Xu Hướng 6/2023 # Đọc Hiểu Văn Bản: “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) # Top 12 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Đọc Hiểu Văn Bản: “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Đọc Hiểu Văn Bản: “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đọc – hiểu văn bản: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

I. Tác giả, tác phẩm:

1. Tác giả:

– Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937, tại Huế, quê gốc: Quảng Trị. Ông là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực

– Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về thể loại bút kí. Dù đã xuất bản một vài tập thơ nhưng có thể nói toàn bộ tinh hoa và năng lực của nhà văn đều dồn tụ hết cho thể kí. Chẳng phải ngẫu nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường được đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc).

– Phong cách: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ, độc đáo và một lối hành văn mê đắm, tài hoa; giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

– Các tác phẩm kí tiêu biểu : Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1987), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999)…

2. Tác phẩm:

– Hoàn cảnh sáng tác: “”Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được rút ra từ tập bút kí cùng tên, xuất bản năm 1984. Tác phẩm được viết tại Huế năm 1981.

– Thể loại: bút kí.

– Nội dung: Vẻ đẹp độc đáo, da dạng của sông Hương và tình yêu, niềm tự hào của tác giả đối với dòng sông quê hương, xứ Huế thân thương và đất nước.

– Bố cục: 3 phần

+ Phần 1: “Từ đầu …..chân núi Kim Phụng”: Cội nguồn của sông Hương + Phần 2: “Tiếp theo…quê hương xứ sở”: Sông Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế + Phần 3: Còn lại: Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc

– Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế.

II. Đọc – hiểu văn bản.

1. Sông Hương khi ở thượng nguồn.

– “Tựa như một bản trường ca của rừng già”: Khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc “mãnh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi “”cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu” → những hình ảnh có sức liên tưởng tự do gợi sức sống mãnh liệt, hoang dại.

– Có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” → gợi sự dịu dàng và say đắm.

– “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như cô gài Di-gan phóng khoáng và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”: → nghệ thuật nhân hoá.

→ “Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.

⇒ Với những hình ảnh có sức liên tưởng tự do, từ ngữ gợi cảm, bút pháp nhân hoá → Sông Hương vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính.

Bàn luận: Sông Hương vùng thượng lưu mang vẻ đẹp của một sức sông mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cùng có lúc dịu dàng, say đắm. Sự mãnh liệt, hoang dại của con sông được thể hiện qua những so sánh: “bản trường ca của rừng già”, những hình ảnh đầy ấn tượng: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Sự mãnh liệt thể hiện qua những ghềnh thác, cuộn sóng như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn… Vẻ dịu dàng, say đắm: sắc màu rực rỡ của “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Dòng sông được nhân hoá của một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, rừng già đã hun đúc cho “cô gái” một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.

Ngay từ đầu bài viết người đọc đã cảm nhận được sự cảm nhận tài hoa của ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường: liên tưởng kì thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm… tạo sức cuốn hút, hấp dẫn về một con sông mang linh hồn, sự sống. Kết thúc đoạn văn, tác giả giới thiệu trọn vẹn con sông (tâm hồn sâu thẳm của nó) vừa dẫn dắt, gợi mở sang đoạn tiếp theo.

Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn, người ta khó mà hiểu hết cái vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Nhà văn đã thổi vào đó ngọn gió tâm hồn dào dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do càng làm cho sông Hương  mạnh mẽ và đắm say hơn ở thượng nguồn.

2. Sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố.

– Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái ngủ mơ màng”.

– Ra khỏi vùng núi: thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”. rồi “vượt qua”, “ đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách” → hàng loạt động từ được tác giả sử dụng để diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc.

– Có lúc: “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Lai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; lúc qua những dãy đồi núi tây nam thành phố và mang “vẻ đẹp trầm mặc”như triết lí, như cổ thi.

⇒ Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa, kết hợp vốn hiểu biết phong phú về địa lí, tác giả đã làm nổỉ bật vẻ đẹp của sông Hương bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.

Bàn luận: Khi rời khỏi dại ngàn, chảy về đồng bằng và ngoại vi thành, sông Hương được ví “như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được “người tình mong đợi” đến đánh thức. Kiến thức về địa lí đã khiến tác giả miêu tả tỉ mỉ sông Hương với những khúc quanh và những lưu vực của nó.

