Xu Hướng 4/2023 # Điểm Mới Về Đăng Ký Kinh Doanh Trong Luật Doanh Nghiệp 2014 # Top 10 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Điểm Mới Về Đăng Ký Kinh Doanh Trong Luật Doanh Nghiệp 2014 # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Điểm Mới Về Đăng Ký Kinh Doanh Trong Luật Doanh Nghiệp 2014 được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 , có hiệu lực kể từ 01/7/2015. LDN 2014 hướng tới sự phù hợp với thực tế kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp và tháo gỡ nhiều khó khăn, hạn chế, góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật cũ, tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế.

1. LDN 2014 đã rút ngắn nội dung của Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp

Theo quy định của LDN năm 2014, thì nội dung của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ còn 4 nội dung chính: Tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; thông tin chi tiết nhân thân của cá nhân là người đại diện theo pháp luật, chủ DNTN, thành viên hợp danh, thành viên công ty TNHH; vốn điều lệ của doanh nghiệp.

Như vậy, LDN 2014 đã tạo một bước đột phá mới khi quy định nội dung trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sẽ không còn ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp

Bỏ ghi ngành nghề kinh doanh trong Giấy CNĐKDN; bỏ việc xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề (đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện) khi đăng ký thành lập doanh nghiệp. Theo đó, các tổ chức, cá nhân cứ thành lập doanh nghiệp trước, còn điều kiện về ngành nghề kinh doanh, thì tổ chức, cá nhân đó phải tuân thủ đầy đủ mới được làm. Quy định này tạo sự thân thiện hơn cho khởi nghiệp và kinh doanh nói chung.

3. LDN 2014 đã bỏ quy định về việc DN phải hoạt động KD theo đúng ngành nghề đã ghi trong GCNĐKKD

LDN năm 2014 đã bỏ quy định về việc doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mà chỉ quy định về việc đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh những ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật và bảo đảm duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh (doanh nghiệp thực hiện rồi gửi Thông báo đến cơ quan ĐKKD để cập nhật).

Như vậy, sẽ không còn khái niệm “kinh doanh trái phép” bởi vì hiện nay doanh nghiệp có quyền được tự do kinh doanh, miễn là phù hợp theo pháp luật chứ không còn là “trái phép” (ngành nghề chưa được ghi trong Giấy CNĐKDN) theo như các quy định trước đây.

Nội Dung Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Kinh Doanh Theo Luật Doanh Nghiệp Năm 2014 Có Điểm Gì Mới So Với Luật Doanh Nghiệp 2005?

Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 có điểm gì mới so với luật Doanh nghiệp 2005?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 29 Luật Doanh nghiệp 2014 thì nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ còn 4 nội dung chính (Luật Doanh nghiệp 2005 là 10 nội dung chính) là:

Tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp;

Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;

Thông tin chi tiết nhân thân của cá nhân là người đại diện theo pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, thành viên công ty và thông tin của thành viên tổ chức;

Vốn điều lệ của doanh nghiệp.

Theo đó, luật Doanh nghiệp 2014 đã bỏ nội dung ngành, nghề kinh doanh; bỏ việc xác định vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề. Điều này đã hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp 2013. Đồng thời, khi có sự thay đổi ngành, nghề kinh doanh, doanh nghiệp chỉ phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh để được bổ sung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp mà không phải đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới như luật cũ (Điều 32 Luật Doanh nghiệp 2014). Điều này giúp cho các doanh nghiệp không phải mất thời gian và thủ tục để chờ cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi muốn bổ sung ngành nghề kinh doanh.

Bên cạnh đó, việc bỏ ghi ngành nghề kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; bỏ việc xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề … Điều này đã hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp, làm cho doanh nghiệp trở thành công cụ kinh doanh thực sự an toàn, đa công năng và rẻ hơn…

Theo quy định tại Điều 33 luật Doanh nghiệp 2014: Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc khi thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải công bố công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đây là điểm mới trong lần sửa đổi này. Bởi theo quy định hiện nay, doanh nghiệp được lựa chọn phương thức công bố như đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong 3 số liên tiếp.

Thanh Hương

Admin PBGDPL

Luận Văn: Pháp Luật Về Đăng Ký Kinh Doanh Cho Doanh Nghiệp

, DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Luận văn thạc sĩ ngành luật: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, cho các bạn tham khảo

1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU THỦY PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 62.38.01.07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC chúng tôi TRẦN ĐÌNH HẢO HÀ NỘI, 2016

2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Tất cả các số liệu và những trích dẫn trong luận án đều có nguồn gốc chính xác và rõ ràng. Những phân tích của luận án cũng chưa từng được công bố ở một công trình nào. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận án Nguyễn Thị Thu Thủy

3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ………………………………………….. 7 1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu ……………………………………………………….. 7 1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu …………………………………………………………….27 CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH…………………31 2.1. Khái quát chung về đăng ký kinh doanh…………………………………………..31 2.2. Pháp luật về đăng ký kinh doanh …………………………………………………….59 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH Ở VIỆT NAM…………………………76 3.1. Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam…………………..76 3.2.Thực trạng thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam……….104 CHƢƠNG 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH Ở VIỆT NAM……………………….130 4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. …………………….130 4.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam hiện nay ……………………………………………………………………………………………135 KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………..152 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ …………………………………..154 TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………..155

4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt DN Doanh nghiệp ĐKDN Đăng ký doanh nghiệp ĐKKD Đăng ký kinh doanh GCNĐKDN Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp GPKD Giấy phép kinh doanh MTKD Môi trường kinh doanh NĐT Nhà đầu tư PLDN Pháp luật doanh nghiệp QLNN Quản lý nhà nước QPPL Quy phạm pháp luật GCI Global Competition Index Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu OECD Organization for Economic and Development Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam WB World Bank Ngân hàng thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới WEF World Economic Forum Diễn đàn kinh tế thế giới

5. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ BẢNG Bảng3.1: XếphạngMTKDnăm2014củamộtsốquốcgiaASEAN ………….100 Bảng 3.2: Tình hình số lượng loại hình doanh nghiệpError! Bookmark not defined. BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Tình hình số lượng đăng ký kinh doanh 6 tháng đầu năm 2016.106 Biểu đồ 3.2: Tình hình doanh nghiệp đăng ký thành lập mới theo vùng lãnh thổ so với cùng kỳ năm 2015Error! Bookmark not defined. Biểu đồ 3.3: Tình hình doanh nghiệp đăng ký thành lập mới theo lĩnh vự hoạt động so với cùng kỳ năm 2015Error! Bookmark not defined.

