Bạn đang xem bài viết Chợ Lách Thăm, Chúc Mừng Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Huyện Nhân Lễ Phật Đản Năm 2022 được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Nhân lễ Phật Đản năm 2020 – Phật lịch 2564, ngày 01/5/2020, đoàn cán bộ huyện Chợ Lách do ông Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ tịch UBND huyện làm trưởng đoàn đã đến thăm và chúc mừng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam huyện Chợ Lách
Thay mặt lãnh đạo huyện, ông Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ tịch UBND huyện đã ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp của Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam huyện nhà đã vận động các vị chức sắc, các cơ sở thờ tự và đồng bào Phật tử trong thời gian qua chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động tại địa phương, nhất là chủ trương xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Ông Nguyễn Minh Đức chúc Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam huyện nhà cùng các cơ sở thờ tự và đồng bào phật tử trong huyện đón lễ đản sinh của Đức Phật đầy ý nghĩa, an lạc và hạnh phúc.
Ông Nguyễn Minh Đức (thứ 4 từ phải qua) tặng hoa chúc mừng Ban Trị sự Phật giáo VN huyện
Hòa Thượng Thích Giác Tạng, Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo Việt Nam huyện Chợ Lách bày tỏ lời cảm ơn chính quyền địa phương đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho cho các tôn giáo trên địa bàn huyện nói chung và hoạt động Phật giáo nói riêng. Đồng thời khẳng định Ban Trị sự huyện cùng với các chức sắc, tăng ni, phật tử sẽ tiếp tục phát huy giáo lý tốt đẹp của Phật giáo, hoàn thành tốt công tác Phật sự ở địa phương và tích cực đóng góp vào sự phát triển chung của huyện nhà.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam: Theo Luật Phật, Sư Toàn Không Có Quyền Nhận Tài Sản
Thượng tọa Thích Đức Thiện – tổng thư ký Hội đồng trị sự trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam – khẳng định dứt khoát như vậy với Tuổi Trẻ Online sáng sớm 10-10.
Thượng tọa cho biết chiều 9-10, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có văn bản chỉ đạo tới Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc, do hòa thượng Thích Thanh Nhiễu – phó chủ tịch thường trực Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam – ký, truyền đạt quyết định này với khối tài sản mà sư Toàn muốn sở hữu.
Không tin thầy Toàn có tài sản 200-300 tỉ
Thượng tọa Thích Đức Thiện cho biết sau những thông tin báo chí nêu về buổi làm việc giữa sư Thích Thanh Toàn với Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc ngày 5-10, sư Toàn xin xả giới hoàn tục và xin giữ lại tài sản là trang trại trị giá 200-300 tỉ đồng và những tài sản do ông đứng tên sở hữu, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã chỉ đạo Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc xác minh rõ nguồn gốc tài sản.
“Giáo hội đã chỉ đạo Ban trị sự Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc phải xác minh rõ nguồn gốc tài sản như sư Toàn nói và có hay không tài sản có giá trị 200-300 tỉ như thầy phát ngôn.
Bởi vì con người thầy Toàn theo báo cáo của đại đức Thích Thanh Phương là trưởng Ban trị sự Phật giáo huyện Tam Đảo thì thầy Toàn phát ngôn nhiều khi không đúng, như người mộng du và đại đức Phương nói không tin thầy Toàn có tài sản như thầy phát ngôn”, thượng tọa Thích Đức Thiện nói.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã đề nghị các sở, ban, ngành chức năng của tỉnh phối hợp làm rõ nguồn gốc tài sản, có hay không có giá trị tài sản như thầy Toàn phát ngôn.
Đồng thời, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã liên hệ trực tiếp với trưởng Ban Tôn giáo tỉnh Vĩnh Phúc để phối hợp với Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc sớm làm rõ vấn đề này.
“Chúng tôi nhận được báo cáo rất nhanh là hiện nay thầy Toàn đang đứng tên hơn 6.000m2 đất mà thầy tự mua ở xung quanh chùa Nga Hoàng. Nguồn gốc đất này là đất nông nghiệp, một số là đất thủy lợi. Tuy nhiên chưa được chuyển nhượng theo Luật đất đai”, thượng tọa Thích Đức Thiện thông tin.