Đoạn văn thể hiện năng lực quan sát tinh thế và sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng giúp nhà văn viết được những câu văn đầy màu sắc tạo hình và ấn tượng: “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dải đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Rồi giữa đám quần sơn lô xô ấy là giấc ngủ nghìn thu của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu.

Vận dụng kiến thức sâu rộng về văn hoá, văn học, tác giả tạo cho người đọc ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi gắn với thành quách, lăng tẩm của vua chúa thuở trước. Tất cả hòa quyện tạo mang lại hiệu quả nghệ thuật khi tác giả miêu tả được vẻ đẹp trầm mặc, cổ điển cùng với nét tươi mới, hiện đại của sự vật

Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

3. Sông Hương khi đến với Huế.

– “Sông Hương được cảm nhận bằng con mắt của hội hoạ: Vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. “Kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”. “Uốn một cánh cung tất nhẹ sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu” .

– Sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những đường nét thật tinh tế, làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô: “Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”. “Những nhánh sông đạo mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị” .

– Vẻ đẹp của sông Hương còn được thể hiện qua cách cảm nhận âm nhạc. “Sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng trữ tình”.

– So sánh sông Hương: như một cô gái: từng có lúc là cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại; có lúc như một cô gái Huế, một thiết nữ tài hoa, dụi dàng, sâu sắc, đa tình khéo trang sức mà không loè loẹt, phô trương; giống như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều lục.

– Sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ qua cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi………ngoại ô Vĩ Dạ .Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng…xưa cổ.Khúc quanh bát ngờ đó tựa như một “nỗi vương vấn” và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.

– Tác giả đã so sánh, liên tưởng: sông Hương giống như nàng Kiều trong đêm tự tình, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả → lời thề đó vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứa sở.

Bàn luận: Sông Hương khi chảy vào thành phố có nét đẹp riêng. Nếu ở trên, người đọc cảm nhận phần nào vẻ đẹp man dại, dịu dàng, trầm mặc của con sông, thì giờ đây con sông được khám phá, phát hiện ở sắc thái tâm trạng. Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn tình yêu, trở nên vui tươi và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại.

Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lí thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối”, “chiếc cầu trắng ở thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non”, sông Hương “uốn một cành cũng rất nhẹ sang cồn Hiến”, đường cung ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, “nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” làm dòng sông thêm lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có “những vấn vương của một nỗi lòng, không nỡ rời xa thành phố…”. Quả đúng như câu thơ của Thu Bồn:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.

Tác giả dành tình cảm yêu mến đặc biệt cho con sông này, thấu hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp của dòng sông. Bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, địa lí và văn chương, cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa, nhà văn đã bộc lộ được tình yêu say đắm, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

4. Sông Hương trong lịch sử và thơ ca.

* Sông Hương trong dòng chảy lịch sử của dân tộc:

– Tên của dòng sông Hương được ghi trong “”Dư địa chí”” của Nguyễn Trãi mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng)

– Là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phái nam của Tổ quốc đại Việt qua những những thế kỉ trung đại”

– “Nó vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” (TK XVIII)

– “Nó sống hết lịch sử bi tráng của thé kỉ XIX với màu của những cuộc khởi nghĩa””.

– Nó “Chứng kiến thời đại mới với cách mạng tháng 8 – 1945 và bao chiến công rung chuyển của hai cuộc vệ chiến sau này”.

Một số liên tưởng độc đáo, sâu sắc:

– “Sông Hương là sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” → sử thi là chiến công gắn liền với mốc lịch sử đất nước, nó là cái hùng phải gắn với màu đỏ. Ở đây là sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc. Phải chăng sử thi mà trữ tình, bản hùng ca mà vẫn dịu dàng tươi mát

– Với sự hiểu biết phong phú về lịch sử, tác giả đã cho thấy Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca, ghi dấu những thế kỉ vinh quang gắn liền với các sự kịên lịch sử của Huế, của dân tộc

* Sông Hương với cuộc đời và thi ca:

+ Với cuộc đời: Sông Hương là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở vẻ với cuộc sống bình thương, làm một người con gái dụi dàng của đất nước”. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ

+ Với thi ca:

– “Dòng sống trắng – lá cây xanh” (Chơi Huế – Tản Đà).

