thuyết Minh Truyện Ngắn Lão Hạc Của Nam Cao Hay, Ngắn Gọn

Đề bài: Thuyết minh truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao

Thuyết minh truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao

Bài làm:

Nam Cao được biết đến như một nhà văn hiện thực xuất sắc giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Những tác phẩm của ông phản ánh vô cùng chân thực, sinh động về cuộc sống lúc bấy giờ của con người. Nam Cao gắn liền tên tuổi của mình với những tác phẩm ghi dấu ấn đậm nét trong tâm hồn người đọc như Chí Phèo, Đời thừa, Sống mòn… Và không thể không nhắc đến lão Hạc, một trong những tác phẩm hay viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

Truyện ngắn lão Hạc được đăng báo vào năm 1943, là nội dung một bài học trong chương trình Ngữ Văn 8. Truyện ngắn kể về câu chuyện một nhân vật có tên lão Hạc, có hoàn cảnh rất đáng thương: Vợ lão mất sớm, lão phải sống một mình trong cảnh gà trống nuôi con. Thế nhưng vì mưu sinh, vì cái đói nghèo bủa vây mà con trai cũng bỏ lão mà đi kiếm sống ở đồn điền cao su. Lão Hạc lại sống cuộc sống buồn tủi, cô đơn và chỉ biết làm bạn với cậu Vàng. Niềm vui duy nhất ấy của lão cũng không được trọn vẹn khi lão phải bán đi người bạn thân thiết nhất vì hoàn cảnh. Lão đau đớn, ân hận và vô cùng day dứt vì điều này. Lão cố gắng dành dụm tiền bán mảnh vườn để dành cho con trai và lo chu toàn cho mình sau khi chết vì không muốn làm phiền, liên lụy đến mọi người xung quanh. Lão tìm đến cái chết như một sự giải thoát cho bản thân mình, cho số phận nghiệt ngã của mình. Cả cuộc đời lão Hạc là một chuỗi những bi kịch. Và đến cuối cùng, lão vẫn phải chịu bi kịch là cái chết đau thương, cay đắng.

Với câu chuyện thấm đượm tinh thần nhân đạo, Nam Cao đã vô cùng thành công khi khắc họa chân dung nhân vật lão Hạc, một người nông dân giàu tình cảm. Điều này được thể hiện rõ qua sự gắn bó, đau xót, tiếc thương của lão khi phải bán đi cậu Vàng. Bên cạnh đó, lão còn là một người cha yêu thương con hết mực, luôn nghĩ cho con và dành dụm cho con. Lão cũng là người có lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn nhưng không có những suy nghĩ, việc làm trái với lương tâm và cũng không muốn ảnh hưởng, phiền hà đến bất cứ ai.

Bên cạnh thành công về nội dung, truyện ngắn còn gây ấn tượng với người đọc bởi nghệ thuật tác giả sử dụng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên phải kể đến nghệ thuật xây dựng và khắc họa nhân vật vô cùng tiêu biểu, đậm nét. Lấy hình ảnh một con người để nói đến một bộ phận người. Ngôi kể của câu chuyện cũng vô cùng khách quan, tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện. Đó còn là nghệ thuật miêu tả chân dụng đặc sắc qua những điểm nhấn chi tiết tạo nên giá trị của chi tiết nghệ thuật. Sự kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình cũng tạo nên sự đa chiều của câu chuyện. Lúc là giọng văn tự sự mẫu mực, lúc lại khiến người đọc rưng rưng xúc động với những xúc cảm do tác giả thể hiện.

Truyện ngắn lão Hạc xứng đáng là một tác phẩm hay, một tác phẩm đẹp cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Đây xứng đáng là một tác phẩm xuất hiện trong tủ sách của mỗi người, bởi nó chứa đựng những giá trị vĩnh viễn, luôn đúng với thời gian. Lão Hạc cùng với nhà văn Nam Cao vẫn luôn in đậm trong tâm trí của người đọc mọi thế hệ.

Cảm Nghĩ Về Truyện Ngắn Lão Hạc Của Nam Cao

Chúng ta đã từng học qua những truyện như Lão Hạc, Tắt đèn và chắc không mấy ai trong số chúng ta lại không trầm trồ thán phục tài năng nghệ thuật của Nam Cao hay Ngô Tất Tố. Với riêng tôi, dù đã đọc đi đọc lại truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao rất nhiều lần nhưng dường như lần nào tôi cũng lại tìm thấy thêm được một vài điều lý thú. Nó cuốn hút tôi, lay động tôi, khi thì gợi trong tôi sự căm thù, khi lại gọi về chan chứa những yêu thương.