6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (11/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trọng tâm đổi mới là kinh tế nhằm tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với chủ trương đó, nền kinh tế đất nước ta đã có bước chuyển mình từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường với sự đa dạng về các thành phần kinh tế cùng các hoạt động kinh doanh, góp phần mạnh mẽ vào việc giải phóng thị trường, tăng quyền tự chủ kinh doanh của công dân. Sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã tiến một bước dài trên con đường hội nhập và phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Để đạt được những thành tựu trên, Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách, chủ trương để tạo mọi điều kiện, thu hút các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh. Chủ thể kinh doanh khi gia nhập thị trường phải thực hiện đăng ký kinh doanh. Bởi lẽ, đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý “khai sinh và thừa nhận” sự ra đời của các chủ thể kinh doanh. Do vậy, bất cứ chủ thể kinh doanh nào thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật muốn tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh đều có thể đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông qua hoạt động “đăng ký kinh doanh, chủ thể sẽ được cấp “giấy phép đăng ký kinh doanh”. Tuy nhiên, để phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, quy trình cải cách đăng ký kinh doanh đã có những đổi mới. Nhà nước Việt Nam đã chính thức thống nhất quy trình: đăng ký kinh doanh với đăng ký thuế, áp dụng một mã số duy nhất định danh cho doanh nghiệp. Do vậy, thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” được thay thế bằng thuật ngữ ” đăng ký doanh nghiệp. Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động ĐKKD nhằm thực hiện trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát các chủ thể kinh doanh ngay từ khâu thành lập, xác lập sự công nhận và bảo hộ những cá nhân, tổ chức được tiến hành kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định, loại bỏ khỏi thị trường những chủ thể không đủ điều kiện kinh doanh. Từ đó hướng đến việc bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, lợi ích chung của toàn xã hội và của các chủ thể kinh doanh khác. Do vậy, hoạt động đăng ký kinh doanh là một trong công đoạn của quá trình thành lập doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có được địa vị pháp lý trên thị trường không chỉ đơn thuần thỏa mãn các quy định của Luật doanh nghiệp mà còn đòi hỏi doanh nghiệp phải thỏa mãn các quy định của pháp luật chuyên ngành. Với những tiêu chí đó, hoạt động “đăng ký kinh

7. 2 doanh” theo nghĩa đầy đủ: là để doanh nghiệp được hoạt động trên thương trường, ngoài việc đăng ký được cấp GCNĐKDN, doanh nghiệp muốn hoạt động phải đáp ứng điều kiện “hậu kiểm” theo quy định của pháp luật đầu tư và pháp luật chuyên ngành về ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Hoạt động đăng kinh doanh được phát triển theo thời gian và phù hợp với thực tế qua quy định của các Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005, 2014 cùng với đó là những văn bản hướng dẫn thi hành… Hệ thống quy định của pháp luật về ĐKKD đã tạo ra môi trường thu hút mọi nguồn lực đầu tư và duy trì việc quản lý, giám sát doanh nghiệp. Nhà nước bảo hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện hành vi kinh doanh từ khâu đăng ký thành lập, đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh và cả khi doanh nghiệp rút khỏi thị trường, đồng thời luôn quan tâm phát triển pháp luật về ĐKKD để quy định đầy đủ cho các loại hình doanh nghiệp có cơ sở pháp lý khi ra đời hoạt động nhằm đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích. Ngoài ra, hoạt động đăng ký kinh doanh là một trong những hình thức để thực hiện quyền tự do kinh doanh thúc đẩy các chủ thể kinh doanh tham gia vào “một sân chơi chung”. Tuy nhiên, từ quy định của pháp luật cho tới việc thực tiễn triển khai áp dụng vẫn còn nhiều bất cập, mâu thuẫn, chưa có sự thống nhất, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, cơ quan đăng ký kinh doanh khó theo dõi đòi hỏi cần có những quy định hợp lý hơn, sát thực hơn, hiệu quả thực thi cao… để phù hợp với thực tế như: quy định pháp luật về sáp nhập, tạm ngừng, chuyển đổi, hợp nhất doanh nghiệp, các thương nhân, thể nhân khi có nhu cầu kinh doanh nhưng không muốn đăng ký kinh doanh, hay hậu quả pháp lý cho các thành viên khi tham gia thành lập công ty tên công ty, thương hiệu của công ty… điều này cần phải có sự nghiên cứu, lý giải cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ các yêu cầu trên, tác giả đã đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học. Đồng thời qua đó, luận án cũng hướng đến việc tìm hiểu, nghiên cứu, so sánh và phân tích những luận điểm, luận cứ khoa học và thực tiễn quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh để nhằm đưa ra những kiến nghị, hướng hoàn thiện phù hợp. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận án là nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và thực

8. 3 tiễn của pháp luật về ĐKKD, sự điều chỉnh pháp luật trong hoạt động ĐKKD. Từ đó, đưa ra định hướng, các luận cứ khoa học nhằm kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đề xuất mô hình đăng ký kinh doanh phù hợp ở Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án được xác định như sau: Thứ nhất: Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về đăng ký kinh doanh theo hướng việc đăng ký kinh doanh là quyền của các chủ thể kinh doanh và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các quy định của pháp luật, cụ thể như sau: – Lý luận về đăng ký kinh doanh gồm các nội dung sau: Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa, giá trị pháp lý của đăng ký kinh doanh, những điều kiện để thực hiện việc đăng ký kinh doanh, các yếu tố ảnh hưởng và chi phối việc đăng ký kinh doanh. – Lý luận về sự điều chỉnh của pháp luật về đăng ký kinh doanh, trong đó bao gồm các vấn đề như: khái niệm, đặc điểm pháp luật về đăng ký kinh doanh, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về đăng ký kinh doanh, nội dung của pháp luật về đăng ký kinh doanh; Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam dưới hình thức so sánh quá trình phát triển của đăng ký kinh doanh qua các Luật doanh nghiệp năm 1999, 2005, 2014. Thứ ba: Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về ĐKKD, từ đó làm rõ những thành tựu và hạn chế, đặc biệt là thấy rõ những thách thức của việc thực thi các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014, qua việc phân tích nguyên nhân của các bất cập trong quá trình thực thi Luật doanh nghiệp 2014. Thứ tư: Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng của pháp luật về ĐKKD, Luận án tập trung đưa ra những phương hướng hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án được xác định là các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, phạm vi nghiên cứu là hệ thống các quy định pháp luật của

10. 5 hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh đặc biệt luận án sử dụng phương pháp so sánh về pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam với một số nước trên thế giới để Việt Nam có thể tham khảo học tập nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong hoạt động đăng ký kinh doanh. Chương 3 mục 3.2. Luận án sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp để chỉ ra thực trạng thực hiện pháp luật trong hoạt động đăng ký kinh doanh. Trong đó bao gồm những kết quả đạt được và đặc biệt là những hạn chế, bất cập và những nguyên nhân tồn tại trong quá trình thực hiện đăng ký kinh doanh. Chương 4 mục 4.1. Luận án sử dụng phương pháp chủ đạo là phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống để xác định các định hướng cơ bản, quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương 4 mục 4.2. Luận án sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp hệ thống để đề ra các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam trong giai đoạn tới. 5. Những điểm mới của Luận án Luận án là công trình khoa học tập trung nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật trong hoạt động ĐKKD ở Việt Nam. Do đó, so với các công trình nghiên cứu đã được công bố trước đó, luận án sẽ có những điểm mới đóng góp cho khoa học pháp lý như sau: Nhìn nhận, phân tích dưới hình thức thực hiện quyền tự do kinh doanh, Luận án chỉ ra khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa, giá trị pháp lý của việc đăng ký kinh doanh, các yếu tố ảnh hưởng và chi phối đến hoạt động đăng ký kinh doanh. Luận giải, phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận của pháp luật về ĐKKD; Luận án chỉ ra khái niệm, nội dung và những nguyên tắc của pháp luật về ĐKKD. Phân tích, luận giải những quy định của pháp luật từ Luật doanh nghiệp năm 1999 đến Luật doanh nghiệp năm 2014 trên cơ sở so sánh, đối chiếu với pháp luật của một số nước trên thế giới về hoạt động ĐKKD và mô hình ĐKKD tiêu biểu theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới. Qua đó, Luận án chỉ ra những nguyên nhân, hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành về ĐKKD như Luật đầu tư, và các luật chuyên ngành.

