Xu Hướng 3/2023 # Đề Văn Nghị Luận Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn # Top 5 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Đề Văn Nghị Luận Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Đề Văn Nghị Luận Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

CÁC ĐỀ VĂN BIỂU CẢM

Giải thích vì sao tác giả Phạm Duy Tốn lại lấy nhan đề tác phẩm của mình là Sống chết mặc bay ?

Tìm một câu tục ngữ trái ngược với câu Sống chết mặc bay và giải thích, chứng minh cho câu tục ngữ mà em đã chọn.

Lòng yêu thương, nhân ái vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Cuộc sống có lúc thăng trầm, vui buồn, sướng khổ, song truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta không bao giờ phai mờ. Văn học dân gian của ta có rất nhiều câu tục ngữ khuyên con người phải có một cách sống trái ngược với lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan phụ mẫu trong tác phẩm của Phạm Duy Tốn. Một trong những câu đó là “Thương người như thể thương thân”. Các bạn hiểu câu tục ngữ trên như thế nào và bằng hiểu biết, ta hãy làm rõ câu tục ngữ qua những dẫn chứng lấy từ đời sống và tác phẩm văn học.

Trước hết, câu tục ngữ là một lời khuyên chân thành nhắc nhở mọi người phải biết giúp đỡ, yêu thương người khác như chính bản thân mình. Câu tục ngữ chia làm hai vế so sánh rất rõ : một vế là “thương người” từ dùng so sánh “như thể” cân đối với vế bên kia là “thương thân”. Cách nói ngắn gọn, lại vận dụng để so sánh đã làm sáng ngời lên một lối sống “vì mọi người”. Nếu thương người xung quanh, mà lại như thương thân mình thì mức độ thương yêu là tuyệt đối và chân thật, hết lòng và tận tuỵ rồi. Một lối sống như vậy chỉ trở thành lối sống chủ yếu ở một xã hội tốt đẹp, văn minh thôi. Sự đùm bọc, thương yêu ; tình tương thân, tương ái giúp đỡ nhau trong khó khăn đã làm nên đạo lí làm người cao đẹp. Ta yêu thương và giúp đỡ người, không phải là thương hại. Hơn nữa, không chỉ giúp người nghèo đói, mà còn phải động viên, an ủi, chia sẻ, cảm thông với những nỗi cô đơn, bất hạnh của những mảnh đời không may mắn, giúp họ tin yêu vào cuộc đời.

Xã hội ta đã có nhiều việc làm đẹp thể hiện nội dung của câu tục ngữ trên : Đó là việc lập ra những trại trẻ mồ côi dành cho những trẻ em bất hạnh, không cha mẹ, không gia đình, không nơi nương tựa. Đó là việc lập ra các tổ bán báo xa mẹ,

khiến các em cảm thấy mình gắn bó, có ích với xã hội, cảm nhận thấy một tình thương yêu của đại gia đình cộng đồng. Đó là những gia đình bất hạnh trong các tổ, cụm dân phố đã được chính quyền và đoàn thể giúp đỡ, cưu mang. Chiến tranh đã để lại bao đau thương, mất mát, thiệt thòi cho nhiều gia đình ; có nhiều gia đình đã dâng hiến cả những người con duy nhất cho Tổ quốc. Giờ đây họ sống ra sao, nên giúp họ như thế nào ? Điều này, các đoàn thể, chính quyền đã nghĩ và có việc làm giúp đỡ cụ thể… Trong lớp, trong trường, có học sinh nào gia đình nghèo khó, bất hạnh, tập thể tổ lớp, đoàn đội và các thầy cô giáo tìm mọi cách giúp đỡ để các em học sinh đó bớt khổ đau, yên tâm học tập. “Thương người như thể thương thân” đang trở thành một lối sống đẹp trong xã hội ta.

