Xu Hướng 10/2023 # Các Đề Đọc Hiểu Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính # Top 13 Xem Nhiều | Bac.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Các Đề Đọc Hiểu Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Các Đề Đọc Hiểu Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề đọc hiểu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Đọc khổ thơ sau

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái. (Trích Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Ngữ văn 9, tập 1)

Câu 1: Nêu tên tác giả và hoàn cảnh sáng tác bài thơ

Câu 2: Bài thơ xây dựng được hình tượng thơ rất độc đáo – những chiếc xe không kính. Nêu ý nghĩa của việc xây dựng hình tượng thơ trên.

Câu 3: Có ý kiến cho rằng bài thơ hấp dẫn ngày từ nhan đề độc đáo. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Tại sao?

Câu 4: Dựa vào đoạn thơ trên, hãy viết đoạn văn khoảng 10 câu lập luận theo cách diễn dịch để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe. Trong đoạn có sử dụng lời dẫn trực tiếp và phép nối liên kết câu.

Đáp án đề đọc hiểu Bài thơ về tiểu đội xe không kính số 1

Câu 1: Đoạn thơ trên được trích trong ” Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật

– Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Bài thơ sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”.

Câu 2: ý nghĩa của việc xây dựng hình tượng của những chiếc xe không kính là: một hình ảnh rất thực, không hiếm trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Là hình ảnh đặc sắc, độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật nói riêng và thơ ca kháng chiến chống Mĩ nói chung. Nó vừa là biểu tượng cho sự tàn phá của chiến tranh, lại vừa là hình ảnh đẹp đẽ, nên thơ ngay trong cuộc chiến ác liệt.

Câu 3: Bài thơ độc đáo ngay từ nhan đề tác phẩm.

– Nhan đề tưởng dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc bởi vẻ độc đáo, lạ lẫm của nó.

– Bài thơ làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính.

– Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy lăng kính nhìn hiện thực khốc liệt của chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ, hiên ngang, bất khuất, dũng cảm vượt qua thiếu thốn, gian khổ nguy hiểm của thời chiến.

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vẻ đẹp người lính trong đoạn thơ

– Phong thái ung dung, hiên ngang, dũng cảm:

Đảo ngữ: tô đậm sự ung dung, bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ.

Điệp từ “nhìn”, thủ pháp liệt kê và lối miêu tả nhìn thẳng, không né tránh gian khổ, hy sinh, sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách.

Tinh thần lạc quan, sôi nổi, tinh nghịch, trẻ trung:

Giọng thơ tếu nhộn, hài hước: “Không có”, “ừ thì có”.

Hiện thực: gió, bụi vốn khắc nghiệt bỗng mờ đi dưới sắc thái tươi vui, hóm hỉnh.

Cái nhìn lạc quan vào hiện thực

⟹ Họ là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái. (…) Không có kính, ừ thì ướt áo, Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.. Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. (Bài thơ về Tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)

Câu 1. Những hình ảnh nào trong bài thơ nói lên tinh thần dũng cảm và lòng hăng hái của các chiến sĩ lái xe ?

Câu 2. Tình đồng chí, đồng đội của những người chiến sĩ được thể hiện trong những câu thơ nào?

Câu 3. Nội dung của ba khổ thơ đầu bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là gì?

Câu 4. Hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra trận giữa bom đạn của kẻ thù gợi cho em cảm nghĩ gì?

Đáp án đề đọc hiểu Bài thơ về tiểu đội xe không kính số 2

Câu 1: Những hình ảnh trong bài thơ nói lên tinh thần dũng cảm và lòng hăng hái của các chiến sĩ lái xe là:

“Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

” Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi ” nên người lái xe bị gió lùa “mắt đắng”, nhưng anh vẫn dũng mãnh phóng xe như bay suốt đêm ngày. Thật là hăng hái:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Mưa rừng ” mưa tuôn mưa xối “, người chiến sĩ như ngồi trong mưa, áo quần ướt hết, nhưng vẫn ngang tàng hăng hái:

“Chưa cần thay lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”.

Chữ “ừ ” trong câu thơ “Không có kính ừ thì ướt áo” đã thể hiện tinh thần dám chấp nhận mọi gian khổ hi sinh để hoàn thành nhiệm vụ chở vũ khí và lương thực… chi viện cho tiền phương.

Câu 2: Tình đồng chí, đồng đội của các chiến sĩ trong Tiểu đội xe không kính được thể hiện qua các từ ngữ: “họp thành”, “gặp”, “bắt tay” và trong các câu trong khổ thơ sau:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.

Câu 3: Nội dung chính của ba khổ thơ đầu là: Ba khổ thơ đầu gợi lên hình ảnh những chiếc xe không kính, và hình ảnh người lính lái xe trên trong tư thế hiên ngang, lạc quan, coi thường nguy hiểm tiến về phía trước.

Câu 4: Hình ảnh những chiếc xe không có kính vẫn băng băng ra trận giữa bom đạn của kẻ thù gợi cho em nhiều xúc động.

– Cuộc chiến đấu chống Mĩ của nhân dân ta, cũng như của các chiến sĩ lái xe trên con đường chiến lược Trường Sơn là vô cùng dữ dội và ác liệt.

