Xu Hướng 3/2023 # Các Cơ Chế Của Liên Hợp Quốc Về Bảo Vệ Và Thúc Đẩy Quyền Con Người # Top 9 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Các Cơ Chế Của Liên Hợp Quốc Về Bảo Vệ Và Thúc Đẩy Quyền Con Người # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Các Cơ Chế Của Liên Hợp Quốc Về Bảo Vệ Và Thúc Đẩy Quyền Con Người được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Ngô Thị Bích Quyên – Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Topcareer

Về cơ bản, cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được thể hiện ở bộ máy các cơ quan và quy tắc, thủ tục về thúc đẩy, bảo vệ quyền con nguởi trong tổ chức Liên hợp quốc. Dựa trên địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy thì các cơ quan về quyền con người của Liên hợp quốc được chia thành hai dạng: Các cơ quan được thành lập (hoặc dựa trên) Hiến chương (charter – based mechanism) và cơ chế qua charter bodies, và các cơ quan được thảnh lập theo hoặc dựa trên một số điều ước quan trọng về quyền con người (treaty bodies). Một số tài liệu gọi hệ thống các cơ quan và thủ tục này là cơ chế dựa trên Hiến chương (charter based mechanism) và cơ chế dựa trên điều ước (treaty based mechanism).

1.  Cơ chế dựa trên Hiến chương (Charter – based mechanism)

Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc nên cả 6 cơ quan chính (Đại hội đồng – General essembly; Hội đồng bảo an – Security council, Hội đồng kinh tế và xã hội – Economic and social council Ecosoc; Hội đồng quản thác – Trusteeship council và Tòa án quốc tế – Intemetional court of justice) đều có trách nhiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, có một số cơ quan giúp việc về quyền con người; xây dựng và thực thi quy chế để huy động sự tham gia, hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (quốc tế, khu vực và quốc gia) vào hoạt động thúc đầy và bảo vệ quyền con người. Cụ thể như sau:

1.1.   Hội đồng quyền con người của Liên hợp quốc

Hội đồng quyền con người của Liên hợp quốc (UN Human Rights Council – HRC) là cơ quan mới được thành lập theo Nghị quyết số 60/251 ngày 03/4/2006 của Đại hội đồng Liên hợp quốc để thay thế cho Ủy ban quyền con người (CHR). Do Ủy ban quyền con người trước đây và Hội đồng quyền con người (HRC) hiện nay, đóng vai trò “đầu tàu” trong bộ máy các cơ quan về quyền con người Liên hợp quốc, nên sự kiện thành lập HRC được nhiều tổ chức và chuyên gia đánh giá là hứa hẹn mở ra “một trang mới” trong hoạt động của Liên hợp quốc trên lĩnh vực này.

Phương thức hoạt động của HRC là đưa ra báo cáo hoạt động hàng năm với Đại hội đồng hay còn gọi là cơ chế “Đánh giá định kỳ chung (phổ quát) – Universal Periodic Review – UPR). Thay thế cho phương thức hoạt động của ủy ban nhân quyền trước đây là: Hàng năm, chọn ra các vụ việc nghiêm trọng nhất về quyền con người xảy ra ở các quốc gia trên thế giới để đưa ra xem xét, đánh giá, thì Hội đồng quyền con ngưòi tiến hành một thủ tục mới là đánh giá định kỳ chung (UPR). UPR sẽ đánh giá định kỳ việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về quyền con người của tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc dựa trên các báo cáo từ các nguồn khác nhau.

Để thực hiện UPR, một Nhóm công tác (working group) về UPR do HRC thành lập sẽ tiến hành ba kỳ họp mỗi năm, mỗi kỳ họp kéo dài 2 tuần để đánh giá 16 quốc gia. Như vậy, mỗi năm UPR sẽ đánh giá đuợc 48 quốc gia và phải mất bốn năm để hoàn tất thủ tục này với toàn bộ 192 quốc gia thành viên của Liên hơp quốc (dự tính đến hết năm 2011, với 12 kỳ họp mới có thể kết thúc vòng đánh giá đầu tiên theo UPR).

Tiến trình UPR về cơ bản bao gồm các bước như sau:

-          Xem xét, đánh giá: Được thực hiện ở Geneva dưới dạng đối thoại trong ba giờ giữa quốc gia được xem xét với các thành viên Nhóm công tác về UPR, các quốc gia thành viên và quan sát viên của HRC.

-          Thực hiện các khuyến nghị: Quốc gia được xem xét sẽ áp dụng các khuyến nghị đã nêu trong báo cáo và thông báo về kết quả của việc áp dụng các khuyến nghị đó trong lần báo cáo định kỳ tiếp theo của nước mình.