Không chỉ ở ngoài đời, ngay trong văn học, ta có thể tìm thấy những biểu hiện đẹp của lòng nhân ái, yêu thương “Thương người như thể thương thân”. Trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài, ta cảm động trước tấm lòng của Dế Mèn với người bạn là Dế Trũi bị bọn Châu Chấu Voi bắt làm tù binh, bặt vô âm tín. Mèn đã từ giã chức thủ lĩnh Tổng Châu Chấu, từ giã cuộc sống đầy đủ và cả lòng quyến luyến bạn bè ở Tổng Châu Chấu, khăn gói lên đường tìm Dế Trũi. Trên đường đi đầy gió rét và bụi đường, Mèn thường thầm gọi bạn “Trũi ơi, giờ này em ở đâu ?”. Một tình cảm yêu thương trong sáng, hết lòng. Quả đúng là : “Thương người như thể thương thân” vậy.

Trong sách Ngữ văn 7, tập một, chúng ta cũng được học tác phẩm của một nhà thơ nổi tiếng thời Đường (Trung Quốc) : Đỗ Phủ. Thơ của ông không những rất hay (ông được mệnh danh là Thánh thơ), mà còn làm xúc động lòng người bởi lòng nhân ái, “Thương người như thể thương thân”.

Tấm lòng của Đỗ Phủ còn vượt lên hơn nữa : đó là cách nghĩ, cách sống : thương người hơn cả thương thân :

Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được !(Bài ca nhà tranh bị gió thu phá)

Như vậy, chúng ta đã bàn đến một lối sống đẹp, nhân ái ; ngược với lối sống của tên quan hộ đê vô trách nhiệm, ích kỉ, vô nhân đạo trong Sống chết mặc bay kia. Dân gian còn nhiều câu hay tương tự với “Thương người như thể thương thân” như “Lá lành đùm lá rách”, “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “Chị ngã, em nâng” hoặc : “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”… Đó là những tấm lòng nhân ái, đó là lối sống đẹp đã trở thành truyền thống của người Việt Nam mà chúng ta – những người học sinh của thế kỉ XXI phải thấm nhuần, học tập, và hành động – sao cho xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Chứng Minh Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn…

Phạm Duy Tốn là một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Một trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, nó được coi như một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán sau này. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng “con dân” cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả. “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre”, “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”. Một bên là cảnh quan huyện “kẻ cha mẹ của dân” có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê thì lại đang chễm chệ trong đình “cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì”. Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp”. Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với “con dân” đang “trăm lo ngàn sợ”, quan phụ mẫu “uy nghi chễm chện ngồi” như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác.

Người đọc không thể tưởng tượng được trong tình thế nan nguy của tính mạng hàng ngàn người dân mà quan phụ mẫu vẫn điềm nhiên đánh bạc và hưởng lạc. Trong khi “sức người khó lòng địch nổi sức trời” thì bọn nha lại tay chân chỉ mải lo hầu bài quan.

Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn”, “Thất văn… phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. “Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp”, hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai “đê vỡ rồi thời ông cách cổ *********”. Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: “Thầy bốc quân gì thế?”. Ván bài “ù to”. Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…

Với việc sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện gay gắt; với giọng văn khi thiết tha xúc động, khi cay độc, mỉa mai,… Phạm Duy Tốn đã trực tiếp bày tỏ thái độ cảm thông sâu sắc của mình trước thảm cảnh của dân chúng và lòng căm uất phẫn nộ bọn quan lại phong kiến.

Soạn Bài: “Sống Chết Mặc Bay” Của Phạm Duy Tốn

Soạn bài: “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn

I. TÌM HIỂU CHUNG:

1. Tác giả, tác phẩm:

Xem chú thích (*) Sgk/79.

Tóm tắt truyện?

“Gần 1h đêm, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng X có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm, hàng nghìn người dân ra sức chống chọi với sức nước. Thế mà tại ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung cùng các quan đánh bài. Có người báo tin đê vỡ, ngài vẫn thản nhiên lại còn quát mắng. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to, cũng là lúc “khắp mọi nơi miền đó nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu”.

Văn bản này bố cục gồm mấy phần? Nội dung từng phần?

Bố cục: Có thể chia làm 3 phần.

– Phần 1: “Từ đầu … hỏng mất”: Nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ của người dân.

– Phần 2: “Ấy lũ con dân …  điếu, mày”: Cảnh quan phủ cùng nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”.

– Phần 3: Phần còn lại: Cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình cảnh thảm sầu.

Trong tác phẩm trọng tâm miêu tả ở phần nào?

– Phần (2).

Đọc kĩ toàn truyện, theo dõi mạch cảm xúc từ đầu đến cuối, chúng ta thấy tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật chủ yếu nào?