– Những chiến sĩ lái xe rất ngoan cường dũng cảm, hăng hái, lạc quan bất chấp mọi gian khổ hi sinh, quyết tâm chi viện cho chiến trường miền Nam, vì thống nhất đất nước.

– Những chiến sĩ lái xe đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cho chúng ta noi gương học tập.

Đọc khổ thơ sau

Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim

Trả lời câu hỏi

Câu 1: Dấu hai chấm cuối dòng thơ thứ ba của khổ thơ trên có tác dụng gì?

Câu 2: Câu thơ cuối của khổ thơ trên sử dụng biện pháp tu từ gì? Có thể hiểu như thế nào?

Câu 3: Nêu ý nghĩa của hình ảnh “trái tim” trong việc thể hiện vẻ đẹp người lính lái xe.

Câu 4: Phân tích biện pháp tu từ của khổ thơ trên.

Đáp án đề đọc hiểu Bài thơ về tiểu đội xe không kính số 3

Câu 1: Dấu hai chấm cuối dòng thơ thứ ba của khổ thơ trên có tác dụng giải thích cho nội dung của dòng thơ thứ hai trước đó.

Câu 2: Câu thơ cuối của khổ thơ trên sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ ở hình ảnh “trái tim”.

– Từ “Trái tim” trong câu thơ cuối cùng có thể hiểu theo nghĩa chuyển:

Chỉ người lính lái xe.

Chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Câu 3: ý nghĩa của hình ảnh “trái tim” trong việc thể hiện vẻ đẹp người lính lái xe là:

– Hình ảnh trái tim được hiểu theo nghĩa ẩn dụ và hoán dụ: trái tim tượng trưng cho tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ cao đẹp thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh, chất ngang tàng, lòng dũng cảm cùng tinh thần lạc quan vào ngày thống nhất.

– Trái tim trở thành nhãn tự toàn bài thơ, hội tụ tất cả vẻ đẹp của tinh thần, ý chí của người lính lái xe cũng như để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

– Trái tim thay thế cho tất cả những thiếu thốn trên xe “không kính, không đèn, không mui”, hợp nhất với tinh thần, ý chí của người lính lái xe không gì có thể ngăn cản, tàn phá được.

Câu 4: Biện pháp tu từ được sử dụng ở khổ thơ trên là: điệp ngữ và hoán dụ.

– Biện pháp tu từ điệp ngữ: điệp từ không có 3 lần để nhấn mạnh thêm tính chất khốc liệt của chiến tranh làm cho chiếc xe biến dạng đến trần trụi tưởng chừng như chiếc xe không thể chạy được nữa.

– Biện pháp tu từ hoán dụ :Lấy bộ phận để gọi toàn thể: “trái tim” chỉ người lính lái xe ở tuyến đường Trường Sơn những năm đánh Mỹ.Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng: “trái tim” chỉ tình yêu Tổ quốc lớn lao, như máu thịt, như mẹ cha, như vợ, như chồng…chỉ khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của người lính.

Đọc Hiểu Văn Bản “Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính”

Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước.

Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.

Các tác phẩm đã xuất bản: Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970); Thơ một chặng đường (thơ, 1971); ở hai đầu núi (thơ, 1981); Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983); Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994); Nhóm lửa (thơ, 1996).

Nhà thơ đã được nhận Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969-1970.

2. Tác phẩm:

Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm thuộc chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969-1970.

Trong bài thơ, tác giả đã thể hiện khá đặc sắc hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung và những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh giữa tuyến đường Trường Sơn lịch sử thời kì kháng chiến chống Mĩ. Với nhan đề “Nói thêm về tiểu đội xe không kính”, tác giả Võ Minh trong Tài hoa trẻ, số 347-348, tháng 12-2004, đã viết:

“Thường mỗi bài thơ đều có xuất phát điểm thư hứng. Hứng mà xuất thân thì bài thơ lấy “hứng” làm chủ đạo, từ đó cấu trúc thành “tứ”, thành ý làm nổi bật cái “sự”, phô diễn cái “tình”. Không ít bài thơ do cái “sự: thúc bách thì “sự” là chủ đạo để hình thành tứ cho bài thơ trên nền móng của “tình” làm chất liệu. Bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật thuộc mô típ thứ hai này. Hồi đó, vào những năm 1968-1973, trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh thuộc địa phận đất bạn Lào có cả một hệ thống đường giao thông bộ. Những con đường chằng chịt, luồn lách trong bạt ngàn rừng già được các lực lượng bộ đội công binh Thanh niên xung phong dân công hỏa tuyến ngày đêm khai mờ. Phần lớn sức vóc khổng lồ của hậu phương miền Bắc tham gia cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc được vận hành, chuyên chở trên những con đường này. Sự vận chuyển diễn ra suốt ngày đêm không ngưng nghỉ, âm thầm mà náo nhiệt, dồn sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Trong các hình thức vận chuyển hậu cần qui mô to lớn ấy, xe ô tô là lực lượng vận chuyển chủ lực. Có nhiều trung đoàn, tiểu đoàn ô tô ở các binh trạm, trong đó có tiểu đoàn vận tải 61 là đơn vị hai lần đoạt danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Phạm Tiến Duật là một chiến sĩ – nhà thơ trong tiểu đoàn 61 anh hùng đó.