– “Như kiếm dựng trời xanh” (Trường giang như kiếm lập thanh thiên – Cao Bá Quát).

– Là sức mạnh hối sinh trong tâm hồn thơ Tố Hữu (Trên dòng Hương giang).

+ Sông Hương đã trở thành tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya → gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế.

Bàn luận: Tác giả đã tô đậm cho con sông Hương ấy bao nét thơ thật dịu dàng, thơ mộng mà hoang dã, đa tình, lịch lãm và cổ kính. Từ góc độ văn hóa truyền thống lịch sử tác giả cũng đã khắc họa sông Hương với nét tính cách đăc biệt qua đó cũng tái hiện lại cho bạn đọc những hình ảnh trong lịch sử và gắn liền với những phẩm chất rất riêng của người Huế. Mà đặc biệt hơn là vẻ đẹp của người con gái Huế luôn nhẹ nhàng, bay bổng mà rất đằm thắm.

Cách nhìn độc đáo của tác giả: từ góc độ văn hóa truyền thống, giàu chất thơ. Có một dòng thi ca về sông Hương, đó là dòng thơ không lại chính mình.

* Có lẽ, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là  tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng uyên bác của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn  hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử địa lí và văn chương, cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa.

5. Nét đặc sắc của văn phong tác giả:

– Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha thiết đối với quê hương, xứ sở vào đối tượng miêu tả, khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời sống, như tâm hồn con người.

– Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lí, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật và trải nghiệm của bản thân.

– Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tư từ như: so sánh, nhân hoa, ẩn dụ.

+ Sự kết hơp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan (Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan: đối tượng miêu tả – sông Hương).

Chất thơ trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường?

Gợi ý:

1. Chất thơ là gì? Chất thơ trong một tác phẩm văn học được tạo nên từ những yếu tố nào?

Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều yếu tố : Cảm xúc, cái đẹp, trí tưởng tượng và liên tưởng cùng khả năng sử dụng ngôn ngữ, nhặc điệu , giọng điệu của lời văn.Những yếu tố này hoà quyện với nhau, chuyển hoá vào nhau cùng biểu hiện trong từng chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.

2. Những biểu hiện về chất thơ trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” :

Chất thơ được thể hiện trong bài ký chủ yếu  ở chất trữ tình của tác phẩm : đó là tình yêu say đắm với sông Hương đẹp dịu dàng, với Huế cổ kính và thơ mộng.

Chất trữ tình của nhà văn xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa lên thành chất thơ của ngôn ngữ ( d/c).

Bài kí thể hiện đặc trưng nổi bật trong lối viết kí của tác giả: ngôn ngữ trong sáng, phong phú, giàu hình ảnh; dùng nhiều so sánh, ẩn dụ, liên tưởng; phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hóa, lịch sử và chất trữ tình lãng mạn.

Phân Tích Bài Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Của Hoàng Phủ Ngọc Tường

( bài làm của Nguyễn Khánh Huyền)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà tri thức gắn bó sâu sắc với thành phố quê hương. Ông là nhà văn chuyên về thể loại bút kí. Tác phẩm của ông vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, mang nội dung thông tin phong phú về văn hóa, lịch sử, triết học, địa lý,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết tại Huế năm 1981, rút từ tập bút kí cùng tên in năm 1986. Bài kí có ba phần và đoạn trích trong SGK là phần thứ nhất.