– Tương phản và tăng cấp.

Em hiểu thế nào là phép tương phản tăng cấp?

– Tương phản tăng cấp là dùng từ ngữ để diễn tả những ý đối lập, trái ngược nhau trong cùng một văn cảnh – càng lúc càng mạnh.

-Em hãy chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện?

 – Một bên là cảnh tượng nhân dân đang vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước nguy cơ đê vỡ.

– Một bên là cảnh quan phủ cùng nha lại, chánh tổng lao vào cuộc tổ tôm ngay trong khi đi hộ đê.

– Với nghệ thuật tương phản tác giả đã khắc họa sự việc như thế nào chúng ta sang phần II.

II. TÌM HIỂU VĂN BẢN:

1 Cảnh hộ đê ngoài đình:

Cảnh được tả trong thời gian nào? Thời gian này có ý nghĩa gì?

– Gần 1h đêm, thời điểm khuya khoắt càng làm tăng thêm nỗi khó khăn khi mọi người đều không còn sức, đều mệt mỏi đến cao độ.

Không khí, cảnh tượng hộ đê được miêu tả như thế nào? Qua các chi tiết nào?

– Không khí, cảnh tượng nhốn nháo, căng thẳng (qua tiếng trống, tiếng tù và, tiếng người xao xác gọi nhau; qua các hoạt động chống đỡ vừa sôi động vừa lộn xộn của người dân).

Sự cố gắng của người dân có đem lại kết quả gì không?

– Cố gắng nhưng vô vọng, bất lực của sức người trước sức trời, sự yếu kém của thế đê trước thế nước.

Em hãy phân tích cảnh tương phản và tăng cấp đoạn này? (ENB).

 – Sức người càng lúc càng mệt mỏi, bất lực nhưng sức trời càng lúc càng mạnh.

– Thế đê càng lúc càng yếu còn thế nước càng lúc càng mạnh.

Dụng ý nghệ thuật của tác giả ở đoạn này là gì?

– Nhằm tô đậm sự bất lực của người dân trước sức trời, sự suy yếu của thế đê trước sức nước.

Nhận xét: Với cách dùng nghệ thuật tương phản và tăng cấp nhằm muốn tô đậm sự bất lực của sức người trước sức trời, sự yếu kém của thế đê trước thế nước. Thiên tai đang từng lúc giáng xuống đe dọa cuộc sống của người dân.

2. Cảnh đánh tổ tôm trong đình:

Cảnh tượng trong đình được miêu tả như thế nào?

– Được miêu tả bằng nhiều chi tiết:

– Địa điểm: Đình cao, rất vững chắc, đê vỡ cũng khg có việc gì.

– Quang cảnh: Tĩnh mịch, yên tĩnh, trang nghiêm nhàn nhã, đường bệ nguy nga.

Trong đó nổi bật hình ảnh nhân vật trung tâm nào?

à Đem theo nhiều vật dụng đắt tiền. Chứng tỏ cuộc sống rất quý phái cách biệt với con dân. Nhưng thực ra hắn không hộ đê mà là đang tham gia đánh tổ tôm.

– Vậy cảnh đánh tổ tôm được tác giả miêu tả như thế nào?

– Có kẻ hầu người hạ khúm núm, sợ sệt. Quan ngồi rất oai vệ, đường bệ, cử chỉ nói năng hống hách, độc đoán của quan với nha lại và tay sai. Còn quang cảnh đánh tổ tôm lúc mau, lúc ung dung, êm ái, lúc vui vẻ, … Tất cả đều say mê tổ tôm đến quên nhiệm vụ.

Khi có người vào báo tin đê vỡ, thái độ của quan phủ nha lại như thế nào?

 – Nha lại: Cũng lo sợ, thấy thầy đề run cầm cập nhưng phải theo lệnh quan, chơi bài như một cái máy.

– Quan phủ: Đổ trách nhiệm cho cấp dưới, cho dân, đe doa, cách cổ bỏ tù, đuổi người báo tin ra ngoài … vẫn say sưa bài sắp ù to.

Qua phân tích trên, ta thấy quan phụ mẫu là một ông quan ntn?