Còn thông tin từ đại diện UBND huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc với Tuổi Trẻ Online ngày 9-10 cho biết từ khi về trụ trì chùa Nga Hoàng năm 2008, nhà sư Thích Thanh Toàn đã có hoạt động mua bán, chuyển nhượng đất đai với người dân ở xã Hợp Châu không thông qua chính quyền địa phương, với tổng diện tích là 5.790,9m 2 (nguồn gốc là đất ruộng nhận chuyển nhượng của các hộ dân).
Huyện Tam Đảo đề nghị thu hồi, giao lại 5.790,9m 2 đất mua bán, chuyển nhượng trái phép của nhà sư Thích Thanh Toàn trong thời gian trụ trì chùa Nga Hoàng cho chính quyền xã Hợp Châu quản lý.
Đã đi tu thì tấm áo cà sa cũng thuộc về tăng đoàn
Về việc sư Toàn xin được giữ lại những tài sản do mình đứng tên sở hữu gây phẫn nộ trong dư luận mấy ngày qua, thượng tọa Thích Đức Thiện khẳng định “sư Toàn đề nghị là một chuyện, còn quyết định là việc của giáo hội”.
Thượng tọa giải thích: căn cứ vào Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam thì tài sản thuộc về giáo hội như chùa chiền, cơ sở tôn giáo là tài sản của giáo hội và căn cứ theo nội quy Ban Tăng sự trung ương thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam mới có quyền định đoạt tài sản thuộc các cơ sở tự viện.
Nội quy Ban Tăng sự trung ương cũng quy định rất rõ là sau khi bổ nhiệm trụ trì thì tất cả tài sản thuộc về cơ sở tự viện, tức thuộc tăng. Sư Toàn sở hữu tài sản cho mục đích hoạt động của cơ sở tự viện, tài sản vẫn thuộc về tăng, thuộc về giáo hội và giáo hội có quyền định đoạt tài sản đó.
“Theo luật Phật chế, một vị tỳ kheo khi vào chùa, tất cả những gì họ đang sử dụng thì những tài sản đó đều thuộc về tăng đoàn, giáo hội. Và đến khi vị tỳ kheo đó mất đi, ngay cả cái được coi là tài sản trên mình là tấm áo cà sa cũng phải chuyển lại cho tăng, không có sự thừa kế ở đây mà do tăng đoàn quyết định. Ở đây luật Phật không nhấn mạnh đến sở hữu tài sản mà nói đến sử dụng tài sản thôi”, thượng tọa Thích Đức Thiện nói.
Trả lời về biện hộ cho rằng sư Toàn có quyền thừa hưởng những tài sản do ông đứng tên sở hữu do được biếu tặng, cúng dường vì Phật tử mến mộ công đức cá nhân của ông, thượng tọa Thích Đức Thiện nói với người xuất gia theo Phật thì cá nhân cũng thuộc về tăng đoàn; hơn nữa “tài sản đó nếu nhà sư không phải là hiện diện của tăng, của tam bảo thì đã không được nhận”.
Về trả lời của đại đức Thích Tâm Vượng – phó Ban Trị sự kiêm chánh thư ký Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc – với Tuổi Trẻ Online ngày 7-10 rằng “Tài sản đối với người tu hành có 2 loại. Một là tài sản thuộc cơ sở tôn giáo, hai là tài sản thuộc sở hữu cá nhân. Những tài sản thầy Toàn đứng tên sở hữu thì được pháp luật bảo hộ”, Thượng tọa Thích Đức Thiện cho là chưa đúng với luật Phật và nội quy Ban Tăng sự trung ương.
Theo thượng tọa này, cứ cho rằng việc mua bán hơn 6.000m 2 đất xung quanh chùa Nga Hoàng của thầy Toàn là hợp pháp thì đất đó cũng thuộc về chùa Nga Hoàng và tài sản đó phải bàn giao lại cho Ban trị sự Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc.