12. 7 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước Hoạt động ĐKKD là một hoạt động phổ biến và được thực hiện ở hầu hết các quốc gia. Do đó, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh đã thu hút nhiều học giả, các nhà nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu về vấn đề này để nhằm cải thiện môi trường kinh doanh với những quy trình, thủ tục đơn giản, linh hoạt hơn. Trên cơ sở đó, học viên đã lựa chọn một số các công trình nghiên cứu tiêu biểu ở các nước dẫn đầu về chỉ số môi trường kinh doanh hay các nước hợp tác toàn diện, cùng khu vực có điều kiện kinh tế đồng đều để giúp Việt Nam học hỏi, tham khảo kinh nghiệm và hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh. – Cuốn sách”Doing Buisness 2013″: Smarter regulations for small and medium size enterprises”[112]. Dự án và Báo cáo chung của Ngân hàng thế giới và Tổ chức tài chính Quốc tế về Môi trường kinh doanh nghiên cứu năm 2003 với nội dung nghiên cứu áp dụng phương thức đánh giá khách quan sự tác động của các quy định kinh doanh ở tầm vi mô tới các doanh nghiệp. Báo cáo nghiên cứu rất chi tiết với 10 tiêu chí để đưa ra nhận định về MTKD của 185 quốc gia. Khi đánh giá về quy trình, thủ tục ĐKKD bản báo cáo chỉ ra những nước có quy trình thủ tục mất nhiều thời gian gây phiền hà là những nước vùng Trung Đông và Bắc phi gồm: Argentina có 14 thủ tục, Bruniei có 15 thủ tục và mất 101 ngày để thành lập doanh nghiệp… Singapore và Đặc khu Hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) tiếp tục có môi trường pháp lý thuận lợi nhất thế giới cho doanh nghiệp. Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc cũng được xếp vào nhóm 20 nước đứng đầu thế giới về mức độ thuận lợi trong kinh doanh. Còn đối với Việt Nam theo bản báo cáo chỉ số MTKD năm 2013 Việt Nam xếp hạng 108/185 nền kinh tế. Theo bản báo cáo pháp luật quy định về thủ tục ĐKKD ở Việt Nam phải trải qua 10 thủ tục, và 34 ngày để thành lập và đưa doanh nghiệp đi vào hoạt động [112].

15. 10 cuộc đối thoại giữa Chính phủ và các doanh nghiệp trong và ngoài nước; cải thiện phương thức, thủ tục ĐKKD, rút ngắn thời gian, chi phí cho nhà đầu tư kinh doanh. Bản bản cáo chỉ ra rất rõ những ưu điểm và nhược điểm của môi trường kinh doanh, và đây có thể là những căn cứ giúp Việt Nam xây dựng, sửa đổi Luật doanh nghiệp năm 2014. Cuốn sách “Understanding Company Law” của tác giả Philip Lipton, Abe Herzberg và Michelle Welsh, do Nhà xuất bản Thomson Reuters xuất bản năm 2012. Nội dung cuốn sách được tác giả nghiên cứu về Luật công ty năm 2001 của Australia, trong đó tác giả đã dành một phần để nghiên cứu những quy định của pháp luật về thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Australia. Theo đó, chủ thể kinh doanh khi muốn thành lập doanh nghiệp phải làm thủ tục ĐKKD tại Ủy Ban Đầu tư và Chứng Khoán Australia (ASIC) bằng hình thức đăng ký kinh doanh qua mạng và trả phí cho ASIC là AUD 426. Luật công ty Australia quy định chủ thể kinh doanh phải đăng ký những thông tin cơ bản sau: Loại hình công ty, tên công ty, tên và địa chỉ của thành viên, chi nhánh, văn phòng, địa chỉ, trụ sở chính, thời gian bắt đầu hoạt động kinh doanh… sau khi nhận được hồ sơ thành lập công ty ASIC sẽ cấp cho công ty đăng ký một CAN (Australian Compay Number). Thời gian để chủ thể kinh doanh hoàn thiện việc ĐKKD và nhận được giấy CAN chỉ mất 1 ngày. Theo các tác giả Philip Lipton, Abe Herzberg và Michelle Welsh phân tích quy trình ĐKKD tại Australia được thực hiện rất thông thoáng và không mất nhiều thời gian, kinh phí, là một quốc gia đứng đầu bảng về MTKD. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ ra quy trình ĐKKD tại Australia từ luật thực định công ty năm 2001, chứ chưa có sự so sánh hoặc nêu ra những ưu điểm và nhược điểm của Luật công ty năm 2001. Bài báo “Licensing regimes East and West” của hai tác giả Anthony Ogus and Qing Zhang, đăng trên tạp chí International Review of Law and Economics số 25 năm 2005. Nội dung của bài báo các tác giả đã tập trung phân tích, đánh giá vai trò của GPKD đối với hoạt động quản lý của nhà nước. Điều đáng lưu ý hai tác giả đã có cái nhìn đa chiều từ hoạt động quản lý GPKD từ những nước đang phát triển (Trung Quốc) đến những nước phát triển (Mỹ). Theo tác giả, những nước đang phát triển thường quản lý hoạt động cấp GPKD với những cách thức, thủ tục rườm rà,

16. 11 mất thời gian, chi phí dùng để kiểm soát hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Còn ở những nước phát triển nhà nước quản lý hoạt động cấp GPKD chỉ áp dụng đối với những hàng hóa đặc thù như: sản phẩm công nghệ cao, vũ khí…Qua đó, theo các tác giả GPKD nên được coi là công cụ để nhà nước quản lý doanh nghiệp chứ không phải là điều kiện để gây khó khăn cho DN, việc sử dụng GPKD ở những nước đang phát triển được áp dụng rộng rãi hơn và thường xuyên hơn. Nhằm hỗ trợ trong việc cải cách, quản lý hệ thống đăng ký kinh doanh theo tác giả John Wille, Karim O. Belayachi, Numa De Magalhaes và Frederic Meunier trong cuốn:”Leveraging Technology to Support Business Registration Reform”(In Practice Note). Sử dụng công nghệ để hỗ trợ cải cách đăng ký kinh doanh xuất bản vào tháng 7 năm 2011 đưa ra những giải pháp trong việc ứng dụng công nghệ thông tin để giảm thời gian cho các doanh nghiệp khi đi đăng ký kinh doanh, đồng thời cải thiện sự giám sát của Nhà nước và tạo điều kiện tiếp cận thông tin cho các doanh nghiệp. Theo các tác giả, để ứng dụng tốt công nghệ thông tin trong hoạt động ĐKKD nhà nước cần phải cải cách pháp luật và quy trình đăng ký trước khi ứng dụng công nghệ thông tin đồng thời xây dựng một cơ sở hạ tầng thật tốt, bồi dưỡng cán bộ làm công tác đăng ký kinh doanh, yêu cầu chủ thể khi đi đăng ký kinh doanh cần phải chuẩn bị hồ sơ đầy đủ để điền vào phần mềm đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, nhà nước cũng cần phải xây dựng các mối liên kết dữ liệu giữa các cơ quan thực hiện hoạt động đăng ký kinh doanh. Bằng chứng về 34 công ty đã ứng dụng thành công trong việc đăng ký kinh doanh bằng hệ thống công nghệ thông tin. – Tác giả Kristtian Rada và Ursula Blotte có bài viết nghiên cứu về”Improving Business Registration Procedures at the Sub-National Level the case of Lima, Peru.”; “Nâng cao thủ tục đăng ký kinh doanh tại cấp địa phương – bài học kinh nghiệm của Lima-Peru”. Bài nghiên cứu trình bày những bất cập của việc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh tại Lima-Peru trước đây phải mất 62% thời gian. Trước tình hình đó vào năm 2006 với sự hỗ trợ từ Quỹ IFCLAC về hỗ trợ kỹ thuật, Chính phủ Lima đưa ra một quy trình đăng ký kinh doanh mới làm giảm tổng thời gian cần thiết từ 60 ngày xuống còn 3 ngày với các bước: (i) Nhận thức xây dựng dự án, (ii) Triển khai dự án, (iii) Bài học kinh nghiệm. Theo các tác giả, việc cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh tại địa phương là điều hết sức cần thiết. Trên cơ sở