– Lẽ ra làm quan phụ mẫu phải là người có trách nhiệm chăn dắt con dân là việc chính. Nhưng ở đây trong khi đi hộ đê, mà hắn lại mang theo những vật dụng đắt tiền, có kẻ hầu người hạ thật quý phái, quá cách biệt với con dân, say mê tổ tôm đến quên trách nhiệm. Đây chính là niềm vui táo tợn, một con người lòng lang dạ thú, bất nhân, thất đức, thờ ơ, vô trách nhiệm trước nổi khổ của dân.

Tác giả sử dụng từ ngữ khá sinh động để miêu tả quang cảnh trong đình: tĩnh mịch, xa hoa, đài các, tôn nghiêm. Qua đó ta thấy quan phụ mẫu là tên quan vô trách nhiệm vô lương tâm, hống hách, đam mê cờ bạc, chẳng đoái hoài đến cuộc sống của người dân.

Liên hệ: Là học sinh chúng ta cũng phải có trách nhiệm với lớp học của mình như bảo vệ của công. Nếu là cán sự lớp phải biết chăm lo cho lớp, nhắc nhở các bạn cố gắng học để cả lớp cùng tiến bộ, giúp đỡ các bạn học yếu, các bạn có hoàn cảnh khó khăn …

Hãy phát biểu chung về giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật của truyện?

– Giá trị hiện thực: Phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống và sinh mạng của người dân với bọn quan lại.

– Giá trị nhân đạo: Thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước cảnh lầm than cơ cực của người dân.

– Nghệ thuật: Kết hợp thành thạo nghệ thuật tương phản và tăng cấp; có trình độ sử dụng ngôn ngữ khá sinh động; câu văn ngắn gọn.

Đọc ghi nhớ Sgk/83.

III. LUYỆN TẬP:

Câu 1. Trả lời ngắn.

–  Văn bản nào sau đây thuộc thể loại truyện hiện đại?

+ Con hổ cổ nghĩa, + Sống chết mặc bay, + Những trò lố hay là Va- ren và Phan Bội Châu, + Mẹ hiền dạy con, + Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng.

–  Truyện Sống chết mặc bay được viết bằng kiểu chữ nào?

– Em có nhận xét như thế nào về tên quan phụ mẫu?

– Qua văn bản, nhà văn dã thể hiện tình cảm, thái độ gì?

Câu 2. Từ truyện ngắn Sống chết mặc bay và các truyện Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng mà em đã dược học ở chương trình Ngữ văn lớp 6 (tập I), em hãy tìm ra những điểm giống và khác trong cách viết của truyện trung đại và truyện ngắn hiện đại.

Câu 3. Nhân vật quan phụ mẫu trong truyện được khắc họa qua nhũng phương diện nào ? Bằng những hình ảnh, chi tiết nào ? Em hãy nhận xét vé nghệ thuật miêu tả nhân vật của tác giả.

Câu 4. Dựa vào truyện ngắn Sống chết mặc bay, em hãy giải thích vì sao tác giả Phạm Duy Tốn lại dùng thành ngữ “lòng lang dạ thú” để chỉ tính cách của quan phụ mẫu?

Câu 5. Hãy chỉ rõ phép tương phản và phép tăng cấp được nhà văn sử dụng trong truyện Sóng chết mặc bay. Nêu hiệu quả của việc sử dụng hai phép nghệ thuật này trong văn bản.

Câu 6. Có bạn cho rằng: có thể đổi nhan đề Sống chết mặc bay thành Vỡ đê hay Nỗi khổ của người dân. Em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?

Câu 7. Trình bày ngắn gọn giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật của tác phẩm Sống chết mặc bay

Phân Tích Truyện Ngắn “Sống Chết Mặc Bay” Của Phạm Duy Tốn

Phân tích truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn

Phạm Duy Tốn sinh ra trong thời đại lịch sử đầy bão tố. Tuy viết ít nhưng những tác phẩm của ông có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Ông đã trở thành một trong những người tiên phong mở lối cho giai đoạn thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân giai đoạn sau này. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam và cũng là truyện ngắn đầu tiên của nền văn học mới Việt Nam. Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy Tốn và được coi là một trong những tác phẩm mở đầu cho nền văn học hiện thực phê phán sau này.