Trước đó, trong chia sẻ với Tuổi Trẻ Online, đại đức Thích Tâm Vượng cho biết sổ đỏ chùa Nga Hoàng chỉ ghi diện tích hơn 1.000m 2, Giáo hội Phật giáo Vĩnh Phúc sẽ chỉ tiếp nhận phần diện tích hợp pháp này.
Liên hệ với đại đức Vượng sáng nay, 10-10, qua điện thoại nhưng số điện thoại của Đại đức không liên lạc được.
“Theo giáo lý nhà Phật thì người đi tu là không có bất kỳ tài sản nào. Những quyên góp bố thí của Phật tử, nhân dân là cúng cho giáo hội, nhà chùa chứ không phải cho sư Toàn, đó là tài sản xã hội, thuộc về xã hội. Cho nên sở hữu những tài sản này phải là Giáo hội Phật giáo, phải trả lại cho giáo hội quản lý hoặc là trả lại cho xã hội, nhà nước quản lý”, chúng tôi Trần Ngọc Vương nói.
Luật Nhân Quả Báo Ứng Theo Lời Phật Dạy (Rất Hay), Không Gian Phật Giáo
Rate this post
Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, sự diễn biến từ nhân đến quả còn tùy thuộc vào các duyên, nhân quả có thể báo ứng liền tức khắc như chúng ta đang đói, chỉ cần ăn vào một thứ gì đó thì được no và kết quả của nó cũng có thể xảy ra ở tương lai gần hoặc xa. Nhân quả ở đời vốn rất chính xác và rõ ràng, gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Do nhận thức đúng về nhân quả nên người con Phật luôn thận trọng trong mỗi việc làm, lời nói và suy nghĩ của chính mình. Chỉ cần chúng ta chịu khó quan sát trong hiện tại, ta sẽ dễ dàng nhận ra quả báo trước mắt của những việc làm tốt hay xấu.
Đang xem: Luật nhân quả báo ứng theo lời phật dạy
Suy nghĩ và cảm xúc của con người luôn thay đổi và chịu tác động nhanh chóng bởi các sự kiện xung quanh. Ví dụ, khi nhận được một thông tin tốt đẹp có lợi cho mình, thì lập tức ta có thái độ hoan hỷ vui vẻ, lạc quan. Ngược lại, nếu nhận được tin xấu, ngay khi ấy chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu, buồn phiền, bực bội và có thể nóng nảy với những người khác. Theo luật nhân quả, thành công hay thất bại đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Nếu chúng ta muốn có được nhiều kết quả tốt đẹp thì phải biết gieo nhân thiện ích giúp người cứu vật.Trên thế gian này với nhiều thể chế chính trị và rất nhiều tôn giáo đều lý giải nhân quả theo cách riêng của mình, đa số đều nghiêng về có một đấng tối cao ban phước giáng họa. Tuy nhiên theo quan điểm của đạo Phật, luật nhân quả báo ứng là nền tảng sống của muôn loài vật, không ai có thể tách rời luật nhân quả mà tồn tại. Cho nên Phật giáo, đối với “nhân quả báo ứng“, có cái nhìn đầy đủ và thấu triệt, Phật dạy chính chúng ta là chủ nhân của bao điều họa phúc, mình làm lành được hưởng phước tốt đẹp, làm ác chịu quả khổ đau.Nói một cách đơn giản và dễ hiểu, “nhân quả báo ứng” chính là làm thiện được quả báo tốt đẹp, còn làm các điều xấu xa tội lỗi bị quả báo khổ đau. Mỗi hành vi xấu ác, đều phải chịu ác báo tương xứng với hành vi đó. Vả lại, căn cứ vào những hành vi xấu ác nặng hay nhẹ mà có quả báo tương xứng khác nhau.
Ai làm mười điều ác, sau khi chết chắc chắn phải thọ khổ trong địa ngục, còn tạo nghiệp ác nhẹ hơn, sẽ bị tái sinh vào loài quỷ đói và các loài súc vật để chịu khổ báo. Sau khi thọ hết tất cả thống khổ trong các đường này rồi, sẽ được chuyển sinh trở lại làm người, mà làm người thấp kém và tiếp tục bị thọ các quả báo xấu còn xót lại.Để cho chúng ta có đủ niềm tin về nhân quả, xin mời tất cả quý vị cùng nghe bài kinh triết lý sâu sắc về tội lỗi, bởi gieo nghiệp xấu ác.