17. 12 thu thập thông tin, trao đổi, nghiên cứu thực tế, khảo sát, tác giả thấy trong những năm qua những rào cản, vướng mắc, thủ tục không cần thiết kéo dài quá lâu cùng chi phí quá cao đã làm cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể có tới 70% doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh đều thấy tại cơ quan đăng ký kinh doanh thiếu trang thiết bị, năng lực cán bộ hạn chế, thủ tục rườm ra, tiêu cực…Từ đó các tác giả đưa ra những kiến nghị nhà nước cần phải đảm bảo cơ sở kỹ thuật, yếu tố chính trị, nâng cao nghiệp vụ của cán bộ làm công tác đăng ký kinh doanh, quyết tâm phá bỏ những rào cản làm ảnh hưởng đến thủ tục đăng ký. Thực tế, sau một năm cải cách số lượng doanh nghiệp đăng ký gia tăng 400%, chỉ mất hai ngày có được giấy phép đăng ký kinh doanh. – Theo tác giả James Newton, Sylvia Solf, và Adriana Vicentini có nghiên cứu “Đăng ký kinh doanh một cửa tại El Salvador bắt đầu từ năm 2006” Trước năm 2006 chủ thể đăng ký kinh doanh tại El Salvador đã phải mất 115 ngày mới có được giấy phép đăng ký kinh doanh. Nhờ có thủ tục cải cách từ tháng 1 năm 2006, thủ tục đăng ký kinh doanh còn 26 ngày. Để giảm thời gian hoàn thành việc đăng ký kinh doanh, nhờ sự nỗ lực của Chính phủ El Salvador. Doanh nghiệp sẽ có thể hoàn thành 8 thủ tục khác nhau tại cơ quan đăng ký kinh doanh như: hoàn thành hồ sơ, giấy phép kinh doanh, mã số thuế (thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng), hóa đơn giấy tờ chính thức, đăng ký bảo hiểm xã hội,thông báo của Bộ Lao động. Toàn bộ thủ tục được thực hiện qua hệ thông thông tin điện tử ở cơ quan đăng ký kinh doanh. Mặt khác, để hoàn thành việc đăng ký kinh doanh ngày càng được nhanh hơn, cơ quan đăng ký kinh doanh tại ElSalvador đã ban hành sẵn những mẫu đơn đăng ký kinh doanh giúp cho doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc khai báo, đăng ký. Bằng những trải nghiệm cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh một cửa đã giúp El Salvador cắt giảm chi phí tới giảm chi phí 67%. Với những nỗ lực trong công cuộc cải cách đăng ký kinh doanh Salvador đã được Ngân hàng Thế giới công nhận, là một trong những quốc gia có cải cách tiến bộ hàng đầu trên toàn thế giới, môi trường kinh doanh đứng vị trí 15 trên 189 nền kinh tế trong báo cáo năm 2007. Từ một đất nước nghèo, điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, bằng sự quyết tâm Chính phủ ElSalvador đã mở ra một môi trường kinh doanh mới để thu hút các nhà đầu tư.

19. 14 là cầu nối giúp các quốc gia có những thay đổi, nhận định, nỗ lực cải cách chính sách pháp luật sao cho phù hợp với kinh tế toàn cầu. Thông qua báo cáo môi trường kinh doanh của World Bank, tình hình pháp luật về đăng ký kinh doanh ở các nước trên thế giới hàng năm đều có sự thay đổi theo hướng tích cực, đơn giản, dễ dàng áp dụng, hiệu quả thực thi cao, thực sự thu hút các nhà đầu tư, đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh. Như vậy, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài cũng đã cung cấp cho học viên một cái nhìn toàn diện về khởi sự thành lập doanh nghiệp. Mặc dù, ở các nước việc áp dụng và thực thi pháp luật là hoàn toàn khác nhau, nhưng đều có sự nỗ lực cải cách trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh. Một số kinh nghiệm tiến bộ về đăng ký kinh doanh được ghi nhận trên thế giới là: thực hiện quy trình đăng ký trực tuyến, bãi bỏ quy định về vốn tối thiểu, thiết lập cơ chế “một cửa” thống nhất chuẩn hóa hồ sơ, phí đăng ký cố định. Trên thế giới, thời gian trung bình để thành lập doanh nghiệp là 14 ngày. Trong 5 năm qua, mỗi năm thế giới có 45 cải cách được thực hiện trong lĩnh vực gia nhập thị trường của doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2013-2014, có 45 nền kinh tế đã tiến hành những cải cách nhằm đơn giản hóa việc khởi sự kinh doanh, đặc biệt chú trọng vào quy trình thành lập doanh nghiệp. Khu vực Châu phi (tiểu vùng Sahara) là có những cải thiện đáng kể nhất trong 5 năm qua. Tuy nhiên, doanh nghiệp tại các quốc gia này vẫn đối mặt với nhiều thách thức khác trong việc khởi sự kinh doanh và vận hành doanh nghiệp. Một số cải cách trong giai đoạn 2013-2014 trên thế giới là: – Đơn giản hóa thủ tục tiền đăng ký (chứng thực văn bản, thanh tra – kiểm tra, các thủ tục “tiền kiểm”): Những quốc gia đã thực hiện cải cách này là Albania, Bulgaria, Cộng hòa Hồi giáo Iran, Na-Uy, Mauritius, Tây Ban Nha, Vương Quốc Anh, Jamaica, Ấn Độ, Việt Nam. – Xóa bỏ hoặc giảm yêu cầu về vốn tối thiểu: Các quốc gia đã thực hiện là Áo, Benin, Trung Quốc, Cộng hòa Céch, Đan-mạch, Moldova, Ý, São Tomé and Príncipe, Senegal, Togo. – Xóa bỏ hoặc đơn giản hóa thủ tục sau đăng ký (thủ tục đăng ký thuế, đăng ký bảo hiểm xã hội, giấy phép kinh doanh): Các quốc gia đã thực hiện: Hy Lạp, Iceland, Lithuania, Mauritania, Liên bang Nga, Mỹ.