Lão Hạc là sản phẩm của một tấm lòng nhân đạo cao cả. Nó là tình yêu thương, là sự ngợi ca, trân trọng người lao động của Nam Cao. Giống như Ngô Tất Tố cùng nhiều nhà văn thời đó, Nam Cao đã dựng lên hình ảnh người nông dân Việt Nam trước cách mạng với những phẩm chất đáng quý, đáng yêu: chăm chỉ, cần cù, giàu tình yêu thương và giàu đức hy sinh.

Trước cách mạng, Nam Cao say sưa khám phá cuộc sống và tính cách của nông dân. Trong các tác phẩm của ông, môi trường và hoàn cảnh sống của nhân vật chính thường gắn liền với cái nghèo, cái đói, với miếng ăn và với các định kiến xã hội đã thâm sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ vào cách nhìn của con người ở nông thôn.

Lão Hạc cũng vậy, suốt đời sống trong cảnh nghèo và cái đói. Lão đã dành hầu như cả đời mình để nuôi con mà chưa bao giờ nghĩ đến mình. Lão thương con vô bờ bến: thương khi con không lấy được vợ vì nhà ta nghèo quá, thương con phải bỏ làng, bỏ xứ mà đi để ôm mộng làm giàu giữa chốn hang hùm miệng sói. Và đọc truyện ta còn thấy lão đau khổ biết nhường nào khi phải bán đi cậu Vàng, kỳ vật duy nhất của đứa con trai. Không bán, lão biết lấy gì nuôi nó sống? Cuộc sống ngày thêm một khó khăn. Rồi cuối cùng, đến cái thân lão, lão cũng không giữ được. Lão ăn củ chuối, ăn sung luộc. Nhưng lão nghĩ, lão “không nên” sống nữa. Sống thêm, nhất định lão sẽ tiêu hết số tiền dành dụm cho đứa con mình. Vậy là, thật đớn đau thay! Lão Hạc đã phải tự “sắp xếp” cái chết cho mình. Cuộc sống của nông dân ta trước cách mạng ngột ngạt đến không thở được. Nhìn cái hiện thực ấy, ta đau đớn, xót xa. Ta cũng căm ghét vô cùng bọn địa chủ, bọn thực dân gian ác.

Lão Hạc chết. Cái chết của Lão Hạc sáng bừng phẩm chất cao đẹp của người nồng dân. Nó khiến ta vừa cảm thương vừa nể phục một nhân cách giàu tự trọng. Lão chết nhưng đã quyết giữ cho được mảnh vườn, chết mà không muốn làm luỵ phiền hàng xóm. Cái chết của Lão Hạc thay cho lời tố cáo cái xã hội phi nhân đạo – một thứ sản phẩm hỗn tạp của phong kiến, thực dân.

Đọc Lão Hạc ta thấy đâu phải chỉ mình lão khổ. Những hạng người như Binh Tư, một kẻ do cái nghèo mà bị tha hoá thành một tên trộm cắp. Đó là ông giáo, một người trí thức đầy hiểu biết nhưng cũng không thoát ra khỏi áp lực của cảnh vợ con rách áo, đói cơm. Cái nghèo khiến ông giáo đã phải rứt ruột bán đi từng cuốn sách vô giá của mình. Nhưng cái thứ ấy bán đi thì được mấy bữa cơm? Vậy ra ở trong truyện tất cả đã đều là Lão Hạc. Lão Hạc phải oằn mình mà chết trước thử hỏi những người kia có thể cầm cự được bao lâu?

Ở tác phẩm Lão Hạc, ta có thấy niềm tin và sự lạc quan của nhà văn vào bản chất tốt đẹp của con người. Thế nhưng điều quan trọng hơn mà nhà văn muốn nhắn gửi đó là một lời tố cáo. Nó cất lên như là một tiếng kêu để cứu lấy con người. Từ chiều sâu của nội dung tư tưởng, tác phẩm nói lên tính cấp bách và yêu cầu khẩn thiết phải thay đổi toàn bộ môi trường sống để cứu lấy những giá trị chân chính và tốt đẹp của con người.

Lão Hạc cho ta một cái nhìn về quá khứ để mà trân trọng nhiều hơn cuộc sống hôm nay. Nó cũng dạy ta, cuộc sống là một cuộc đấu tranh khỏng phải chỉ đơn giản là để sinh tồn mà còn là một cuộc đấu tranh để bảo toàn nhân cách.

Cảm nghĩ về truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao – Dàn ý

A.Mở bài:

– Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,… Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo. Các sáng tác của ông vừa rất mực chân thực, vừa có một ý vị triết lí mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những tác phấm tiêu biểu như thế! Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ.