Tiến trình diễn biến từ nhân đến quả, có thể báo ứng ngay trong hiện tại mà cũng có thể xảy ra ở tương lai gần hoặc xa. Chỉ cần quan sát trong hiện tại, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra quả báo nhãn tiền của những việc làm ác.
Giới Luật Theo Tinh Thần Phật Giáo
Luật lệ thế gian có tính bắt buộc và ai phạm lỗi sẽ bị trừng trị theo luật lệ đã ban hành, nhưng cho dù luật lệ có tốt cách mấy cũng không tránh khỏi mặt tiêu cực bởi nó có thể thích hợp với người xấu nhưng lại cản trở quyền tự do của người tốt. Đó là chưa nói tới những luật lệ quá khắt khe, những hình phạt quá tàn ác của những kẻ cầm quyền độc tài. Dù thế nào đi nữa khi đã sinh ra làm ” con dân” sống trong cộng đồng quốc gia nào thì phải tuân thủ luật lệ của quốc gia đó, không có sự chọn lựa.
– Giới tiếng Pàlilà “Sila” phiên âm là Thi-La, được hiểu Là lời dạy, sự ngăn cấm, quy luật do Đức Phật chế định nhằm khuyên con người về hai mặt:
: “Sila” là những lời dạy của Đức Phật nhằm hướng dẫn đệ tử tránh làm những điều ác, làm những điều lành, tu tập thân-khẩu-ý thanh tịnh, diệt trừ tham sân si đưa đến sự an lạc giải thoát cho chính mình.
Về phương diện đạo đức, theo ngài Phật Âm (Buddhaghosa) cho rằng “Sila” có nghĩa là “Giới hạnh”. Giới hạnh là gì? Đó là một con người sống đạo đức với một tâm sở thánh thiện, xa lánh việc sát sanh, không trộm cướp, không có hành động phá hoại đời sống hạnh phúc của người khác v.v.. Có thể nói đó là một người tu tập thực hành viên mãn các học Giới do đức Phật chế định.
– Luật tiếng Phạn là “Vinaya” phiên âm là Tỳ-nại-da, ngắn gọn là Tỳ-ni. Dịch nghĩa là điều phục, chế ngự, nhiếp phục, diệt (trừ điều ác) hay là kỷ luật (discipline) gồm những nguyên tắc, những phương thức quy định thực hành cho đời sống trong tập thể Tăng đoàn do Phật ban hành, được ghi lại trong Luật tạng.
Trong “Tam vô lậu học: Giới-Định-Huệ”, Giới là nền tảng của thiền Định và Trí tuệ. Nhờ Giới, tâm mới Định, tâm có Định, Huệ mới phát sanh, Huệ có phát sanh mới trừ dứt được vô minh phiền não, vô minh phiền não có dứt trừ thì mới minh tâm kiến tánh. Nói đến tầm quan trọng của Giới, trong Trường Bộ Kinh, Đức Phật đã dặn dò Ngài Ananda như sau: “Này Ananda , Pháp và Luật Ta đã giảng dạy và trình bày. Sau khi Ta diệt độ, Chánh Pháp và Giới Luật ấy sẽ là Đạo Sư của các ngươi”. Như vậy Luật không thể tách rời ra khỏi Pháp. Luật là một phần Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca để lại. Ngài cũng đã để lại lời di chúc khẩn thiết trước khi nhập Niết Bàn: ” Sau khi ta diệt độ, các người tu hành phải tôn kính Giới Luật làm Thầy; dầu ta còn tại thế để dạy dỗ các người mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng không thêm điều nào ngoài Giới Luật”.
1) Để đem lại sự tốt đẹp cho Tăng chúng.
2) Để đem lại sự an vui cho Tăng chúng.
3) Để kiềm chế những người xấu.
4) Để đem lại lạc trú cho các Tỳ Kheo đức hạnh.
6) Để tiêu trừ các lậu hoặc trong tương lai.
7) Để đem lại niềm tin cho những người chưa có niềm tin.