Vì lí do trên nên máy bay Mĩ thường trực ngày đêm bắn chặn ta. Năm 1969, qui mô bắn phá của kẻ thù vô cùng ác liệt. Tại địa bàn của binh trạm 27, lộ trình vận chuyển qua cửa khẩu biên giới Việt – Lào có những nút giao thông như “Cua chữ A” (đường 10), đỉnh Cổng trời (đường 20), v.v… sau vài tiếng đồng hồ lại có một tốp ba chiếc B52 đến rải thảm bom với hàng trăm quả đủ loại. Những con đường ngày một quang dần vì bom đạn Mĩ, có nhiều đoạn phơi lưng lộ diện giữa hiên đại trùng trùng. Tiểu đoàn 61 đã có nhiều chiếc xe bị cháy, bị lật nhào xuống vực và bị vỡ kính vì “bom giật, bom rung”.

Chỉ một tuần sau khi bài thơ ra đời, cả mặt trận có vô số tiểu đội xe không kính. Sau này, vào những năm cuối cuộc kháng chiến, đã có những chiến sĩ lái xe tự ý đập vỡ kính để mắt thường nhìn trực tiếp mặt đường chằng chịt hố bom cho rõ hơn dưới ánh sáng lù mù của chiến đèn gầm soi. Thậm chí, có người còn tháo cả cảnh của buồng lái để tiện cho việc xử lí tình huống khi xe bị máy bay AC130 săn đuổi – loại máy bay bắn rốc-két hay đạn 27 li vào mục tiêu di động bằng thiết bị dò âm thanh mặt đất và bằng kính nhìn có tia hồng ngoại.

Mạn phép nói thêm cái chất thực của bài thơ để chúng ra hiểu rằng, một bài thơ có nhiều khi vượt qua khỏi phạm trù cái đẹp văn chương thuần tuý, dâng cho cuộc sống những giá trị thực tiễn lớn lao biết nhường nào. Bài thơ ” Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có cái mãnh lực thần kì ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời vừa mang tầm vóc lịch sử! Tất nhiên một bài thơ như thế phải là tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đáo của người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam!

Giờ đây mỗi lần có dịp đọc lại hay nghe ai đó đọc lên bài thơ này, không ít người như tôi lại bồi hồi nhớ về một quãng đời chiến tranh ở đường 9 – Nam Lào, nhớ về hình ảnh anh Phạm Tiến Duật lần đầu đứng trước anh em đơn vị D61. Anh đọc cho anh em nghe bài thơ nói về họ trước giờ xuất kích. Đã hết câu cuối bài thơ mà cả đơn vị còn lặng im, rồi phút chốc cùng vùng dậy, thoáng đã ngồi sau tay lái. Một khoảng rừng già rộ lên, những cỗ xe dắt kín lá ngụy trang rùng rùng chuyển bánh đi về hướng Nam đã định”.

II – GIÁ TRỊ TÁC PHẨM

Bài thơ về Tiểu đội xe không kính nằm trong chùm bài thơ của Phạm Tiến Duật được giải nhất báo Văn nghệ năm 1969. Bài thơ về Tiểu đội xe không kính ghi lại ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc của các chiến sĩ lái xe hoạt động trên đường mòn Hồ Chí Minh ngày đêm đưa người và hàng chi viện cho miền Nam. ở đường mòn Hồ Chí Minh, mỗi chiến sĩ lái xe ngày và đêm đối mặt với bom đạn của giặc Mĩ, đối mặt với cái chết. Họ đã thể hiện tinh thần quả cảm, ý chí gang thép của người chiến sĩ cách mạng. Tinh thần ấy, ý chí ấy truyền vào từng ý thơ, từng hình ảnh và nhạc điệu khiến cho bài thơ có những nét riêng rất đặc biệt.

Trước tiên đó là giọng thơ ngang tàng có vẻ bất cần tất cả. Lí giải vì sao xe không có kính, người chiến sĩ cho biết:

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Câu thơ trên có 10 tiếng lặp lại ba tiếng không. Cụm từ “không có kính” đứng ở đầu và cuối câu thơ tưởng như chỉ là sự lặp lại thông thường nhưng thực chất lại bao hàm hai nghĩa khác nhau. Cách diễn đạt ấy mang đậm chất lính. Chất đời thường dường như xa lạ với thơ nhưng lại là câu mở đầu cho một bài thơ hay. Bài thơ được giải nhất trong một cuộc thi thơ của báo Văn nghệ. Chính cái khẩu khí ấy đã qui định giọng điệu của cả bài thơ, đã kéo theo liền một mạch ba câu liền trong khổ thơ thứ nhất:

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Kính vỡ vì bom giật, bom rung, điều giải thích ấy có thể hiểu được. Đến câu thơ thứ ba, ý thơ đột ngột chuyển hẳn sang một hướng khác, tả lại phong thái của người chiến sĩ lái xe ngồi trên chiếc xe không kính đó:

Ung dung buồng lái ta ngồi Hai tiếng ung dung vừa gợi hình, vừa tả được thái độ tự tin, được vẻ phớt đời, coi thường bom đạn của người chiến sĩ lái xe. Tư thế ung dung ngồi trong buồng lái mặc cho bom giật, bom rung lại càng được khẳng định khi ta dõi theo cặp mắt người chiến sĩ: Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Câu thơ ngắt làm ba nhịp, hai nhịp đầu hướng cặp mắt người chiến sĩ tới hai đối tượng: đất và trời. Tới nhịp thứ ba, đối tượng không còn, người chiến sĩ hướng cặp mắt tới phía trước trong tư thế bình thản, tự nhiên và dũng cảm: nhìn thẳng. Nhìn thẳng vào bom đạn kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá đầy chết chóc để lái xe vượt qua tất vả. Cái tứ nhìn thẳng này sẽ dẫn tới câu kết là lời giải thích nguyên nhân vì sao người chiến sĩ lái xe lại có dũng khí ấy:

Một trái tim yêu nước, yêu đời. Một trái tim đập vì nước Nam thân thương như Bác Hồ thường nói: Vì trên xe có một trái tim

Vượt lên trên chết chóc, bom đạn, anh chợt nhận ra:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái

Hai khổ thơ sau của đoạn trích ghi lại hình ảnh anh chiến sĩ lái xe đang hăng hái làm nhiệm vụ đưa hàng ra tiền tuyến trên chiếc xe không kính. Cũng vẫn cái giọng ngang tàng đó, người chiến sĩ kể:

… Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

Một tiếng “ừ” quả quyết, ngắn gọn, bất chấp tất cả, cả mưa tuôn, cả gió thổi, cả ướt áo. Cái khí phách ấy mang lại cho hai câu thơ sau một nhịp thơ rắn đanh, chắc nịch:

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi

Khổ thơ cuối có hai hình ảnh đẹp. Hình ảnh thứ nhất ghi lại vẻ đẹp của những người lính lòng can đảm dám vượt qua thử thách nơi chiến trường:

Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội

Hình ảnh thứ hai ghi lại vẻ đẹp của những người lính giàu tính đồng đội. Cách biểu lộ tình cảm của họ cũng ngang tàng và rất lính:

Gặp bè bạn suốt đọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Cái cửa kính vỡ rồi, cái xe không có kính, nhưng tiểu đội xe không kính vẫn lao lên phía trước, lao ra tiền tuyến để tiếp tế súng đạn, lương thực vì ngày toàn thắng của đất nước. Hình ảnh tiểu đội xe không kính trở thành biểu tượng anh hùng tuyệt vời cho những người lính lái xe trên đường mòn Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn hướng tới miền Nam.

(Sưu tầm)

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Bài thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Nội dung Bài thơ về tiểu đội xe không kính I. Đôi nét về tác giả

– Phạm Tiến Duật (1941- 2007)

– Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ

– Sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1964, ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

+ Tuy vậy ông không tiếp tục với nghề mình đã chọn mà quyết định lên đường nhập ngũ, đó cũng là nơi ông sáng tác ra rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.

+ Năm 1970, ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, ngay sau đó Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam

+ Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm tại ban Văn Nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Phó trưởng Ban Đối ngoại Nhà văn Việt Nam. Đó quả là một thành tích đáng tự hào.

+ Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật

+ 19-11-2007 , ông được chủ tịch nước Nghuyễn Minh Triết trao tặng Huân chương lao động hạng nhì

+ Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn Học Nghệ thuật

+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Vầng trăng quầng lửa”, “Nhóm lửa”, “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”…

– Phong cách sáng tác : thơ của Phạm Tiến Duật được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng: giọng điệu rất sôi nổi của tuổi trẻ vừa có cả sự ngang tàn tinh nghịch nhưng lại vô cùng sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát, tiêu biểu là bài ” Trường sơn Đông Trường Sơn Tây”

II. Đôi nét về tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”

2. Bố cục

– Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính

– Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

– Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe

– Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

3. Giá trị nội dung

Bài thơ khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, họ ung dung hiên ngang, dũng cảm lạc quan có tinh thần đồng chí đồng đội và một ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam.

4. Giá trị nghệ thuật

Bài thơ kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ một cách tự nhiên. Đặc biệt nhất là có chất liệu hiện thực vô cùng sinh động của chiến trường, những hình ảnh sáng tạo rất đời thường. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính khẩu ngữ, ngang tàn và khỏe khoắn

III. Dàn ý phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính

I. Mở bài

– Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất nhiều các tác giả tiêu biểu.

– Vài nét về tác giả Phạm Tiến Duật- một nhà thơ nổi tiếng với rất nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh

– “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với hình ảnh chủ đạo là chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với bao phẩm chất tốt đẹp.