1.2.  Ủy ban cố vấn (Advisory Committee)

Tương tự như mô hình tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của CHR trước đây, HRC thành lập một ủy ban cố vấn để hỗ trợ Hội đồng trong các hoạt động chuyên môn. Ủy ban này bao gồm 18 chuyên gia được Hội đồng bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín từ danh sách các ứng cử viên mà các quốc gia thành viên đề cử. Mặc dù vậy, các chuyên gia thành viên của ủy ban hoạt động với tư cách cá nhân. Nhiệm kỳ của mỗi chuyên gia là 3 năm, chỉ được bầu lại một lần.

Cơ cấu của ủy ban cố vấn được cân nhấc để đảm bảo tính cân bằng về giới và về khu vực địa lý. Cụ thể, để đảm bảo sự cân bằng về khu vực địa lý, thành phần của ủy ban được phân bổ như sau: Các quốc gia châu Phi: 5 ghế; các quốc gia Châu Á: 5 ghế; các quốc gia Đông Âu: 2 ghế; các quốc gia Châu Mỹ La tinh và Caribê: 3 ghế; các quốc gia Tây Âu và các quốc gia ở khu vực khác: 3 ghế.

Về hoạt động, ủy ban cố vấn họp tối đa 2 kỳ một năm, mỗi kỳ tối đa 10 ngày, ngoài ra có thể họp các kỳ bổ sung với sự chấp thuận của HRC. Về trách nhiệm, ủy ban cố vấn chịu sự điều phối của HRC. Hội đồng có thể yêu cầu toàn bộ, một nhóm thành viên hoặc một cá nhân thành viên của ủy ban cố vấn thực hiện những nhiệm vụ nhất định.

2. Cơ chế dựa trên công ước (Treaty – based mechanism)

Cơ chế này được dựa trên các ủy ban giám sát việc thực hiện một số công ước quốc tế về quyền con người (treaty-based bodies), được thành lập theo quy định của chính các công ước đó (ngoại trừ Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được thành lập theo một Nghị quyết của ECOSOC).

Hiện tại, có 9 công ước được coi là điều ước quốc tế căn bản về quyền con người (core international human riẹhts treaties) của Liên hợp quốc. Một trong số đó hiện chưa có hiệu lực là Công ước về cưỡng bức đưa đi mất tích. Các công ước còn lại được giám sát bởi các ủy ban giám sát và một cơ quan tương tự là nhóm công tác. Cụ thể, các Ủy ban giám sát công ước đang hoạt động bao gồm: ủy ban về xoá bỏ sự phân biệt chủng tộc (thành lập theo Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965); ủy ban quyền con người (thành lập theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966); ủy ban về xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ (thành lập theo Công ước quốc tế về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979); ủy ban chống tra tấn (thành lập theo Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác năm 1987); ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá (thành lập theo một nghị quyết của ECOSOC); ủy ban về quyền trẻ em (thành lập theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989); Ủy ban bảo vệ quyền của những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ (thành lập theo Công ước về bảo vệ quyền của những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ năm 1990); ủy ban về quyền của người khuyết tật (thành lập theo Công uớc về quyền của người khuyết tật năm 2007).

3. Những điểm khác biệt cơ bản giữa hai cơ chế

Việc áp dụng cơ chế dựa trên Hiến chương là nghĩa vụ phổ quát, có tính chất bắt buộc giữa các quốc gia trên thế giới. Còn cơ chế dựa trên công ước thì phụ thuộc vào việc quốc gia đó tham gia vào điều ước như thế nào.

1.Hiến chương Liên Hiệp Quốc của Liên Hiệp Quốc (Conference on International Organization) ký kết tại San Fransisco, California, Hoa Kỳ, ngày 26/6/1945 bởi 50 nước thành viên đầu tiên, có hiệu lực từ ngày 24/10/1945 sau khi được phê chuẩn bởi 5 nước thành viên sáng lập – Trung Quốc, Liên Xô, Pháp, Anh, Hoa Kỳ và nhiều nước khác.

2. Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, Khoa Luật – ĐHQGHN, 2009.

Công Ước Liên Hợp Quốc Về Luật Biển 1982: Cơ Sở Pháp Lý Quốc Tế Để Bảo Vệ Quyền Lợi Của Việt Nam Trên Biển Đông

Công ước Luật biển 1982 là hiến pháp của biển, là cơ sở pháp lý chung cho việc giải quyết các tranh chấp biển, trong đó có phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước xung quanh Biển Đông. Bài viết nhân kỷ niệm 30 năm ngày ký kết và nhân ngày Viêt Nam thông qua Luật biển.