21. 16 cho chủ thể kinh doanh được thực hiện quyền tự do kinh doanh. *Nhóm các công trình nghiên cứu đánh giá về Luật doanh nghiệp Trên cơ sở đánh giá quy định về đăng ký kinh doanh lần đầu được quy định trong Luật. Viện quản lý kinh tế Trung ương là cơ quan đầu mối xây dựng hai đạo luật trên đã có “Báo cáo tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 và Luật Công ty năm 1990” đã có những bước cải thiện lớn về tính công khai trong các quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục và điều kiện để được đăng ký kinh doanh, tính minh bạch trong tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh. Những quy định này đã góp phần tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh được thực hiện quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên, do là những chế định đầu tiên mang tính chuyên biệt về đăng ký kinh doanh và thành lập doanh nghiệp nên những văn bản ban đầu này vẫn chưa thực sự “cởi trói” cho quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Năm 2004, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có “Báo cáo tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp năm 1999” trên cơ sở khảo sát doanh nghiệp thực hiện hoạt động đăng ký kinh doanh trong phạm vi cả nước. Kết quả thu được 300 loại giấy phép khác nhau mà người kinh doanh phải thường xuyên xin các cơ quan có thẩm quyền. Từ 194 loại năm 2002 lên 246 vào năm 2003 và 298 cuối năm 2004. Cứ trung bình, mỗi tuần lại sản sinh ra được một giấy phép mới. Đặc biệt, một số Bộ ngành vẫn quản lý theo tư tưởng “khả năng đến đâu, mở cửa đến đó”. Điều này dẫn đến việc xuất hiện ngày càng nhiều các loại giấy phép con, giấy phép trá hình được thể hiện dưới dạng các điều kiện kinh doanh, thậm chí là cả các giấy phép đã bị bãi bỏ nhưng tồn tại dưới hình thức khác. Để giảm con số 300 các loại giấy phép, bản báo cáo cũng nêu ra giải pháp bằng Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã bãi bỏ được 84 loại giấy phép không cần thiết trái với quy định của luật. Ngoài ra, Nghị định 59/2002/NĐ-CP đã loại bỏ thêm 4 giấy phép và thay thế 10 loại giấy phép bằng các điều kiện kinh doanh. Điều này thể hiện rất rõ quyết tâm của Chính phủ trong việc khuyến khích các hoạt động đầu tư kinh doanh thông qua việc loại bỏ một loạt các giấy phép đã lỗi thời, không còn cần thiết và chỉ giữ một số lượng rất nhỏ các giấy phép kinh doanh trong một số ngành nghề được coi là nhạy cảm. Năm 2006, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cùng Tổ

22. 17 chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ) đã phối hợp xuất bản cuốn “Sáu năm thi hành Luật Doanh nghiệp1999 – Những vấn đề nổi bật và bài học kinh nghiệm” đã nêu rõ, Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã đạt được bốn mặt được chủ yếu góp phần tạo điều kiện để công dân tự do kinh doanh những ngành, nghề mà pháp luật không cấm, giải phóng và phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, huy động và phát huy được nội lực vào xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội. – Cuốn sách:”Thời điểm cho sự thay đổi Đánh giá Luật doanh nghiệp 1999 và kiến nghị” của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên Hiệp quốc và Hợp tác tổ chức kỹ thuật Đức xuất bản năm 2004. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả, Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã đơn giản hóa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, kết hợp và bãi bỏ hàng trăm giấy phép không cần thiết nhằm xóa bỏ và giảm mạnh rào cản gia nhập thị trường, quy định rõ những quyền cơ bản của doanh nghiệp được kinh doanh ở tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm… Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 chưa thiết lập được nguyên tắc kiểm soát việc ban hành giấy phép mới và chưa thường xuyên đánh giá được hiệu lực và tính hữu ích của giấy phép, các điều kiện kinh doanh thậm chí trái luật chưa được ngăn chặn hiệu quả, hoặc chưa bãi bỏ kịp thời, kiểm soát được tên doanh nghiệp, doanh nghiệp trùng tên hoặc có tên có thể gây nhầm lẫn trên phạm vi toàn quốc, hạn chế góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài… Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã mở rộng quyền tự do kinh doanh, thành lập doanh nghiệp của nhà đầu tư không phân biệt đó là nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài. Luật đã đơn giản hóa trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh, áp dụng thống nhất chế độ đăng ký thay cho “cấp phép”, xóa bỏ những quy định “xin-cho”, “phê duyệt”, “chấp thuận” bất hợp lý, gây phiền hà cho doanh nghiệp, hạn chế tối đa rào cản gia nhập thị trường không cần thiết, tạo thuận lợi cho những người có khả năng thành lập doanh nghiệp, biến nguyện vọng kinh doanh của mình thành hiện thực. – Báo cáo tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó có đánh giá tình hình triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp từ năm 2006 đến năm 2013, phân tích những tác động tích cực và hạn chế của Luật để làm cơ sở cho sửa đổi bổ sung Luật Doanh nghiệp. Báo cáo chia thành 4 phần. Phần

23. 18 1 miêu tả tổng quan thực trạng khu vực doanh nghiệp hiện nay qua các con số thống kê. Phần 2 đánh giá mức độ thành công của Luật so với mục tiêu đã đề ra. Phần 3 phân tích những bất cập, khó khăn trong tổ chức thi hành Luật. Phần 4 là kiến nghị công việc tiếp theo và định hướng sửa đổi Luật Doanh nghiệp. *Nhóm các công trình nghiên cứu về môi trường kinh doanh – Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân (số 20) với nội dung:”Đăng ký và thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam – Con số và thực trạng” tháng 5 năm 2005. Tác giả ông Nick Freeman, ông Nguyễn Văn Làn và bà Nguyễn Hạnh Nam, bà Nguyễn Phương Quỳnh Trang – MPDF và bà Amanda Carlier Ngân Hàng Thế Giới (WB) cùng một số các tác giả khác đã phản ánh việc đăng ký kinh doanh đối với những doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân trong vòng từ năm 2000 đến năm 2004 trên cơ sở Luật Doanh nghiệp năm 2005 được ra đời. Theo các tác giả, một doanh nhân có thể đăng ký thành lập nhiều doanh nghiệp, rất ít hoặc không hề có doanh nghiệp trên thực tế, đồng thời còn tồn tại “các doanh nghiệp ma”. Bằng việc thông qua các mẫu điều tra trên 300 doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh có sự sai lệch về số lượng đang hoạt động, đóng cửa, hoặc trong tình trạng không rõ ràng, hoàn thành thủ tục chấm dứt hoạt động đăng ký kinh doanh, thay đổi địa chỉ đăng ký kinh doanh khác so với lúc ban đầu đăng ký. Ngoài ra, bản báo cáo cũng nêu những bất cập trong quá trình thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh như giấy phép, mã số thuế, mua hóa đơn, khâu hậu kiểm (đất đai, vốn, các thủ tục hành chính). Đây thực sự là những trở ngại đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. – Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ cùng với Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc vào tháng 2 năm 2005 đã đưa ra một bản báo cáo: “Báo cáo tổng hợp nghiên cứu rà soát các văn bản pháp luật về thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp với các tư tưởng chỉ đạo xây dựng luật doanh nghiệp thống nhất và luật đầu tư chung”. Bản báo cáo chia làm ba phần gồm: (i) Rà soát những quy định khác biệt bất hợp lý về thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; (ii) Các quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh trong thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp; (iii) Rà soát bất cập của các quy định về quản trị doanh nghiệp. Phần thứ nhất báo cáo đã chỉ ra sự khác biệt trong các quy định pháp luật về

24. 19 thành lập, tổ chức, quản trị doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Từ những quy định pháp luật khác nhau, bản báo cáo muốn hướng đến việc hợp nhất Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư lại để có sự thống nhất nhằm tạo ra một sân chơi chung, bình đẳng cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Phần thứ hai báo cáo đề cập đến những quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh trong thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Trong phần này bản báo cáo chỉ rà soát những hạn chế tự do kinh doanh trong pháp luật kinh doanh nói chung và thống kê những hạn chế quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh doanh chuyên ngành. Tuy nhiên, những nghiên cứu của bản báo cáo không đánh giá đâu là những hạn chế bất hợp lý, đâu là những hạn chế có căn cứ và hợp lý mà bản báo cáo chỉ đưa ra giải pháp về một quy trình có thể sử dụng để đánh giá tính hợp lý hay bất hợp lý của những quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh theo từng lĩnh vực (thuế, tài chính, đất đai…) Phần thứ ba báo cáo đã chỉ ra những bất cập trong các quy định về quản trị doanh nghiệp, để từ đó những quy định về quản trị doanh nghiệp cần tương thích với những nguyên tắc đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới và phù hợp với hoàn cảnh trình độ của Việt Nam. Đồng thời phải xác định trúng và đúng lợi ích trọng tâm cần bảo vệ cũng như nguyên tắc phân định thẩm quyền trong doanh nghiệp. – Tài liệu của CIEM, DOE, ILSSA và UNU-WIDER do Nhà xuất bản Lao động phát hành tháng 11 năm 2012:”Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam kết quả điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2011″ đã cung cấp thông tin thu được từ cuộc điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) lần thứ bảy năm 2011. Kết quả thu được từ các vòng điều tra trước, đặc biệt là vòng điều tra năm 2005, 2007 và 2009 đã khuyến khích Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) – Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (MOLISA), Khoa Kinh tế (DoE) – Trường Đại học tổng hợp Copenhagen và Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển thế giới, Trường Đại học Liên Hợp quốc (UNU-WIDER) cùng với Đại sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam lên kế hoạch và thực hiện một cuộc điều tra tiếp theo vào năm 2011. Cuộc điều tra này được thiết kế dựa trên các vòng điều tra trước đó. Cuộc