II. Thân bài

1. Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm

– Bài thơ ra đời vào năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng ác liệt

– Bài thơ là lời ngợi ca vẻ đẹp của người lính cách mạng thời bấy giờ

2. Khổ 1+2 : Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính

– 2 câu thơ đầu: nhấn mạnh tư thế ung dung của người lính, đường hoàng đĩnh đạc, dám nhìn thẳng vào khó khăn gian khổ không hề run sợ né tránh

– 4 câu thơ tiếp theo:

+ Phép nhân hóa “gió vào xoa” “con đường chạy” , ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mắt đắng”

⇒ tả thực cảm nhận của người lính với thế giới bên ngoài

+ “Thấy con đường chạy thẳng vào tim” : tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra mặt trận

⇒ con đường ấy còn là con đường giải phóng miền Nam, con đường của trái tim nồng nàn yêu nước

⇒ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung đầy lãng mạn, qua khung cửa, mọi vật dường như cũng muốn theo người lính ra chiến trường.

⇒ chất thơ của cuộc chiến đấu

3. Khổ 3+4: Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

– 2 câu thơ đầu khổ 3+ 2 câu thơ đầu khổ 4:

+ Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”

+ Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu

– 2 câu thơ cuối khổ 3+ 2 câu thơ cuối khổ 4:

+ Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”

⇒ Thái độ lạc quan

+ Các từ láy tượng hình tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” ẩn dụ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của các anh

⇒ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu thật đáng ngợi ca và trân trọng

5. Khổ 5+6: Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết

– 4 câu thơ khổ 5:

+ “Đã về đây họp thành tiểu đội” : Những chiếc xe từ gian khổ hiểm nguy cùng chung một nhiệm vụ nên đã tập hợp thành “tiểu đội xe không kính”

+ “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết chân thực nhưng rất hóm hỉnh, qua cái bắt tay, người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, trao cho nhau tình đồng chí, đồng đội thắm thiết

– 2 câu thơ đầu khổ 6:

+ “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”: chiến tranh buộc họ phải dựng bếp ăn giữa “trời”, nhưng họ vẫn ung dung và coi đó như một lẽ tự nhiên

+ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Chính tình đồng chí đồng đội đã hóa gia đình, cách người lính lái xe định nghĩa về gia đình thật giản dị và độc đáo

⇒ Hai tiếng “gia đình” thật thiêng liêng chan chứa tình cảm, họ truyền cho nhau sức mạnh để chiến đấu

– 2 câu thơ cuối khổ 6:

+ Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ: nhịp bước hành quân của các anh đến với những chặng đường mới

+ Hình ảnh “trời xanh thêm” : ý nghĩa tượng trưng sâu sắc thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, chan chứa hi vọng, đó còn là hoán dụ chỉ hòa bình

6. Khổ 7: Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

– 2 câu đầu: Vẫn là những khó khăn nhưng giờ đây được tăng thêm gấp bội “không kính”, “không đèn”, “không mui xe”, “thùng xe có xước”: khó khăn tăng thêm như cản đi bước chân của người chiến sĩ

– 2 câu cuối

+ Lời khẳng định: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”: Lời khẳng định chắc nịch bất chấp mọi gian khổ, khó khăn

+ ” Chỉ cần trong xe có một trái tim”: Hình ảnh “trái tim” là hoán dụ chỉ người lính lái xe nồng nàn yêu nước và sục sôi căm thù quân xâm lược nhưng cũng mang nghĩa ẩn dụ: nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thàn, dũng cảm

III. Kết bài

– Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, sử dụng nhiều biện pháp tu từ quen thuộc…

– Bài thơ đã khắc họa chân thực nhất vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung hiên ngang, tinh thần lạc quan dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và ý chí giải phóng miền Nam. Vẻ đẹp của các anh cũng là tiêu biểu cho thế hệ thanh niên những năm đánh Mĩ

Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.

tac-gia-tac-pham-lop-9.jsp

Đọc Hiểu Văn Bản: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính (Phạm Tiến Duật)

Đọc – hiểu văn bản:

Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

I. Đọc – hiểu chú thích:

1. Tác giả: Phạm Tiến Duật.

– Phạm Tiến Duật (1941-2007),quê Thanh Ba, Phú Thọ. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

– Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn với giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc, đậm chất lính.

– Tác phẩm chính: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Gửi em cô thanh niên xung phong, Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính…

2. Tác phẩm:

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970) của tác giả.

– Bố cục 4 phần:

+ Phần 1 (khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính.

+ Phần 2 (khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

+ Phần 3 (khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe

+ Phần 4 (khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

– Nội dung: Bài thơ khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, họ ung dung hiên ngang, dũng cảm lạc quan có tinh thần đồng chí đồng đội và một ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam.

II. Đọc – hiểu văn bản:

1. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.

– Bài thơ có cách đặt đầu đề hơi lạ. Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “Bài thơ” – cách ghi như thế có vẻ hơi thừa. Lẽ thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính. Xe không kính tức là xe hỏng,không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ. Vì đã nói đến thơ, tức là nói đến một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng.

⇒ Phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.

2. Hình ảnh những chiếc xe không kính.

– Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thường: “Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”.

+ Lời thơ chân thực, tự nhiên. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ.

+ Bằng những câu thơ rất thực, đậm chất văn xuôi, điệp ngữ“không”, cùng với động từ mạnh “giật”, “rung”, tác giả đã lí giải nguyên nhân không có kính của những chiếc xe. Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng “không có kính”, “không có đèn”,”không có mui xe”,”thùng xe có xước”. Từ đó, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.