8) Để làm tăng trưởng niềm tin cho những người đã tin.
CÁC LOẠI GIỚI LUẬT TRONG ĐẠO PHẬT
Trong Tam Tạng Kinh Điển gồm có: Kinh tạng (Sutta-pitaka), Luật tạng (Vinaya-pitaka) và Luận Tạng (Abidhamma-pitaka). Về mặt Lý thuyết thì Giới Luật chiếm 1/3 trong Tam Tạng Kinh Điển. Về mặt thực hành thì Giới đóng một vai trò mấu chốt trong Tăng đoàn.
NGŨ GIỚI
Năm giới đó là:
2) Không trộm cắp: Không xâm phạm đến của cải của người khác, theo đó phải tôn trọng của cải của người khác.
3) Không tà hạnh: Không xâm phạm đến danh tiết của người khác, theo đó phải tôn trọng thân thể của người khác.
4) Không nói dối: Sẽ không xâm phạm đến danh dự người khác.
GIỚI BÁT QUAN TRAI
“Bát” là tám, “Quan” là cửa. “Trai” nghĩa là khi qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn. Vậy Bát Quan Trai Giới là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 giờ, ngăn chận 8 điều tội lỗi bằng cách thọ 8 giới cấm, đồng thời phát huy 8 điều thiện lành do Đức Phật chỉ định.
Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ định nghĩa: “Bát Quan Trai nghĩa đen là 8 điều kiêng cữ, như là 8 cửa ải chận đứng các pháp bất thiện. Giới Bát Quan Trai chính xác được gọi là “giới cận trụ “, nghĩa là sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền, gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh. Cao hơn nữa “cận trụ” được hiểu là tập sống gần đời sống một vị A-La-Hán là bậc Thánh xuất thế gian”.
Bát Quan Trai giới là phương pháp tu tập của người tại gia, thọ trì 8 giới, áp dụng trong một ngày một đêm tức 24 tiếng đồng hồ. Mỗi tháng có 6 ngày thọ giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 hoặc 8 ngày nếu thêm mồng 7 và 22. Hiệu lực của sự thọ giới phân làm hai loại:
1) Phát nguyện thọ rồi thì trì suốt đời cho đến khi chết thì giới tự động xả, hoặc chưa chết nhưng không còn tin tưởng, không còn thích thú trong việc trì giới, tự mình tuyên bố xả giới, hay bỏ Phật Pháp Tăng, bấy giờ giới thể cũng mất.
2) Giới một ngày một đêm, đó là “giới cận trụ”. Sau khi thọ, giới thể chỉ tồn tại luân lưu trong thâm tâm người thọ giới một ngày một đêm, từ khi mặt trời mọc hôm nay đến mặt trời mọc hôm sau. Hết thời hạn này, giới tự động xả. Hiện nay mốc khởi đầu của một ngày để thọ giới quan trai có thể ấn định từ 6 giờ sáng hôm nay tới 6 giờ sáng hôm sau. Sau 24 giờ dù có lên chùa làm lễ hay không, giới vẫn tự động xả. Giới Bát Quan Trai không thể tự thọ, mà phải thọ từ một Sa di hay Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni.
Hoà Thượng Tuệ Sỹ phân chia nội dung 8 giới thành 4 loại. Đó là: Giới Tự Tánh (gồm 4 chi), Giới ngăn trừ phóng dật (1 chi là cấm uống rượu), Giới ngăn trừ tánh kiêu mạn (gồm 2 chi) và một chi thuộc Giới thể của Bát Quan Trai.
Giới tự tánh
1) Như hạnh Phật ngày đêm không Sát sinh.
2) Như hạnh Phật ngày đêm không trộm cướp.
3) Như hạnh Phật ngày đêm không dâm dục (chi này khác với cư sĩ thọ Ngũ Giới. Trong Ngũ Giới, Đức Phật cấm vợ chồng không được liên hệ tà dâm với người ngoài. Nhưng trong “Bát Quan Trai” thì việc quan hệ vợ chồng ân ái bị cấm luôn, nghĩa là cấm hành động dâm dục trong thời gian thọ giới một ngày một đêm)
4) Như hạnh Phật ngày đêm không vọng ngữ.