28. 23 với doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Từ đó tác giả liên hệ với một số cơ quan đăng ký kinh doanh nước ngoài như Hồng Kông, Malaysia để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. – Bài viết”Cải cách hệ thống giấy phép kinh doanh Việt Nam trong giai đoạn hậu WTO” (Trần Hữu Huỳnh Trưởng Ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) chỉ ra những bất cập của hệ thống giấy phép đăng ký kinh doanh ở Việt Nam như: về vấn đề pháp lý, điều kiện cấp phép, thủ tục và trình tự cấp phép, hiệu quả của giấy phép. Từ những bất cập đó tác giả đề xuất ra hai hướng cải cách: rà soát, phát hiện các loại giấy phép bất cập để điều chỉnh, xây dựng một cơ chế quản lý thống nhất hệ thống giấy phép kinh doanh, bao gồm cơ chế rà soát tổng thể các giấy phép đang tồn tại (rà soát lần đầu và rà soát định kỳ) và cơ chế kiểm soát việc ban hành các giấy phép. – Tác giả Trần Huỳnh Thanh Nghị đã có những bài viết:”Cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam: Nhìn từ kh a cạnh pháp lý qua báo cáo của Ngân hàng thế giới”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 07/2011, số 279; “Cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam trong chặng đường 10 năm hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Luật học, 08/2011, số135; “Thực trạng pháp luật về giấy phép kinh doanh”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 04, (236), 02/2013. Những bài viết đã phản ánh những thủ tục bất cập trong công tác ĐKKD tại Việt Nam so với các nước trên thế giới còn tồn tại nhiều bất cập, khó khăn, rào cản gây trở ngại cho các nhà đầu tư trong đó tác giả đã nhấn mạnh đến: Ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định ngày càng có chiều hướng tăng cao, nhất là từ năm 2007 đến nay, nhiều quy định về vốn pháp định không phù hợp, gây khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp trong thành lập và hoạt động kinh doanh, giám sát, quản lý doanh nghiệp duy trì mức vốn trong những ngành nghề đó sau đăng ký kinh doanh vẫn còn nhiều điều phải bàn về tính hiệu quả của vốn pháp định. Trên cơ sở những bất cập của pháp luật quy định về vốn pháp định Nhà nước cần có cơ chế giám sát, tránh để doanh nghiệp lo đối phó cho xong khi thành lập doanh nghiệp. Do đó, Chính phủ Việt Nam cần có những cải cách để tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, xúc tiến hoạt động đầu tư hơn nữa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu.

30. 25 Có thể thấy pháp luật về ĐKKD được quy định từ Luật công ty năm 1990 đến Luật doanh nghiệp năm 2014. Với khoảng thời gian hơn 20 năm, pháp luật về ĐKKD đã thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu, cơ quan, doanh nghiệp nghiên cứu về vấn đề này. Nhìn chung các công trình nghiên cứu ở từng mốc thời gian khác nhau đều có chung quan điểm như sau: – Môi trường kinh doanh ở Việt Nam còn nhiều bất cập; – Pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam hiện nay còn quá rườm rà, mất nhiều thời gian, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến tâm lý các nhà đầu tư; 1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu Sau khi tham khảo lý thuyết các công trình nghiên cứu pháp luật về đăng ký kinh doanh được đề cập đến ở trong nước và ngoài nước, học viên có một số nhận xét về tình hình nghiên cứu như sau: – Các công trình nghiên cứu đều thừa nhận PL về ĐKKD được thực hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới mặc dù các nước có khác nhau về đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; – Hầu hết các công trình nghiên cứu thừa nhận PL về ĐKKD có sự tác động ảnh hưởng rất lớn đến MTKD. Sự thông thoáng, phù hợp của các chính sách pháp luật là động lực, đòn bẩy thu hút các nhà đầu tư và ngược lại chính sách pháp luật chưa phù hợp sẽ gây khó khăn, phiền hà sẽ là rào cản cho các nhà đầu tư. – Những quốc gia có thứ hạng MTKD dẫn đầu đều là những quốc gia có sự cải cách về thủ tục hành chính và pháp luật quy định về trình tự thủ tục ĐKKD rất đơn giản với mô hình ĐKKD hiện nay chủ yếu áp dụng qua mạng (theo sự đánh giá phân tích của Ngân hàng thề giới). – Mô hình ĐKKD hiện nay trên thế giới đều thực hiện quy trình đăng ký trực tuyến, bãi bỏ quy định về vốn tối thiểu, thiết lập cơ chế “một cửa” (One-stop shop), chuẩn hóa hồ sơ, không có sự can thiệp của tòa án, phí đăng ký cố định. Trên thế giới, thời gian trung bình để thành lập doanh nghiệp là 14 ngày. – Pháp luật về ĐKKD quy định về cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc ĐKKD cũng khác nhau có những quốc gia ĐKKD tại Tòa án (Pháp, Mỹ…) có những quốc gia quy định tại tại Ủy ban đầu tư Chứng khoán (Australia…) hay tại

31. 26 cơ quan ĐKKD (Việt Nam, Trung Quốc…). – Việc cải cách thủ tục ĐKKD đã góp phần giúp các quốc gia cải thiện được MTKD để thu hút các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển và dễ dàng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. – Từ những bài học kinh nghiệm của các nước, Việt Nam lấy đó làm cơ sở nghiên cứu, cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp để phù hợp với thực tế, quy định pháp luật Việt Nam. – Các công trình nghiên cứu ở trong nước chủ yếu nghiên cứu về những vấn đề như quyền tự do kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp 1990, 1999, 2005, 2014. – Các công trình nghiên cứu chưa chỉ rõ việc ĐKKD là quyền của các chủ thể kinh doanh và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng những quy định của pháp luật. – Chưa có công trình nghiên cứu ở cấp độ Luận án tiến sĩ: “Pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam hiện nay” dưới góc độ nghiên cứu toàn diện hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về ĐKKD, phân tích, đánh giá một cách đầy đủ những ưu điểm và nhược điểm của hệ thống pháp luật về ĐKDK ảnh hưởng đến MTKD như thế nào trong thời gian qua. Đặc biệt, qua những kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để học viên nghiên cứu về thủ tục đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam dưới góc độ Luật học so sánh. 1.1.4. Những vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu – Nhận diện rõ hơn bản chất và mục đích của hoạt động đăng ký kinh doanh cũng như pháp luật về đăng ký kinh doanh theo tư tưởng về tư do kinh doanh và kinh tế thị trường. – Hệ thống hóa một cách đầy đủ hệ thống pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam đặc biệt sự ra đời của Luật doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực từ 1/7/2015. – Phân tích những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội chi phối đến việc ĐKKD ở Việt Nam hiện nay. – Đánh giá sự phát triển của việc ĐKKD qua các Luật doanh nghiệp năm 1990, 1999, 2005, 2014.