⇒ Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh, song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.

3. Hình ảnh người lính lái xe.

a. Vẻ đẹp của người lính lái xe trước hết thể hiện ở tư thế hiên ngang, ung dung, đường hoàng, tự tin, và tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời.

+ Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”,”nhìn trời”, vừa trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Các anh nhìn vào khó khăn, gian khổ, hi sinh mà không hề run sợ, né tránh – một bản lĩnh vững vàng.

– Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:

+ Điệp ngữ “thấy” và phép liệt kê. Có rất nhiều cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính. Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đạp vào trong buồng lái. Song, quan trọng hơn là các anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do giao cảm, chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài.

+ Các hình ảnh “con đường”,”sao trời”,”cánh chim”… diễn tả rất cụ thể cảm giác của những người lính khi được lái những chiếc xe không kính. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.

b. Tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:

– Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn hóm hỉnh, cấu trúc: “không có…”;”ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi”… làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ,hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời. Thật đáng yêu và đáng tự hào biết bao!

c. Tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính:

– Cái “bắt tay” thật đặc biệt: “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm.

+ Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường.Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu hóm mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu.

+ Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.

⇒ Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).

d. Lòng yêu nước sau đậm, ý chí chiến đấu kiên cường, khát vọng giải phòng miền Nam:

-Chiếc xe hiện lên không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

+ Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”.

+ “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền.

+ Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn.

– Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

Bài thơ khắc họa một hình ảnh độc đáo. Đó là những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì chống Mỹ , với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.

2. Nghệ thuật:

– Giọng thơ ngang tàn, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả ( những chàng trai lái xe trên những chiếc xe không kính ). Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và giàu chất thơ ( Chất thơ ở đây là từ những hình ảnh độc đáo, từ cảm hứng về vẻ hiên ngang, dũng cảm, sự sôi nổi trẻ trung của những người lính lái xe, từ ấn tượng cảm giác được miêu tả cụ thể, sống động và gợi cảm…

– Thể thơ: Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.

*

Trả lời câu hỏi SGK:

Trả lời câu 1 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?

Trả lời:

a. Nhan đề:

Bài thơ có một nhan đề rất độc đáo: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Ngay từ đầu, nhan đề bài thơ đã dự báo một giọng điệu riêng của Phạm Tiến Duật: đề cập đến một đề tài hết sức đời thường, gần gũi với cuộc sống của người lính trên đường ra trận. Đó là chất thơ của hiện thực khắc nghiệt, chất lãng mạn của tuổi trẻ trước vận mệnh vinh quang: chiến đấu để giải phóng quê hương, chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

b. Hình ảnh những chiếc xe không kính:

Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh đoàn xe nối nhau ra trận. Vào cuộc chiến có nghĩa là mất đi rất nhiều, đến chiếc xe cũng phải mất mát, sẻ chia. Câu mở đầu bài thơ rất giản dị mà bất ngờ: “Không có kính không phải vì xe không có kính”.

Ba chữ “không” như thể giằng nhau trong một câu thơ, dù chỉ để thông tin về một sự thật “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Có vẻ như nhà thơ đang phân bua một cách nghịch ngợm, cho sự hiện diện không trọn vẹn của chiếc xe:

– Không có kính, rồi xe không có đèn,

– Không có mui xe, thùng xe có xước…

→ Những chiếc xe bị bom đạn phá hủy, nhưng không vì thế mà dừng bước. Chúng vẫn hăng hái lên đường, cùng những người chiến sĩ vào miền Nam giải phóng đất nước.

Trả lời câu 2 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ.

Trả lời:

– Tư thế ung dung, lạc quan yêu đời trước hoàn cảnh gian nguy càng tôn thêm phẩm chất của người lính. Mặc kệ “ gió xoa vào mắt đắng”, mặc kệ “mưa tuân mưa xối” người lính vẫn nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim, thấy sao trời và đột ngột cánh chim. Một loạt hình ảnh vụt hiện tạo ra những cảm giác, ấn tượng vừa quen, vừa lạ . Đẹp và hiên ngang. Gian khổ nhường ấy, nhưng tinh thần người lính vẫn vượt lên, vẫn yêu đời:

Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già. Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Những câu thơ đặ tả thực tế, kể cả những tiếng “ừ” rất đời thường và ngang tàng chất lính ấy như thể thách thức cùng gian khó: Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

– Tình cảm đồng đội thắm thiết:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

– Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam:

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Trái tim ấy là trái tim người lính, là sứ mệnh vinh quang của tuổi trẻ thế hệ Hồ Chí Minh tiếp nối các thế hệ cha anh đang trên đường ra trận. Câu thơ cuối mang màu sắc triết lí, một triết lí thật đơn sơ nhưng rất đỗi chân thực và mang tầm thời đại. Bức chân dung của người lính lái xe trong bài thơ là bức chân dung tràn đầy sức sống, bức chân dung của niềm tin thắng lợi.

Trả lời câu 3 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này. Những yếu tố đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc họa hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn.

Trả lời:

Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ đã góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Giọng thơ ngang tàng có cả chất nghịch ngợm phù hợp với đối tượng miêu tả là những chàng trai trong chiếc xe không có kính:

“Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

→ Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên nhưng vẫn rất thú vị, rất thơ.