Sông Hương từ dải Trường Sơn đổ ra biển Đông có hai chặng khác nhau. Chặng thứ nhất từ ngọn nguồn trên sườn Đông dải Trường Sơn quanh co qua các dải đồi núi. Chặng thứ hai, khi mặt nước dòng sông đã phẳng lặng dần đến khi gặp chùa Thiên Mụ là bắt đầu tìm đúng đường về thành phố. Nhà văn ngược lên tận ngọn nguồn con sông để nhận diện nó rồi xuôi theo dòng để quan sát nó lượn quanh thành phố Huế. “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà hình như dòng sông không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.”, và kết quả là một phát hiện “Giữa lòng Trường Sơn. Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại.” … Đây là những so sánh nhân hóa thật đặc sắc. Nhiều tên gọi các dòng sông gắn với hình ảnh người mẹ ( sông Mê Kông và sông Hồng,..) nhưng tác giả lại thích so sánh sông Hương với người thiếu nữ. Người viết lần theo dòng chayrcon sông không phải với tư cách là nhà địa lý hay người đi vẽ bản đồ mà như một chàng trai khám phá tính cách của cô gái. Từ góc nhìn đó, những tưởng tượng và so sánh thú vị xuất hiện. Dòng sông như một cô gái đẹp đã nằm ngủ từ bao đời giữa cánh đồng hoang dại của Châu Hóa, rồi đến khi có “người tình mong đợi” đã đến đánh thức người đẹp. Người tình đây hẳn là thành phố Huế, song sự xuất hiện của Huế lại gắn liền với con người, lại không thể tách rời với tiến trình nam tiến của dân tộc. Dòng sông tạo nền tảng để xuất hiện văn hóa, văn minh, song cũng đợi con người để hiện thực hóa tiềm năng đó. Những câu văn có sức gợi liên tưởng vô cùng, tùy thuộc vào vốn sống, sự từng trải và quan tâm của người đọc.

Xuống đến đồng bằng, dòng sông uốn lượn qua nhiều khúc quanh để đến gặp thành phố. Từ chùa Thiên Mụ, dòng sông đã tìm đúng đường về: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, phía đó, nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy một chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.” Nhà văn hình dung đó là những chuyển động “uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó.” Không những đặc sắc miêu tả những đường uốn lượn, tác giả còn có quan sát và cách diễn đạt thú vị về màu sắc con sông. Sắc sông trở nên xanh thẳm khi đến chân núi Hòn Chén, vùng đồi núi lô nhô và lăng tẩm tạo nên vẻ đẹp trầm mặc nhất cho con sông.

Nhìn chung, cảnh quan sông Hương được nhìn ngắm từ góc nhìn văn hóa. Nhà văn suy ngẫm đầy chất trữ tình về không gian văn hóa trên hai bờ sông Hương. Uyên bác, lịch lãm, từng trải và tài hoa là những phẩm chất dễ thấy của tác giả trong phần này.

Về sông Hương trong lịch sử và thi ca, không thể tách rời sông Hương với lịch sử dân tộc, càng không thể tách rời sông Hương với Huế. Cảm hứng ấy toát lên từ những câu văn tự sự tưởng như khô khan: “Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ vinh quang với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thưở nó còn là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến dấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại.” Sông Hương là dòng sông của những sự kiện lochj sử hào hùng và dòng sông của cuộc sống hằng ngày. “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời mời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.” Tại sao đang suy nghĩ về lịch sử, tác giả lại chuyển đột ngột sang hình ảnh sắc áo cưới của Huế rất xưa mà các cô dâu vẫn mặc? Vì nhà văn muốn nói lên sự sống hiền hòa, dịu dàng vẫn là mạch sống của chính xứ Huế, của dòng sông Hương, khuôn mặt thực hiền hòa của dòng sông đôi khi ẩn giấu trong màn sương.

Bên cạnh đó, sông Hương còn là suối nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca, nhạc họa. Mỗi nghệ sĩ đều có khám phá riêng về dòng sông, hay như cách nói của tác giả muốn nhấn mạnh tính chủ động của con sông như một sinh thể “dòng sống ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Thi ca cùng kiến trúc, âm nhạc, hội họa góp phần làm cho không gian văn hóa sông Hương thêm phong phú, giàu bản sắc.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài thiên tùy bút như một tác phẩm mẫu mực viết về danh lam thắng cảnh của quê hương đất nước. Sông Hương như một sinh thể sinh động. Sông Hương tạo nên cả một không gian văn hóa. Sông Hương qua lịch sử lâu đời, nó bi hùng, song trong trường kì lịch sử, nó đẹp và thân thương như một người con gái. Những điểm nhìn đa chiều giúp người đọc yêu dòng sông hơn, tự hào về quê hương đất nước hơn.

Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông

2.1. Tìm hiểu chung

a. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường

Cuộc đời

Sinh năm 1939 tại thành phố Huế.

Quê gốc ở Quảng Trị, sống, học tập và hoạt động cách mạng ở Huế.