32. 27 – Đánh giá những nội dung cụ thể của PL về ĐKKD trong thời gian qua. – Phân tích những thành tựu và hạn chế, đặc biệt là những thách thức của việc thực thi các quy định trong Luật doanh nghiệp năm 2014. – Làm rõ thực trạng quy định pháp luật về ứng dụng công nghệ thông tin trong thủ tục ĐKKD, cấp GPĐKKD trong thời gian qua. 1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu 1.2.1. Cơ sở lý thuyết Luận án sử dụng học thuyết Mác -LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là hệ thống các tri thức lý luận vê thực hiện pháp luật. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2020 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, các Nghị quyết của Đảng về: cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt luận án đề cập tới Nghị Quyết số 35 NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Lý thuyết mà Luận án tiếp cận nghiên cứu cụ thể là lý thuyết về quyền tự do kinh doanh với tính cách là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận từ Hiến pháp 1992 đến Hiến pháp 2013 được ghi nhận, và đảm bảo thực thi thuộc trách nhiệm của nhà nước. Lý thuyết về dân chủ và trách nhiệm trong kinh tế thị trường mà ở đó, quyền lực nhà nước bị giới hạn bởi tinh thần nhà nước pháp quyền và khi đó, Nhà nước xuất hiện trong kinh tế thị trường như một tác nhân kiến tạo phát triển, không cai trị thị trường và doanh nghiệp mà tạo cơ hội và khuyến khích các nhà đầu tư tham gia thị trường, bảo hộ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc minh bạch và ngăn ngừa rủi ro pháp lý. Các doanh nghiệp có ý thức nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của ng- ười quản lý công ty đối với người lao động; tạo điều kiện để các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội của công ty hoạt động theo quy định của pháp luật trong việc thực hiện quyền dân chủ cho người lao động đồng thời tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh của mình đối với cộng đồng, môi trường, trong đó trách nhiệm đối với xã hội theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014, Bộ luật lao động Trên cơ sở

33. 28 Bộ Luật Lao động 2012 và Nghị định 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động (gọi chung là doanh nghiệp). Bên cạnh đó, với tính cách là quyền cơ bản trong một trật tự văn minh, quyền tự do kinh doanh cũng được thực hiện theo những thang bậc và trình tự, thủ tục nhất định. Do vậy, quyền tự do kinh doanh thông qua đăng ký kinh doanh và thực hiện các hoạt động kinh doanh vẫn phải được thực hiện trong khuôn khổ của một trật tự chung, đảm bảo an toàn trong kinh doanh và không xâm phạm các lợi ích xã hội khác. 1.2.2.Câu hỏi nghiên cứu Luận án tập trung làm rõ vấn đề pháp luật về đăng ký kinh doanh. Từ những quy định của Hiến pháp, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư Cụ thể các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra như sau: (i). Bản chất của hoạt động ĐKKD là gì? Khái niệm và nội hàm của ĐKKD, pháp luật ĐKKD Dịch vụ này ra đời như thế nào? Ý nghĩa của hoạt động ĐKKD khi tiếp cận vấn đề này dựa trên quyền tự do kinh doanh? (ii). Quản lý nhà nước đối với ĐKKD là gì? Tác động ĐKKD đối với hoạt động kinh doanh của DN ra sao? (iii). Những tiến bộ và tồn tại qua hệ thống lý luận chung pháp luật về ĐKKD? Luận án chỉ ra những bất cập của PL về ĐKKD. (iv). Pháp luật về ĐKKD có ý nghĩa mục đích gì? Hội nhập quốc tế sẽ tác động thế nào đối với nhu cầu và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam. (v). Các mô hình ĐKKD, cung cấp thông tin về ĐKKD từ đó so sánh, đánh giá những thành công và bất cập của mô hình ĐKKD ở Việt Nam hiện nay. (vi). Xác lập mô hình ĐKKD phù hợp để áp dụng với tình hình hoạt đông kinh doanh cho DN ở Việt Nam hiện nay. (vii). Các giải pháp nhằm hoàn thiện thực thi pháp luật ĐKKD ở Việt Nam hiện nay.

34. 29 (viii). Những định hướng và giải pháp cơ bản để xây dựng, hoàn thiện pháp luật về ĐKKD trong Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư. 1.2.3. Giả thuyết nghiên cứu – ĐKKD là một hành vi pháp lý, do các nhà đầu tư chủ động thực hiện. Theo đó, nhà đầu tư công khai hóa trên thương trường sự xuất hiện của mình và thông qua đó, họ được nhà nước và pháp luật bảo hộ và đảm bảo an toàn pháp lý về những hoạt động kinh doanh được công khai hóa. – ĐKDD là một loại dịch vụ công, được thực hiện bởi một thiết chế do pháp luật chỉ định. Theo đó, cơ quan ĐKKD không phải là cơ quan cấp phép hay ban hành một quyết định hành chính theo nghĩa truyền thống của hành chính cai trị (cấp phép). Vì thế, cơ quan này không phải là cơ quan cấp trên của doanh nghiệp, của người đăng ký kinh doanh. Cơ quan ĐKKD chỉ cùng với nhà đầu tư thực hiện một thủ tục pháp lý theo quy định bắt buộc của pháp luật (Dịch vụ công). Tuy nhiên, quan hệ ĐKKD là quan hệ được pháp luật điều chỉnh nên các bên có quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định. Từ đó, tranh chấp phát sinh trong quá trình đăng ký kinh doanh cũng là một dạng tranh chấp theo thủ tục hành chính. – ĐKKD tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh DN. Theo đó, nó tạo tiền đề để doanh nghiệp thực hiện trên thực tế các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, một doanh nghiệp chưa/không đăng ký kinh doanh mà hoạt động kinh doanh thì pháp luật vẫn có thể bảo hộ các quyền lợi của doanh nghiệp và doanh nghiệp vẫn có quyền và nghĩa vụ như đã được đăng ký (Công ty thực tế). – Mô hình ĐKKD ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, chưa thực sự phù hợp với điều kiện kinh tế ở Việt Nam. Pháp luật quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể gia nhập thị trường. Quy trình thực hiện vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian, chi phí, chưa thực sự hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Các quy định của pháp luật bộc lộ hạn chế, bất cập cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Giải pháp tổng thể để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đăng ký kinh doanh cho phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế Việt Nam cũng như kinh tế quốc tế.