B. Thân bài:

I. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):

– Xuất hiện lần đầu trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” năm 1943, “Lão Hạc” của Nam Cao được đánh giá là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng. Đến với tác phẩm, người đọc bùi ngùi thương cảm cho kiếp sống bèo bọt nổi lên trên mặt bể hiện tượng, đồng thời hiểu được sự tha hóa biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội đương thời.

II. Tình cảnh thống khổ của người nông dân trước Cách mạng:

– Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp ta hiểu về tình cảnh thống khổ của người nông dân trước Cách mạng.

1. Lão Hạc:

– Cuộc đời của lão Hạc là một chuỗi những đau khổ và bất hạnh. Một kiếp đời chua chát và đắng cay.Vợ lão mất sớm, một mình lão “gà trống nuôi con”.Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Những ngày tháng xa con, lão sống trong nỗi lo âu, phiền muộn vì chưa làm tròn bổn phận của người cha. Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời, lão phải sống trong cô độc, thui thủi một mình. Lão bầu bạn với con chó vàng – kỉ vật của người con để lại. Lão yêu nó, coi nó như người thân. Nhưng sự túng quẫn ngày càng đe dọa lão. Lão phải bán “cậu Vàng” đi vì không thể lo mỗi ngày 3 hào gạo cho cả nó và lão. Sau trận bão, lão không thể kiếm ra tiền mà “tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu”. Ông lão nông nghèo khổ ấy cứ băn khoăn, day dứt mãi vì đã trót lừa một con chó.Sau khi bán chó, lão chỉ ăn khoai; rồi khoai cũng hết. Từ đó, lão chế tạo được món gì ăn món ấy. Cuối cùng, lão quyết định tự tử bằng bả chó. Lão chết vì không còn đường sống. Ông lão nông dân suốt đời lao động cần cù ấy không thể sống, dù là sống trong nghèo khổ. Cuộc sống khốn cùng và cái chết bi thương của lão Hạc đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của người nông dân trong cái xã hội tăm tối đương thời. Phải cảm thông sâu sắc với người nông dân, phải thấu hiểu nỗi đau của họ, Nam Cao mới thấy được cái tình cảnh khốn cùng của người nông dân.

2. Con trai lão Hạc:

– Vì nghèo đói, không có được hạnh phúc bình dị như mình mong muốn, anh con trai phẫn chí bỏ làng đi đồn điền cao su. Anh ra đi với hi vọng “có bạc trăm” mới trở về” vì “Sống khổ, sống sở ở cái làng này nhục lắm!”. Nhưng, cái nơi anh đến lại là địa ngục trần gian: “Cao su đi dễ khó về/Khi đi trai tráng khi về bủng beo”. Nghèo đói, đã đẩy anh vào tấn bi kịch không có lối thoát.

3. Ông giáo:

II. Vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người nông dân:

– Ý chuyển đoạn:

Đọc truyện “Lão Hạc” ta bắt gặp bao con người, bao số phân, bao mảnh đời đáng thương, bao tấm lòng đáng trọng. Giữa bóng tối cuộc đời cùng quẫn sau lũy tre làng, ta vẫn tìm thấy ít nhiều ánh sáng tâm hồn nhân hậu, chan chứa yêu thương.

1. Nhân vật Lão Hạc:

– Lão Hạc là một lão nông dân nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.

a,Lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu:

-Ở lão có một tấm lòng vị tha, nhân hậu.Tình cảm của lão với “cậu Vàng” được tác giả thể hiện thật cảm động. Lão gọi nó là “cậu Vàng” như “một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”. Lão bắt rận, cho nó ăn cơm trong một cái bát như nhà giàu.Lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng; lão ăn bao nhiêu, nó cũng ăn như thế, thậm chí còn hơn phần lão…Lão coi nó như một người bạn,ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là con người.Tình thế cùng đường khiến lão phải bán nó thì trong lão diễn ra sự dằn vặt, đau khổ tột độ. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán “cậu Vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước”. Đến nỗi ông giáo thương quá, “muốn ôm chầm lấy lão mà òa lên khóc”.Khi nhắc đến việc “cậu Vàng” bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không nén nổi đau dớn cứ dội lên “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Lão Hạc đau đớn đến thế không phải chỉ vì quá thương con chó mà còn vì không thể tha thứ cho mình vì đã trót lừa một con chó. Ông lão quá lương thiện ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi nhận thấy trong đôi mắt con chó có cái nhìn trách móc. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch thì mới bị giày vò lương tâm đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy!

b, Tình yêu thương con sâu sắc:

Đối với cậu Vàng, lão yêu quí như vậy, thì đối với anh con trai của lão, thì tình cảm ấy còn được nhân lên gấp vạn lần. Chỉ vì nhà nghèo, không cưới được vợ cho con, làm con uất chí, bỏ đi đồn điền cao su mà lão tự dằn vặt mình mãi. Để cưới vợ, anh con trai đòi bán mảnh vườn, nhưng lão không cho không phải vì lão muốn giữ mảnh vườn cho lão, mà lão nghĩ nếu cưới vợ về, vườn bán rồi thì ở đâu mà làm ăn sinh sống, và rồi có bán thì cũng làm sao mà đủ tiền. Lão nghĩ thế, nhưng anh con trai có thấu cho lão?Anh bỏ đi đồn điền cao su, để lại lão ở nhà vò võ chờ con.Lão nghĩ tốt, lo cho tương lai con, nhưng khi con trai bỏ đi, lão lại tự dằn vặt mình, đày đọa tinh thần mình.Những câu nói lão nói với cậu Vàng, nhưng lại chất chưa biết bao nhiêu tình cảm nhớ thương cho anh con trai. Lão nói với cậu Vàng đấy, nhưng lại như nói với con mình.Lão làm việc gì, lão suy nghĩ gì cũng là hướng về con trai mình. Tiền bòn vườn lão để dành, không tiêu tới để khi con trai về, lão nhẩm tính sẽ có gần trăm đồng bạc, thêm vào cho con cưới vợ và làm kế sinh nhai.Thế nhưng, lão lại ốm. Một cơn ốm kéo dài buộc lão phải tiêu tới số tiền đó.Chỉ vậy thôi mà lão đã thấy đau lòng.Lão ăn vào tiền của con trai lão – số tiền mà khi con trai về lão định trả con. Điều này làm lão khổ tâm hết sức. Hành động của lão gửi ông giáo mảnh vườn, nhờ ông giáo giữ hộ cũng là để giữ hộ cho con lão : “của mẹ nó thì nó hưởng”. Mọi suy nghĩ, việc làm của lão đều hướng tới con trai. Thậm chí, cái chết của lão cũng là vì con.Lão chết để mở ra đường sống cho con lão, lão chết một cái chết trong sạch để lại tiếng thơm cho con vì lão sống ngày nào là ăn vào tiền, vào đường sống của con ngày ấy. Xưa nay, không ít người cha, người mẹ hi sinh cơm ăn, áo mặc vì con, hi sinh một phần thân thể vì con nhưng hi sinh cả mạng sống của mình như lão Hạc lại là một trường hợp hiếm thấy. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt. Không ồn ào, sôi nổi, không thể hiện qua hành động hay lời nói, lão lặng lẽ yêu con trong tâm tưởng, mọi hành động của con lão đều cho là do lão. Là do lão đẩy con tới những hành động ấy rồi tự dằn vặt mình, tự gánh lấy những suy nghĩ, hành động để chuộc lại lỗi lầm. Quả thật, tình yêu thương con của lão khiến chúng thật vô cùng cảm động.

c,Lòng tự trọng:

-Lão Hạc mang một tấm lòng tự trong cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình.Khi bán con chó, lão đau khổ, vì lão “bằng này tuổi đầu mà còn trót lừa một con chó”. Lão nhớ ảnh mắt của cậu Vàng, mà theo như lời lão là một ánh mắt đầy trách móc, mắng lão tệ hại: “A!Lão già tệ lắm!Tôi ăn ở với lão thế mà lão đối xử với tôi thế này à”. Ánh nhìn đó làm lão ám ảnh và day dứt không nguôi. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão lại chuẩn bị sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút ít, còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. Từ đó, lão bòn vườn, mò cua,ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Có lẽ hành động bán cậu Vàng của lão chính là bước chuẩn bị cho cái chết của lão. Lão xin Binh Tư ít bả chó với lý do bắt cho nhà khác – một lý do làm Binh Tư tự nghĩ lão giả bộ hiền lành thế nhưng cũng ghê ra phết, một lý do làm ông giáo hiểu lầm lão, hiểu lầm một con người đã “khóc vì trót lừa một con chó, một con người nhịn ăn để có tiền làm ma”.Vậy nhưng hóa ra, lão ăn bả chó để tử tự, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão. Lão ăn bả chó, lão chết như một con chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn, để chuộc tội với cậu Vàng. Lão chết cũng là để không bị cuộc sống dồn đẩy, bị sa hóa biến chất như Binh Tư, hay Chí Phèo.Cái chết của lão cũng chính là sự tự trọng của lão với con lão. Lão sống mà phải dựa vào tiền của con thì thà lão chết còn hơn.Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng trân trọng – lòng tự trọng của lão nông nghèo nhưng trong sạch. Lão chọn “chết trong còn hơn sống đục” khi bị dồn vào đường cùng.