Giới trừ phóng dật
5) Như hạnh Phật ngày đêm không uống rượu:Cấm dùng những chất say, những chất khiến tâm buông lung không kiểm soát được. Trong Ngũ giới chi tránh uống rượu (thọ trọn đời) là phòng hộ để không bị say sưa, mất tự chủ dẫn đến nhiều hành động sai phạm xấu ác khác. Còn trong Bát Quan Trai giới, chi này trở thành năng lực tỉnh giác, ngăn trừ sự phóng dật, buông lung xao lãng.
Giới ngăn trừ kiêu mạn, gồm 2 chi
6) Như hạnh Phật ngày đêm không trang điểm, dầu thơm, múa hát và xem hát:Tập hạnh sống tự nhiên chân thật không giả dối không tự đề cao tự mãn với những vẽ hào nhoáng đẹp đẽ giả tạo bề ngoài, cũng không để tâm đắm chìm trong cảnh múa hát, kịch diễn trên sân khấu khiến cho mình xa rời tự tánh thanh tịnh.
7) Như hạnh Phật ngày đêm không nằm ngồi giường cao rộng đẹp:Không chiều chuộng, cho phép bản thân hưởng thụ nệm ấm chăn êm giường cao rộng đẹp rồi đắm tâm ưa thích dính vào tham dục quên việc tu hành.
Thể của Bát Quan Trai THẬP THIỆN GIỚI
Đức Phật dạy chúng ta tu thập thiện để tạo nhân duyên, có đầy đủ phước báo để đời này được sống an vui hạnh phúc và đời sau cũng được an lạc bình yên sung sướng. Ngoài ra tu thập thiện còn là một nấc thang quan trọng trên con đường tu tập tiến hoá của tâm linh.
Tu có hai phần: Chỉ và Hành. Chỉ là ngưng mọi hành động bất thiện xấu ác hại mình hại người. Hành là làm việc thiện lành, giữ đúng giới luật mang lại an vui hạnh phúc cho mình và cho người.
Thập thiện giới gồm:
7) Trọn đời không nói lời thêu dệt (ỷ ngữ): Không dùng lời hoa mỹ hoặc lý lẽ ngụy biện bóp méo sự thật vì quyền lợi riêng.
8) Trọn đời không tham dục: Không tham trước tình dục trần cảnh, nuôi lớn tâm thanh tịnh phạm hạnh.
10) Trọn đời không tà kiến: Không bảo thủ chấp trước, không mê tín dị đoan, không đoạn kiến, thường kiến, mà luôn tu tập chánh kiến.
BỒ TÁT GIỚI
Bồ Tát là tiếng gọi tắt của “Bồ Đề Tát Đoả” dịch âm từ tiếng Phạn Bodhisattva. “Bồ đề” dịch là ” giác”, “tát đoả” dịch là “hữu tình”, hợp lại gọi là “giác hữu tình”, có nghĩa là bất cứ đệ tử nào của Phật, hễ phát tâm “trên cầu Phật đạo, dưới độ hữu tình” thì kẻ đó được gọi là Bồ Tát.
Có 2 trường hợp mất Giới Bồ Tát, đó là: 1) Cố ý sát nhân không biết hỗ thẹn, sám hối, 2) Xả Bồ Đề tâm, ví dụ như nói: “Tôi không tin việc làm của Phật, không tin Tam Bảo và không phát tâm Bồ Đề nữa.”
Sáu giới trọng (tội nặng):
6) Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được bán rượu, nấu rượu.
2) Say đắm rượu chè.
3) Cố ý gớm ghê không chăm sóc người bệnh khổ.
5) Không đứng dậy nghinh tiếp hỏi thăm khi thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Trưởng lão, bậc Tôn đức, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.
6) Nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Trưởng lão, bậc Tôn đức, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, hủy phạm giới đã thọ, sinh tâm kiêu mạn, rồi nói rằng: “Ta hơn người kia, người kia không bằng ta”.
8) Trong vòng 80 dặm, nơi có thuyết pháp, mà không đến nghe.