Sống chết mặc bay được in lần đầu trên tạp chí Nam Phong, số 18, xuất bản năm 1918. Đây là một trong những truyện ngắn đầu tiên của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ. Nhà văn đã tập trung tái hiện một cách khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn, xa hoa, hưởng lạc của lũ quan lại. Qua tác phẩm, Phạm Duy Tốn đã đả kích, tố cáo manh mẽ sự vỏ lương tâm, thói vô nách nhiệm của bọn quan lại đương thời đã đẩy những người dân vô tội vào cảnh khốn cùng.

Phạm Duy Tốn là một trong những nhà vãn mở dầu cho văn xuôi hiện đại Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nội dung văn chương của ông chủ yếu phơi bày thực trạng thối nát, bất công của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Ông đã viết nhiều truyện ngắn : Nước đời lắm nổi, Bực mình, Con người Sở Khanh… Sáng tác của Phạm Duy Tốn làm xúc động lòng người bằng nghệ thuật tả chân những hiộn tượng mà ông quan sát được.

Sống chết mặc bay là một truyện ngắn được coi là bông hoa đầu mùa của nền văn xuôi hiên đại Việt Nam. Sự ra đời của truyện ngắn hiện đại là sự tiếp nối và phát triển thành tựu từ truyện ngắn trung đại. Khác với truyện trung đại chỉ chủ yếu thiên về việc ghi chép lại người thật, việc thật. Cốt truyện nhiều khi còn đơn giản, tính cách, tâm lí nhân vật nhiều khi chưa được tập trung khắc hoạ. Truyện ngắn hiện đại đã chú trọng đến nghệ thuật xây dựng truyện với tình huống truyện gay cấn, tâm lí, tính cách nhân vật, ngôn ngữ độc thoại, đối thoại phong phú hơn.

Đây là một trong những truyện ngắn hiện đại đầu tiên đạt nền móng cho sự hình thành thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Truyện đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

Toàn bộ truyện ngắn tập trung khắc họa hai cảnh tượng: Cảnh nhân dân hộ đê ngoài trời và cảnh các quan hộ bài trong đình:

Ngay mở đầu truyện, tác giả đã đưa ra một tình huống rất căng thẳng: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tẩm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng X phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Đê còn hay mất ảnh hưởng đến đời sống của toàn bộ dân chúng và quan lại. Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” đó, quan phải là người đứng “đầu sóng ngọn gió” cùng với nhân dân hộ dê. Nhưng sự việc diễn ra lại hoàn toàn đối lập với lẽ thông thường ấy. Vì thế, trong tình huống này, nghệ thuật tương phản đã được Phạm Duy Tốn sử dụng triệt để.

Trong khi dân đang hối hả hộ đê thì quan lại say sưa hộ bài. Sự tương phản đến từng chi tiết nhỏ nhất:

Cảnh dân hộ đê: thời gian là gần một giờ đêm. Tình thế vô cùng cấp bách, nguy hiểm, “ngàn cân treo sợi tóc”: khúc để làng X đang bị thẩm lậu, không khéo thì vỡ mất. Đê mà vỡ thì nhan dân khốn khổ biết chừng nào.

Mọi người nhốn nháo, thảm hại. Kẻ cuốc, người thuổng, kẻ dội dát, kẻ vác tre… người nào người đấy ướt lướt thướt như chuột lột. Thế nhưng, sức người khó lòng địch nổi với sức trời, thế đê không sao cự lại với thế nước. Không khíhộ đê náo loan, căng thẳng. Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người gọi nhau xao xác.

Trong khi dân chúng lầm than vì thiên tai đang giáng xuống đầu,. Dân cần quan phụ mẫu – quan cha mẹ của dân – vị phúc tinh cứu giúp thì quan đang ở đâu?

Cảnh đê vỡ và quan ù to thật trớ trêu và cây đắng biết bao. Đến phần hai này, thủ pháp tương phản, tăng cấp dã đẩy tình huống truyện lên đến đình điểm. Lúc này, dân không hộ đê nữa mà đã kêu cứu thảm thiết. Còn chiếu bài của quan cũng đang ở thời điểm gay cấn nhất. Quan không chỉ chờ ù mà còn ù rất to bởi thế “ngài chì lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ bài”. Tình thế của dân và quan đều thật căng thẳng.