Trả lời câu 4 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Cảm nghĩ của em về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài Đồng chí.

Trả lời::

* Thế hệ trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ:

– Tư thế ung dung, chủ động, lạc quan, yêu đời.

– Coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn, hiểm nguy.

– Ý chí chiến đấu vì sự thống nhất của đất nước

* So sánh:

Khác nhau:

– Giai đoạn lịch sử khác nhau:

+ Đồng chí: chống Pháp

+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính: chống Mĩ

– Mục đích tác giả:

+ Đồng chí: ngợi ca tình đồng chí đồng đội

+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính: khắc họa vẻ đẹp hiên ngang của người lính lái xe.

Giống nhau: lý tưởng chiến đấu cao cả, ý chí vượt lên mọi khó khăn, thiếu thốn, gian khổ, tinh thần lạc quan, tình đồng đội sâu sắc.

Luyện tập

Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả hết sức cụ thể, sinh động. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để làm rõ điều ấy.

Trả lời:

– Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh động.

– Không có kính chắn, người lính lái xe trên đường ra mặt trận đa có những cảm giác, ấn tượng rất đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai.

– Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng: gió trên đường đi ùa vào buồng lái, khiến đôi mắt người chiến sĩ trở nên cay. Tác giả sử dụng từ “đắng” để diễn tả cảm giác ấy, khiến cảm giác cay vì gió ở mắt được vị giác hóa, chân thực hơn.

– Thấy con đường chạy thẳng vào tim, sao trời và đột ngột cánh chim như sa như ùa vào buồng lái: Giữa người lính lái xe và những sự vật, khung cảnh trên đường không có rào cản. Mọi thứ trở nên gần hơn, rõ nét hơn.

→ Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái khiến không gian trong xe và ngoài xe như hòa vào làm một, người lính và chiếc xe không kính có thêm những người bạn đồng hành.

Soạn Bài: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Phạm Tiến Duật (1941 – 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Giọng điệu thơ Phạm Tiến Duật trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch mà sâu sắc.

2. Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ đạt giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969.

3. Qua hình ảnh những chiếc xe không kính và người chiến sĩ lái xe, tác giả ca ngợi những người chiến sĩ lái xe trẻ trung, hiên ngang, bất chấp khó khăn nguy hiểm ngày đêm lái xe chi viện cho chiến trường, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Nhan đề của bài thơ có hai điểm khác lạ. Thứ nhất là có từ bài thơ. Có thể chỉ cần viết Tiểu đội xe không kính cũng là đủ. Tác giả muốn nhấn mạnh đây là bài thơ chứ không phải là câu chuyện. Thứ hai là xe không kính. Các xe ô tô đều có kính, nhưng xe không kính thì chỉ có ở chiến trường khi đánh Mĩ. Mà có cả tiểu đội chứ không phải một chiếc xe đơn lẻ. Vậy xe không kính không phải là ít.

Những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn là những con người có tư thế rất đường hoàng. Họ ung dung ngồi vào buồng lái, điều khiển xe chạy giữa chiến trường mưa bom bão đạn. Họ mất ngủ, chịu bụi, chịu ướt áo. Nhưng họ không phàn nàn, không kêu ca. Bụi thì họ châm điếu thuốc : nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Ướt thì họ đi tiếp : Chưa cần thay lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Chiếc xe vỡ kính, hỏng đèn, xước thùng, hỏng mui. Thế nhưng các chiến sĩ vẫn lái, vẫn đưa xe lên chạy về phía trước. Họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước.

3. Ngôn ngữ của bài thơ giống với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Những từ khẩu ngữ như ừ thì, chưa cần rửa, chưa cần thay, phì phèo châm điếu thuốc, nghĩa là gia đình đấy làm cho câu thơ bình dị, phản ánh sự trẻ trung, hồn nhiên của chiến sĩ. Giọng điệu bài thơ có chút lí sự, tinh nghịch của những người trẻ tuổi: Không có kính không phải vì xe không có kính ; Không có kính ừ thì có bụi; Không có kính, ừ thì ướt áo ; Chưa cần rửa…; Chưa cần thay… Giọng điệu đó phản ánh tinh thần lạc quan pha chút tinh nghịch của chiến sĩ lái xe. Chính tinh thần lạc quan đó đã làm cho họ có thể ung dung, bình tĩnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ cùng những trận bom giật, bom rung để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam.

4. Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ là một thế hệ dũng cảm. Họ đã đem tuổi xuân phục vụ cho khắp các mặt trận. Họ trực tiếp cầm súng hoặc cung cấp đạn dược, lương thực cho chiến trường. Họ là các chiến sĩ vận tải, là những đội viên thanh niên xung phong… Bất cứ ở đâu, họ đều có tác phong đường hoàng. Họ trẻ, khoẻ, vui. Tính chất sôi nổi ấy thể hiện trong việc bắt tay đồng đội qua cửa kính vỡ, qua việc dựng lán, chung bát đũa nghĩa là gia đình. Tinh thần yêu đời, lạc quan ấy đã cho họ một sức mạnh đeểhắc phục những khó khăn. Họ vượt qua bom giật, chiến thắng bom rung, vượt qua bụi, mưa, và những hư hại của xe cộ. Lại đi, lại đi trời xanh thêm là bài hát của họ, là khẩu hiệu và cũng là hoạt động thực tế của họ.