10) Nghi ngờ trong nước có vi trùng nhưng vẫn tuỳ tiện dùng.
11) Không có bạn mà vẫn một mình đi vào nơi hiểm nạn.
13) Vì của cải, thân mạng mà đánh mắng người giúp việc, trẻ con hầu hạ hoặc người ngoài…
15) Nuôi những loài ăn thịt như mèo, chồn…
18) Làm nghề canh tác sinh sống, không tìm chỗ nước sạch, đất cao ráo để trồng trọt.
20) Hành dục không đúng chỗ đúng thời.
22) Vi phạm luật pháp nhà nước.
23) Có lúa mới, hoa trái, dưa rau các thứ đầu muà, không hiến cúng Tam Bảo mà thọ dụng trước.
27) Nuôi tằm lấy tơ.
28) Đi đường gặp người bệnh, không tìm phương tiện chăm sóc, hoặc nhờ người khác chăm sóc.
GIỚI CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
Là giới dành cho những người mang lý tưởng “trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh”. Những người này pháttâmrời bỏ gia đình cạo râu cạo tóc, khoác áo nâu sòng, sống đời phạm hạnh, theo đúng con đường Đức Phật đã đi. Nhưng là người phàm trần đã từng gieo nhiều nghiệp xấu khi xưa , nên trong một đời một kiếp không dễ gì thoát khỏi Luật Nhân Quả, nói chi là đạt quả Thánh quả Phật. Cho nên dù đã phát tâm rời bỏ ngôi nhà lửa, vẫn có lúc bị nghiệp lôi kéo, tâm tình lên xuống, khi hành trì thiền định nghiêm mật, lúc lo ra phóng dật phạm lỗi nên không bao giờ phát huy được Trí Huệ tâm linh. Vì thế người xuất gia vẫn cần phải thọ trì Giới Luật của Đức Phật chế định để giúp mình giữ gìn sự trong sạch thân tâm, phát huy thiền định.
Việc học hành ngoài đời bắt đầu từ lớp thấp rồi mới lên lớp cao. Vấn đề tu hành cũng thế, từ dễ đến khó, từ thấp lên cao. Sa-di hay Sa-di-ni là những người mới tu tập nên chỉ thọ trì 10 giới. Tỳ-Kheo thọ 250 giới, Tỳ-Kheo-Ni thọ 348 giới theo Đại thừa Phát triển. Tỳ-Kheo 227 giới, Tỳ-Kheo-Ni thọ 311 giới theo hệ Theravàda.
Tăng đoàn Tỳ-Kheo là những nam tu sĩ gồm có Tỳ-Kheo (bhikkhu) là những thành viên chính thức trong giáo hội tăng già, đã thọ Cụ Túc Giới (upasampadà). Kế đến là Sa-di thành phần xuất gia đang tập sự để thành bậc Tỳ-Kheo. Những vị này chưa thọ Cụ Túc Giới (anusampanna).
Thời kỳ Phật còn tại thế, mới đầu trong Tăng đoàn không có Sa-di. Sự xuất hiện Sa-di trong Phật giáo sớm hơn sự xuất hiện của Tỳ-Kheo-Ni. Đó là lúc La-Hầu-La con của Đức Phật theo Phật xuất gia mới bắt đầu có Sa-di. Sa-di là cấp bậc đầu tiên của người xuất gia.
2) Ứng pháp Sa-di: Từ 14 tuổi đến 19 tuổi được gọi là Ứng Pháp Sa-di, tức Sa-di thực thụ học tập đầy đủ các phận sự của người xuất gia.
3) Danh tự Sa-di: Từ 20 tuổi đến 70 tuổi được gọi là Danh tự Sa-di, tức Sa-di trên danh nghĩa. Những vị lớn tuổi từ 60 đến 70 tuổi muốn xin xuất gia, Đức Phật cho phép nhưng không cho thọ Cụ Túc Giới.
Hai chủng loại Sa-di là:
1) Hình đồng Sa-di: Người có tướng mạo và cốt cách trông giống như Sa-di nhưng không đủ tư cách thọ lãnh giới pháp chẳng hạn như bị căn tật, cơ thể không tròn đủ v.v…
2) Pháp đồng Sa-di: Đây là chân thật Sa-di, do thọ trì giới pháp Sa-di mà thành Sa-di.