36. 31 CHƢƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH 2.1. Khái quát chung về đăng ký kinh doanh 2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của đăng ký kinh doanh 2.1.1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh Hiện nay, việc mở rộng giao lưu quan hệ thương mại giữa các quốc gia được các nước rất quan tâm. Do đó, đối với mỗi một chủ thể kinh doanh, để gia nhập thị trường và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải thỏa mãn rất nhiều điều kiện như: chủ thể, vốn, ngành nghề kinh doanh, trụ sở, phương án kinh doanh…một trong những điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất là chủ thể kinh doanh phải tiến hành thủ tục đăng ký thành lập với cơ quan quản lý nhà nước nhằm mục đích ghi nhận sự ra đời của các chủ thể kinh doanh đó trên thị trường. “Đăng ký” được hiểu là hoạt động của một cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức cá nhân nào đó được ủy quyền thực hiện việc ghi nhận, xác nhận về một sự việc hay một tài sản nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người được đăng ký cũng như tổ chức, cá nhân đứng ra thực hiện việc đăng ký. Ngoài ra, đăng ký “registration” nhà đầu tư cung cấp các thông tin cụ thể của mình để được phép hoạt động kinh doanh. Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Trung tâm từ điển, năm 1994 định nghĩa: “Đăng ký là ghi vào sổ của cơ quan quản lý để chính thức công nhận cho hưởng quyền lợi hay nghĩa vụ; Bằng chứng công nhận bắt đầu sự tồn tại hoặc chấm dứt một sự kiện hoặc một hiện tượng pháp luật” Thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” được ghép từ hai từ: “đăng ký”; “kinh doanh” hiện nay được nhìn nhận dưới nhiều góc độ như: Theo phương diện kinh tế: Đăng ký kinh doanh là hoạt động của doanh nghiệp tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất hay những dịch vụ nhằm thu lợi nhuận về cho các doanh nghiệp có thể tiến hành được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, tuy trong giai đoạn tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp chưa thực sự có, song chi phí trong quá trình đăng ký kinh doanh

37. 32 thành lập doanh nghiệp vẫn được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp và được khấu trừ trong khi tính thuế. Theo phương diện quản lý nhà nước: Đăng ký kinh doanh là hoạt động quản lý đầu tiên của Nhà nước đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện các hoạt động quản lý tiếp theo của mình khi doanh nghiệp đi vào sản xuất như định hướng của Nhà nước đến hệ thống các doanh nghiệp, làm cho hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Nhà nước, tạo ra sự phát triển đồng đều và cân bằng về mặt kinh tế và xã hội. Đồng thời đặt cơ sở ban đầu cho công tác quản lý trong khâu hậu kiểm, thực hiện việc điều tiết kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp ngay từ khâu gia nhập thị trường. Đăng ký kinh doanh được coi là biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Theo phương diện chính trị: Đăng ký kinh doanh được hiểu là quyền tự do của công dân. Tuy nhiên, quyền này phải được hiểu là tự do trong “khuôn khổ”, dân chủ tập trung và bình đẳng trước pháp luật. Quyền đăng ký kinh doanh cũng đồng thời là nghĩa vụ phải thực hiện. Quyền tự do kinh doanh của công dân có nội hàm bao gồm cả quyền tự do lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh và tự do đăng ký kinh doanh. Bất cứ một cá nhân tổ chức nào có đủ điều kiện để kinh doanh đều có thể đăng ký với nhà nước để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà không ai có quyền ngăn cản trái phép. Theo phương diện pháp lý: Hiện nay thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” chưa được quy định cụ thể trong Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Thậm chí, thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” được áp dụng theo Luật công ty 1990 đến Luật doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp do Chính phủ ban hành ngày 15/4/2010 và có hiệu lực thực hiện từ ngày 01/06/2010. Nghị định số 43/2010/NĐ-CP đã tạo ra bước ngoặt mới trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính chính thức thống nhất quy trình đăng ký kinh doanh với đăng ký thuế, áp dụng một mã số duy nhất để định danh cho doanh nghiệp, khái niệm “đăng ký kinh doanh” được thay thế bằng khái niệm “đăng ký doanh nghiệp” chính thức từ Nghị định này.

38. 33 Theo Nghị định 43/2010/NĐ-CP; Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 quy định: “Đăng ký doanh nghiệp là việc người thành lập doanh nghiệp đăng ký thông tin về doanh nghiệp dự kiến thành lập, doanh nghiệp đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký đăng ký doanh nghiệp và các nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác theo quy định của Nghị định này. Mặt khác, cơ quan thực hiện quản lý đăng ký doanh nghiệp hiện nay theo quy định của nhà nước là cơ quan đăng ký kinh doanh. Theo Khoản 3 Luật đầu tư 2014: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” Từ đây có thể hiểu: Đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý mà theo đó nhà đầu tư phải khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về dự kiến hoạt động của mình theo đúng quy định của pháp luật với các nội dung cụ thể, được Nhà nước thừa nhận ghi tên vào sổ đăng ký kinh doanh đồng thời cấp cho chủ thể đăng ký kinh doanh giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là bằng chứng pháp lý chứng minh chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp, được nhà nước công nhận và bảo hộ. ĐKKD được hiểu là một hoạt động pháp lý áp dụng cho các chủ thể kinh doanh khi gia nhập thị trường. Như vậy, để gia nhập thị trường và được hoạt động thì doanh nghiệp cần cả điều kiện cần và đủ cụ thể là: những loại hình kinh doanh, DN chỉ cần điều kiện cần tức là chỉ cần đăng ký doanh nghiệp và được cấp GCNĐKDN, đối với các lĩnh vực, ngành nghề không cần điều kiện, và phải có thêm điều kiện đủ, đối với những lĩnh vực, ngành nghề theo pháp luật đầu tư và chuyên ngành quy định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Thông qua hoạt động ĐKKD các chủ thể sẽ được đảm bảo về quyền và nghĩa vụ, được xác lập một địa vị pháp lý hợp pháp để các chủ thể kinh doanh tiến hành

Quy Định Mới Về Đăng Ký Doanh Nghiệp

Vừa qua, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 108/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp. Trong đó có một số điểm đáng chú ý như sau:

1. Chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp

Hiện nay, hộ kinh doanh muốn chuyển đổi thành doanh nghiệp phải trải qua hai bước là huỷ hộ kinh doanh và thành lập doanh nghiệp mới. Tuy nhiên, theo quy định mới, hộ kinh doanh chỉ cần thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp . Phòng Đăng ký kinh doanh sẽ gửi bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và bản chính Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh đến cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện để chấm dứt hoạt động hộ kinh doanh.

Quy định này không những đơn giản hoá thủ tục hành chính mà còn giúp doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh được hưởng các ưu đãi như: Miễn lệ phí môn bài trong thời hạn 03 năm, được miễn phí thẩm định, lệ phí cấp phép kinh doanh lần đầu,… (Cụ thể tham khảo bài viết Chính Sách Hỗ Trợ Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Chuyển Đổi Từ Hộ Kinh Doanh).

2. Quy định về thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp

thời hạn để doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử là 60 ngày kể từ ngày Phòng Đăng ký kinh doanh ra Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ. Sau thời hạn nêu trên, nếu không nhận được hồ sơ sửa đổi, bổ sung của doanh nghiệp, Phòng Đăng ký kinh doanh sẽ hủy hồ sơ đăng ký doanh nghiệp theo quy trình trên Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

Đối với những trường hợp đăng ký hoặc thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, Nghị định 108/2018/NĐ-CP đã có những sửa đổi, bổ sung như sau:

Doanh nghiệp có thể đăng ký chuyển đổi loại hình đồng thời với việc thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp khác (Trừ trường hợp đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật).

Bãi bỏ quy định phải có báo cáo tài chính của công ty tại kỳ gần nhất với thời điểm quyết định giảm vốn điều lệ đối với hồ sơ giảm vốn.

Việc thông báo thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập với Phòng Đăng ký kinh doanh chỉ thực hiện trong trường hợp cổ đông sáng lập chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua theo quy định.

phải thực hiện Thời hạn thông báo thay đổi thông tin của cổ đông sáng lập trong vòng 30 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo quy định (Trước đây là trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày có thay đổi).

3. Đăng ký địa điểm kinh doanh

Theo quy định mới, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp có thể ở ngoài địa chỉ đăng ký trụ sở chính. Bãi bỏ quy định doanh nghiệp chỉ được lập địa điểm kinh doanh tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính hoặc đặt chi nhánh.

Cập nhật thông tin chi tiết về Điểm Mới Về Đăng Ký Kinh Doanh Trong Luật Doanh Nghiệp 2014 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!