Sau hơn 4 năm chuẩn bị và 9 năm đàm phán, ngày 10/12/1982, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982), tên tiếng Anh là United Nations Convention on the Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS 1982, được 107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Montego Bay, Jamaica (tính đến nay, số quốc gia ký là 157), đánh dấu thành công của Hội nghị LHQ về Luật biển lần thứ 3, với sự tham gia của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ, cùng xây dựng nên một Công ước mới về Luật biển, được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển, cùng chấp nhận.

Sau Hiến chương LHQ, Công ước Luật biển 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 (12 tháng kể từ ngày Guyana, nước thứ 60 phê chuẩn Công ước ngày 16/11/1993). Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9 Phụ lục, với hơn 1000 quy phạm pháp luật,Công ước Luật biển 1982 đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.

Công ước Luật biển 1982 thực sự là một bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế bởi Công ước không chỉ bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là văn bản pháp điển hoá các quy định mang tính tập quán. Công ước Luật biển 1982 thể hiện sự thoả hiệp mang tính toàn cầu, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay là nước đang phát triển… Công ước không chấp nhận bảo lưu mà đòi hỏi các quốc gia phải tham gia cả gói ( package deal), có nghĩa là việc phê chuẩn hoặc tham gia Công ước đòi hỏi quốc gia phải có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước.

Tính đến ngày 3/6/2011, đã có 162 nước phê chuẩn và tham gia Công ước Luật biển 1982 (Thái lan là quốc gia thứ 162 gia nhập ngày 15/5/2011).

1. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền đầy đủ đối với vùng lãnh hải mà họ có quyền thiết lập với chiều rộng không quá 12 hải lý. Tuy vậy, chủ quyền này không phải là tuyệt đối vì tầu thuyền nước ngoài được phép “đi qua vô hại” trong vùng lãnh hải. Tầu thuyền và máy bay được phép “đi quá cảnh” qua các dải hẹp, eo biển được sử dụng cho hàng hải quốc tế.

4. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với vùng ĐQKT rộng tối đa 200 hải lý, đối với tài nguyên thiên nhiên và một số hoạt động kinh tế, và thực hiện quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và tự do hàng không và tự do đặt dây cáp ngầm và đường ống.

5. Quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có quyền tham gia trên cơ sở công bằng trong việc khai thác một phần thích hợp trong số phần dư dôi của các tài nguyên sống trong vùng ĐQKT của quốc gia ven biển trong cùng khu vực hoặc tiểu khu vực; các loài di cư như cá hoặc sinh vật biển được bảo vệ đặc biệt.

7. Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do truyền thống về hàng hải, bay qua, nghiên cứu khoa học và đánh cá trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau trong việc thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn các tài nguyên sống trên biển.

8. Các quốc gia có chung biên giới với biển kín hoặc nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc quản lý tài nguyên sống, có chính sách và hoạt động về môi trường cũng như nghiên cứu khoa học. Các quốc gia không có biển có quyền tiếp cận với biển và được tự do quá cảnh thông qua nước quá cảnh để ra biển.Các quốc gia phải ngăn chặn và kiểm soát ô nhiểm môi trường biển và phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình để kiềm chế những sự ô nhiễm đó.

9. Tất cả các nghiên cứu khoa học trong vùng ĐQKT và thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Tuy vậy, hầu như trong tất cả mọi trường hợp, quốc gia ven biển có trách nhiệm đồng ý với đề nghị của các quốc gia khác khi việc nghiên cứu được tiến hành vì mục đích hoà bình và đã thực hiện một số yêu cầu chi tiết. Các quốc gia cam kết tăng cường phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển trong những điều kiện ” công bằng và hợp lý” có tính đến đầy đủ những lợi ích hợp pháp.

Tham gia Công ước Luật biển 1982, Việt Nam, quốc gia ven biển, được thừa nhận có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng ĐQKT rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý và có thể mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Diện tích các vùng biển và thềm lục địa mà nước ta được hưởng theo quy định của Công ước, khoảng gần một triệu Km2, rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền.