NỘI DUNG CỦA SA DI THẬP GIỚI CÁC GIỚI KHÁC CỦA NGƯỜI XUẤT GIA – Thức Xoa Ma Na:
Sáu giới này đều có trong 10 giới của Sa-di-ni. Theo Luật tông thì đây không phải là giảm bớt 4 giới cho nhẹ đi phần hành trì, mà trong thời gian thọ giới Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni còn học và tập giữ giới luật của Tỳ-Kheo-Ni nữa. Sự giữ giới Thức-xoa-ma-na kéo dài trong 2 năm. Những ai chưa thọ giới Sa-di-ni mà đã đến 18 tuổi cũng có quyền xin thọ giới Thức-xoa-ma-na và sau thời gian hành trì đủ 2 năm cũng có đủ tư cách để thọ giới Tỳ-kheo-ni vậy.
– Cụ Túc Giới
Tiếng Phạn là Upasampadà, Hán dịch là “giới Cụ Túc” hay “Cận viên”. “Cụ túc” có nghĩa là “thành tựu trọn vẹn”. “Cận viên” nghĩa là “gần đến Niết bàn viên mãn”. Giới Cụ Túc gồm 4 yếu tố:
a) Giới thanh tịnh: Những giới điều đưa đến thân tâm thanh tịnh an lạc. Tiếng Phạn là ” Pratimoksa” được phiên âm là “Ba-la-đề-mộc-xoa” dịch nghĩa là “biệt giải thoát” tức là giữ được giới nào thì giải thoát phạm vi giới đó.
b) Căn thanh tịnh: Hộ trì các căn. Khi các căn tiếp xúc với các trần phải luôn luôn cảnh giác không để cho các căn bị ô nhiễm.
d) Niệm thanh tịnh: Luôn giữ Chánh niệm tỉnh giác. Khi ăn biết mình đang ăn, khi ngủ biết mình đang ngủ, khi đi tới đi lui, biết rõ việc mình đang đi tới đi lui… không để những tà niệm xen vào.
2) 13 pháp tăng-tàng: Việc tiếp xúc, đụng chạm giữa nam nữ
Cụ Túc giới của Tỳ-Kheo-Ni gồm 348 khoản như sau: KẾT LUẬN
Người viết xin mượn nguyên văn đoạn cuối của Hoà Thượng Thích Trí Quang trong lời tựa của quyển “Tỳ-Kheo-Ni Giới” để kết thúc bài viết này: “Ai cũng có cái hảo tâm xuất gia ban đầu. Ai đứng trước Phật cũng muốn mình xứng đáng với Ngài. Nhưng chỉ có Giới Luật mới làm mình xứng đáng với Phật và không phụ hảo tâm của mình”.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ (Những ngày nhập thất, November 10-2017)
– ” Tỳ-Kheo-Ni giới” Hoà Thượng Thích Trí Quang dịch giải
– ” Chánh Pháp Và Hạnh Phúc” Cố Đại lão Hoà Thượng Thích Minh Châu, nxb Tôn Giáo Hà Nội 2001.
– “Giới Luật Học Cương Yếu” Cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2004
– “Giới Luật Phật Học Căn Bản” tác giả Thích Bảo Lạc (www.quangduc.com)
– ” Tìm hiểu về Giới Luật (Sila) trong Phật Giáo”, tác giả Thích Quang Hạnh (Thư Viện Hoa Sen)
-” Cương Yếu Giới Luật” tác giả Thích Thiện Siêu, nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2002
-” Việt Nam Phật Giáo Sử” tác giả Nguyễn Lang, nxb Lá Bối Paris, 1978
-” Kinh Đại Bát Niết Bàn” . Bản dịch cố Hoà Thượng Thích Minh Châu.
-” tác giả Thích Phước Tịnh giảng dịch.
Cập nhật thông tin chi tiết về Chợ Lách Thăm, Chúc Mừng Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Huyện Nhân Lễ Phật Đản Năm 2022 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!