Nếu so với người lính trong bài Đồng chí ta thấy thế hệ người lính chống Mĩ trẻ trung hơn, họ có phương tiện đầy đủ hơn (có ô tô chở người, vũ khí, đạn dược). Không thấy sự thiếu thốn, cũng không thấy nói nhiều đến cơn sốt (Mặc dù thời chống Mĩ củng có nhiều chiên sĩ bị sốt và nhiều bài thơ nói về cơn sốt). Các phương tiện như áo quần, giày dép đủ hơn, lại có võng mắc trên đường ra trận. Tuy có nét khác nhau nhưng đều giống nhau ở tinh thần đoàn kết, khắc phục mọi khó khăn, quyết chiến, quyết thắng

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

Đó là những cảm giác của người chiến sĩ lái xe khi lái chiếc xe không có kính. Kính của xe vô cùng quan trọng. Nó để chắn gió, để chắn bụi và vật thể lạ, đảm bảo an toàn cho người lái. Thế nhưng khi không có kính, người lái xe phải chịu những khó khăn trực tiếp và những phiền toái do thiếu kính chắn gây ra. Trong khổ thơ, những khó khăn, phiền toái đó lại được trình bày như là thuận lợi. Người lái trực tiếp nhìn thấy gió vào để xoa dịu đôi mắt thiếu ngủ (mắt đắng – một sự chuyển đổi cảm giác tài tình). Con đường như chạy thẳng vào tim. Sao trời và cánh chim thì như sa, như ùa vào buồng lái, cùng bè bạn với người chiến sĩ. Những cảm giác đó rất thực nhưng lại được nhìn và phản ánh với góc độ lạc quan nên có vẻ như không có kính lại là một điều hay, một cơ hội để khám phá. Chính tinh thần lạc quan đã biến khó khăn, trở ngại thành điều thuận lợi, dễ chịu.

Soạn Bài Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Bố cục:

– Phần 1 (2 khổ đầu): Tư thế hiên ngang ra trận của những người lính lái xe

– Phần 2 (4 khổ tiếp) Sự ngang tàng, lạc quan của lính lái xe Trường Sơn

– Phần 3 (còn lại): Ý chí chiến đấu vì miền Nam

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Nhan đề bài thơ có sự độc đáo, đặc biệt:

– Nhan đề dài, sự độc đáo

– Nhan đề làm nổi bật hình ảnh chiếc xe không có kính, phát hiện, sáng tạo của tác giả

– Thể hiện hiện thực khốc liệt của chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn

– Từ “bài thơ” đầu tiên nhằm tạo ấn tượng về chất thơ của hiện thực ấy

→ Nhan đề là sự sáng tạo của tác giả

Câu 2 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn là những con người có tư thế đường hoàng.

– Tư thế ung dung, lạc quan trước tình thế nguy nan càng tô đậm phẩm chất can trường của người lính lái xe

+ Mặc kệ gió vào xoa mắt đắng

+ Mưa tuôn mưa xối

+ Bụi phun tóc trắng như người già

– Các hình ảnh tạo cảm giác ấn tượng, vừa quen, vừa lạ

– Tinh thần người lính vẫn vượt lên, vẫn yêu đời

+ Phì phèo châm điếu thuốc

+ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

– Tiếng “ừ” đời thường và ngang tàng chất lính, cũng là lời thách thức gian khó

– Tình cảm đồng đội thân thiết như gia đình “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

– Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

→ Hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn gan dạ, kiên cường, luôn giàu tinh thần lạc quan trước hiểm nguy của trận chiến vì miền Nam.

Câu 3 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn

– Giọng điệu ngang tàng có chất nghịch ngợm đúng với chất trẻ trung, can trường của những người lính

– Giọng điệu làm cho thơ gắn với lời văn xuôi, tự nhiên gắn với lãng mạn

Câu 4 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ:

– Khâm phục những con người hiên ngang dũng cảm, luôn chiến đấu vì mục đích, lý tưởng cao đẹp

– Yêu mến tính sôi nổi, vui nhộn, lạc quan, dễ gần, dễ mến giữa những người lính trong chiến tranh

Luyện tập

Bài 1 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Học thuộc lòng bài thơ

Bài 2 (trang 133 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Ấn tượng của người lái xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn giả cụ thể, sinh động

– Chiếc xe không có kính ra mặt trận tạo ra những cảm giác, đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai

– Những khó khăn, nguy hiểm mà người lái xe phải đối diện:

+ Gió vào xoa mắt đắng – Hiện thực, cảm giác được vị giác hóa chân thực

+ Đường chạy thẳng vào tim

+ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

– Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái

⇒ khiến người đọc cảm nhận được sự khó khăn, nguy hiểm người lính phải đối mặt

Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Cập nhật thông tin chi tiết về Các Đề Đọc Hiểu Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!