Công ước Luật biển 1982 đã trở thành cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, quan trọng, được thừa nhận và luôn được viện dẫn trong cuộc đấu tranh cam go, phức tạp để bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa và các quyền và lợi ích chính đáng của nước ta trên biển. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh những những chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập liên tục, hoà bình từ lâu đời đối với hai quần đảo, Công ước là công cụ pháp lý để phản bác những yêu sách phi lý, ngang ngược của Trung Quốc đối với cái gọi là “đường lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, vốn là vùng biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Công ước Luật biển 1982 cũng là cơ sở pháp lý chung cho việc phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa nước ta với các nước xung quanh Biển Đông như Cămpuchia, Thái lan, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia…góp phần tạo dựng sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo môi trường ổn định, hoà bình, hợp tác và phát triển trong Biển Đông.

Sau 30 năm kể từ khi ra đời, không thể phủ nhận tầm quan trọng và vị trí pháp lý của Công ước Luật biển 1982 trong đời sống luật pháp quốc tế. Tại Hội nghị lần thứ 22 các quốc gia thành viên của Công ước, tổ chức tại NewYork tháng 6/2012, một lần nữa Công ước được khẳng định là thành tựu của nhân loại bởi những quy định của nó là kết quả của sự hợp tác – đấu tranh – xây dựng nhiều năm giữa các quốc gia trên thế giới với các chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, quan điểm luật pháp… khác nhau; là sự thoả hiệp giữa các quốc gia vì một nhận thức chung đối với tầm quan trọng sống còn của biển và đại dương đối với sự phát triển của nhân loại.Khi trở thành thành viên của Công ước, các quốc gia có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ các quy định trong Công ước, không có ngoại lệ, và không có bảo lưu. Do đó, không thể có quốc gia nào, khi tham gia sân chơi luật pháp chung này, lại chỉ viện dẫn và áp dụng những quy định trong Công ước có lợi cho quốc gia mình, hoặc không tuân thủ, thậm chí phủ nhận, những quy định không có lợi cho quốc gia mình./.

Quy Chế Bảo Vệ Cơ Quan

V/v ban hành Quy chế Bảo vệ chính trị nội bộ – Bảo vệ nhà trường

của trường THCS TÂN HIỆP

HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TÂN HIỆP

Căn cứ luật Giáo dục.năm 2005 sửa đổi;

Căn cứ Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo v/v ban hành điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học;

QUYẾT ĐỊNH: Điều 1.

Căn cứ quy định về bảo vệ cơ quan, trường học;

Điều 2.

Ban hành kèm theo Quyết định này Quy chế Bảo vệ chính trị nội bộ – Bảo vệ nhà trường của trường THCS Tân Hiệp bắt đầu từ năm 2015 và những năm tiếp theo.

Điều 3.

Qui chế này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01 / 2015 cho đến khi có quyết định ban hành qui chế mới.

CBQL, Bộ phận Chuyên môn, Kế toán, giáo viên và nhân viên trong đơn vị có trách nhiệm thi hành quyết định này./.

HIỆU TRƯỞNG

– PGD&ĐT ( báo cáo);

– Cán bộ, Viên chức;

– Lưu: “VT”.

Lữ Văn Mai

( VB giấy và ĐT)

QUY CHẾ

Bảo vệ chính trị nội bộ – Bảo vệ nhà trường

( theo QĐ số 300/QĐ-THCS ngày 20/01/2015 )

I. ĐỐI VỚI PHHS VÀ KHÁCH VÀO CƠ QUAN :

1/ Khách vào cơ quan phải được sự đồng ý của lãnh đạo cơ quan, đi lại phải có sự hướng dẫn của bảo vệ thường trực. Không gây mất trật tự, ảnh hưởng đến giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.

2/ Khách không được mang chất cháy, chất nổ, chất gây ô nhiễm vào cơ quan.

3/ Ở những nơi dễ cháy có treo biển nguy hiểm, cấm lửa, cấm hút thuốc, quy định PCCC khách phải tuyệt đối chấp hành.

II. ĐỐI VỚI CB – GV – CNV TRONG CƠ QUAN:

1/ Cán bộ công nhân viên cơ quan không mang chất cháy, chất nổ, chất gây ô nhiễm vào khu vực làm việc.

2/ Cán bộ công nhân viên không được cung cấp thông tin cho các tổ chức, cá nhân khi chưa có sự đồng ý của lãnh đạo trường.

3/ Cán bộ công nhân viên cơ quan phải có nghiã vụ thực hiện trực bảo vệ cơ quan trong các ngày lễ, Tết, dịp Hè.

4/ Tuyệt đối chấp hành các quy định về an toàn giao thông, phòng chống cháy – nỗ và các quy định về bảo vệ an toàn cơ quan.