Thế rồi, ngoài xa, kêu vang dậy trời đất. Tiếng kêu càng lúc càng lớn, lại có tiếng ào ào như thác, tiếng gà, chó, trâu, bà kêu vang tứ phía. Mọi người giật này mình. Duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ.

Quan là người duy nhất thản nhiên, ung dung theo đuổi quân bài. Ngài đặt toàn tâm toàn trí cho ván bài cũng như sẵn sàng đánh đổi nó lấy bao nhiêu sinh mạng của những người dân. Mức độ đam mê bài bạc của ngài càng cao thì sự vô trách nhiệm của ngài càng lên tới đỉnh điểm.

Một người nhà quê mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy vào, thở không ra hơi: “Bẩm quan lớn, dễ đê vỡ mất rồi”. Mức độ kêu cứu khẩn cấp của dân tăng lên. Nếu như ở đoạn trên dân còn ở rất xa dê thi đến đây sự xuất hiện của người nhà quê như một nhăn chứng sống hiện diện cho tình cành nhân dân trước hiện thực đê vỡ. Người nhà quê tìm đến quan như tìm đên một phúc tinh của nhân dân

– “Đê vỡ, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng…người sống không có chỗ ở, kè chết không có nơi chôn, tình cảnh thảm sầu”. Mọi người giật nảy mình trước tin dữ. Quan đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng: “Đê vỡ rổi! Đê vỡ rồi! Thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày”.

Đến khi ván bài ù, quan vỗ tay xuống sập kêu to. Ngài xòe bài, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy! Điếu mày!”. Niềm vui của quan là niềm vui chà đạp lên bao sinh mạng của nhân dán, bao tiếng kêu cứu. Đam mê cá nhân của quan được thỏa mãn nhưng đánh đổi bằng bao nhân mạng và của cải của người dân. Quả thực, vị quan phủ ấy là kẻ độc ác, phi nhân tính, “lòng lang dạ thú”, mất hết tính người.

Truyện ngắn Sống chết mặc bay chứa đụng giá trị hiện thực và giá tri nhân đạo sâu sắc. Thông qua việc phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa một bên là cuộc sống và sinh hoạt của người dân vô cùng cực khổ, một bên là cuộc sống xa hoa của lũ quan lại, đứng đầu là tên quan phủ “lòng lang dạ thú”, nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước cuộc sống lầm than của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền gây nên.

Phép tương phản và tăng cấp là hai nét đặc sắc trong nghệ thuật của truyện. Phép tương phản và tăng cấp ở đây đã tập trung thể hiện được sâu sắc hơn giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm. Ngoài ra, người đọc còn thấy được nhiều điểm đặc sắc nữa trong nghệ thuật của truyện như tình huống truyện giàu kịch tính, nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu cá tính; ngôn ngữ tác giả giàu cảm xúc, việc sử dụng phép liệt kê đặc sắc… Tuy nhiên, lời văn vẫn còn mang ít nhiều dấu ấn của văn học trung đại ờ thể văn biền ngẫu…

Sống chết mặc bay đã khá thành công trong việc vận dụng nghệ thuật truyện ngắn hiện đại, kết hợp khá thuần thục giữa kể chuyện, miêu tả, đối thoại, đẩy xung đột cảnh ngộ lên rất cao. Tác giả đã xây dựng dược một tình huống truyện độc đáo, sử dụng triệt để thủ pháp đối lập, tương phản, phép liệt kê, tăng cấp… với lối văn đa giọng diêu, lúc thiết tha, xúc động, lúc cay độc, mỉa mai… Thay vì viết những tác phẩm văn xuôi theo khuôn khổ truyền thống, tác phẩm của Phạm Duy tốn đã mở ra cánh cửa sổ đến một thế giới khác, thế giới không chỉ bao gồm trí thức và những tầng lớp trên, mà cả nông dân và những người kéo xe cần lao.

Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiên khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn, xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Truyện dụng lên hai bức tranh đời tương phản. Quan là kẻ quan liêu vô trách nhiệm sung sướng đến tột độ được hưởng thụ một món tiền lớn giữa lúc nhân dân dang đau khổ đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hòa được.

Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Văn Nghị Luận Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!