2. Nhân vật ông giáo:

– Bên cạnh lão Hạc, nhân vật ông giáo đã để lại bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta về người trí thức nghèo trong xã hội. Không rõ họ tên là gì, nhưng hai tiếng “ông giáo” đã khẳng định vị thế con người giữa làng quê trước năm 1945 “nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận,người ta kiêng nể”. Ông giáo là người có trái tim nhân hậu đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư,nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và chuyện đứa con trai “phẫn chí” không lấy được vợ. San sẻ nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên… Có lúc là điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang… Ông giáo đã đồng cảm, sẻ chia với lão Hạc với tất cả tình người. Ông giáo còn ngấm ngầm giúp đỡ lão Hạc khi biết lão đã nhiều ngày ăn rau, ăn khoai,ăn củ ráy… trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói. Cái nghĩa cử “lá lành đùm lá rách” ấy mới cao đẹp làm sao! Ông giáo nghèo mà đức độ, là người để lão Hạc “chọn mặt gửi vàng”. Trước khi tìm đến với cái chết, lão Hạc đã tin cậy nhờ vả ông giáo :trông nom mảnh vườn cho con trai, cầm giúp 30 đồng bạc phòng khi lão chết “gọi là của lão có tí chút”… Trước cái chết của lão Hạc, ông giáo xót xa, khe khẽ cất lời than khóc trước vong linh người láng giếng hiền lành, tội nghiệp: “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Ðến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn : Ðây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn : cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào…” Lời hứa của ông giáo và những giọt lệ xót xa là minh chứng cho một nhân cách cao đẹp, đáng trọng. Ông giáo đại diện tiêu biểu cho tình yêu thương, chia xẻ, sự đồng cảm, niềm tin ở vẻ đẹp con người và cũng chính là một vẻ đẹp. Nhất là trong một xã hội mà vì nghèo khổ quá người ta nghi ngờ nhau, không thể đến được với nhau, không tin vào sự tốt đẹp của nhau.

III. Sự tha hóa biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội phong kiến đương thời:

-Truyện giúp ta hiểu sự tha hoá biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội đương thời.Binh Tư vì miếng ăn mà sinh ra làm liều bản chất lưu manh đã chiến thắng nhân cách trong sạch của con người. Vợ ông giáo vì nghèo đói cùng quấn mà sinh ra ích kỷ nhỏ nhen, tàn nhẫn, vô cảm trước nỗi đau của người khác.

-Truyện ngắn “Lão Hạc” đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Thông qua câu chuyện, Nam Cao muốn bày tỏ sự cảm thông với tình cảnh thống khổ của người nông dân và ca ngợi những phẩm chất quý báu ở họ; tố cáo, lên án xã hội cũ đã đẩy con người vào bi kịch đói khổ, bị tha hóa biến chất. Qua cái nhìn của ông giáo, Nam Cao đã gián tiếp thể hiện tấm lòng của mình với người nông dân và đặt ra vấn đề về “đôi mắt” : “Than ôi!Nếu những người ở xung quanh, ta không cố mà tìm hiểu họ, ta chỉ thấy họ bần tiện, ngu ngốc, xấu xa, bỉ ổi, toàn những lí do để ta không thương và không bao giờ ta thương”. Tác giả cũng đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất rõ nét được thể hiện qua những hành động, lời nói, nhiều đoạn đối thoại, độc thoại, sử dụng nhiều khẩu ngữ. Đặc biệt, để ông giáo vừa đóng vai trò người kể chuyện, vừa đan xen bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc về lão Hạc, về người vợ, về chính bản thân mình, tác giả đã tạo nên chất triết lí sâu sắc cho tác phẩm – một đặc điểm khá nổi bật trong sáng tác của nhà văn Nam Cao.

C. Kết bài

– Những trang viết về tấm lòng trong sạch, lương thiện của người nông dân và số phận bi thảm của họ là những trang viết thấm đượm tấm lòng nhân đạo thống thiết của nhà văn với con người và niềm thiện cảm sâu sắc của nhà văn với người nông dân. Với một “Lão Hạc” xuất sắc đến vô cùng, Nam Cao đã khẳng định được tên tuổi của mình. Ông đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi” và ghi lại trong lòng độc giả những tình cảm yêu mến.

Thống kê tìm kiếm

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Văn Vẻ Đẹp Con Người Của Lão Hạc Trong Truyện Ngắn Của Nam Cao, Ha trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!