Mỗi CB-CNV ( kể cả khách và PHHS ) phải thực hiện tốt quy chế Bảo vệ chính trị nội bộ – Bảo vệ nhà trường do cơ quan đề ra.

Đơn vị hoặc cá nhân có thành tích về công tác quy chế Bảo vệ chính trị nội bộ – Bảo vệ nhà trường sẽ được khen thưởng. Những trường hợp vi phạm quy định này sẽ tuỳ mức độ nặng nhẹ mà xử lí theo quy định ./.

Thúc Đẩy Hợp Tác An Ninh Mạng Việt Nam

Chiều ngày 29/9, tại Hà Nội, Bộ Công an nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Truyền thông và Thông tin Singapore đã tổ chức Hội nghị trực tuyến cấp Bộ trưởng về An ninh mạng.

Đoàn đại biểu Bộ Công an Việt Nam do Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an làm Trưởng đoàn. Đoàn đại biểu Bộ Truyền thông và Thông tin Singapore do Ngài S. Iswaran, Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng phụ trách An ninh mạng, làm Trưởng đoàn.

Hội nghị trực tuyến cấp Bộ trưởng về An ninh mạng. Ảnh: AN.

Phát biểu tại hội nghị, Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an nhấn mạnh, tại Việt Nam, việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, viễn thông, Internet đang diễn ra mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất và cạnh tranh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức, hiểm họa khôn lường từ không gian mạng, trực tiếp đe dọa đến an ninh quốc gia (ANQG), trật tự an toàn xã hội (TTATXH). Trong đó, đáng chú ý là hoạt động tội phạm sử dụng công nghệcao gia tăng cả về số vụ, tính chất, mức độ nghiêm trọng với nhiều phương thức, thủ đoạn mới làm ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, gây khó khăn trong công tác phòng ngừa, đấu tranh.

Trước tình hình đó, Việt Nam chú trọng nâng cao năng lực bảo đảm an ninh mạng đối với các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia thông qua việc ban hành Luật An ninh mạng năm 2018 và triển khai “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Đồng thời, Việt Nam cũng quan tâm xây dựng các quy tắc ứng xử trên không gian mạng dựa trên các nguyên tắc và 11 chuẩn mực tự nguyện của Liên hợp quốc nhằm góp phần duy trì một không gian mạng lành mạnh, an toàn và giúp cho việc bảo đảm an ninh, an toàn thông tin hiệu quả hơn.

Nhân dịp này, Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an cũng đã đề xuất một số phương hướng tăng cường hợp tác về bảo đảm an ninh mạng, an ninh thông tin, phòng chống tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao với Singapore. Cụ thể: Tăng cường làm việc, trao đổi thông tin về các nguy cơ mất an ninh mạng, thủ đoạn tấn công, xâm nhập của tin tặc; các biện pháp ứng phó, phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả trước hoạt động tấn công, xâm nhập của tin tặc và biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về ANQG; Chia sẻ kinh nghiệm về các phương pháp điều tra, phát hiện tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao; tăng cường hợp tác, phối hợp điều tra, xác minh, đấu tranh phòng chống tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao.

Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm đề nghị Singapore chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng và thực thi pháp luật về bảo đảm an ninh mạng, an ninh thông tin, phòng chống tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao; Giới thiệu các giải pháp công nghệ, thiết bị tân tiến mà các cơ quan thực thi pháp luật của Singapore đang áp dụng hoặc có điều kiện tiếp cận để phục vụ bảo đảm an ninh mạng, đấu tranh phòng, chống tội phạm mạng, nhất là các công nghệ có tính chuyên sâu; Hợp tác đào tạo, hỗ trợ Bộ Công an Việt Nam nâng cao trình độ về bảo đảm an ninh mạng, phòng chống tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao…

Về phía Singapore, Ngài S. Iswaran – Bộ trưởng Bộ Truyền thông và Thông tin Singapore bày tỏ nhất trí với các đề xuất nhằm thúc đẩy hợp tác giữa hai bên thời gian tới trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm mạng, bày tỏ mong muốn quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Singapore trong vấn đề an ninh mạng sẽ trở nên sâu sắc hơn nữa.

Đồng thời, Ngài S. Iswaran cập nhật về tình hình tội phạm mạng tại Singapore và khẳng định cam kết của Chính phủ Singapore trong nỗ lực đấu tranh phòng, chống loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng này và tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới hướng tới một không gian mạng an toàn.

Cập nhật thông tin chi tiết về Các Cơ Chế Của Liên Hợp Quốc Về Bảo Vệ Và Thúc Đẩy Quyền Con Người trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!