Là người có hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đặc biệt nhất là sử học, địa lý văn hóa ở Huế

Sự nghiệp văn học

Phong cách nghệ thuật:

Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình.

Lối liên tưởng phóng khoáng, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa..

Các tác phẩm chính:

Văn xuôi: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986),..

Thơ: Những dấu chân thành phố (1976), Người hái phù dung (1992).

Năm 2007 ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

b. Đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Thể loại: bút kí.

Xuất xứ: in trong tập sách cùng tên, viết tại Huế (1981).

Bút kí gồm 3 phần, đây là đoạn trích thứ nhất.

Bố cục: có thể chia bố cục làm hai phần:

Phần đầu: từ đầu đến “quê hương xứ sở: thủy trình của Hương giang.

Phần cuối (đoạn còn lại): Sông Hương – dòng sông của lịch sử văn hóa.

2.2. Đọc – hiểu văn bản

a. Vẻ đẹp sông Hương với cảnh sắc thiên nhiên

Sông Hương khi ở khúc thượng nguồn

SH “là bản trường ca của rừng già”: vẻ đẹp oai hùng, hung bạo, trữ tình.

SH “như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại: vẻ đẹp hoang dại, cuồng say, phóng khoáng, tự do, trong sáng.

SH “trở thành người mẹ phù sa của một cùng văn hóa xứ sở – đẹp dịu dàng và trí tuệ”: đẹp dịu dàng, sâu lắng.

⇒ Biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, liên tưởng, nhân hóa; các tính từ giàu sắc thái, biểu cảm, gợi cảm; nhịp văn nhanh dồn dập, mãnh liệt → Sông Hương như một người con gái của núi rừng tự nhiên, tràn đầy sức sống mãnh liệt, cá tính, hoang dại, cuồng say được “rừng già” chế ngự trở thành một người phụ nữ dịu dàng, sâu lắng, trí tuệ.

Sông Hương ở vùng đồng bằng và ngoại vi thành phố trước khi đến với Huế

Sông Hương như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được “người tình mong đợi” đến đánh thức.

Một vóc dáng mới, một sức sống mới đầy khao khát lãng mạn ” sông Hương chuyển dòng một cách liên tục”:

Từ ngã ba Tuần, chảy theo hướng nam bắc, qua hòn Chén.

Chuyển qua tây bắc, vòng qua Nguyệt Biều, Lương Quán.

Đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế.

⇒ “Như một cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của người con gái đẹp. Lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng giàu hình ảnh. Câu văn giàu chất hòa như đường cọ của người họa sĩ.

Sông Hương trong lòng cố đô

Tìm đúng đường về: vui tươi hẳn lên – người con gái trải qua bao nhiêu chặng đường, qua bao nhiêu sự đổi thay, trưởng thành đã tìm được đến với tình yêu, sánh đôi, quấn quýt bên người tình.

Chào thành phố: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến ⇒ Cách bộc lộ tình tứ, kín đáo, dạt dào yêu thương mãnh liệt.

Linh hồn của sông Hương đồng điệu với linh hồn Huế không thể trộn lẫn.

Sông Hương là bà mẹ của những khúc hát ca dao, dân ca xứ Huế.

⇒ Sông Hương với Huế = cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.

Sông Hương ở khúc biệt li với Huế

“Như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”

Sông Hương trôi đi chậm, thực chậm → an ủi người ta đừng quá sầu muộn về sự biến đổi vô thường của cuộc đời, về sự biến đổi chóng mặt của thời gian.

⇒ Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa là liên tưởng độc đáo thú vị đậm màu sắc văn chương.

b. Dòng sông Hương với vẻ đẹp lịch sử hào hùng của mảnh đất cố đô

Là một dòng sông anh hùng

Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng.

Thời trung đại:

Dòng Linh Giang đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam tổ quốc Đại Việt.

Vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ.

Thời chống Pháp:

Sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ 19 với máu của các cuộc khởi nghĩa.

Đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.

Thời chống Mỹ: Góp phần vào chiến dịch Mậu Thân.

Là dòng sông chịu nhiều đau thương, mất mát.

Là dòng sông có bề dày lịch sử.

Là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.

⇒ Nét đẹp của sông Hương và cũng là của xứ Huế được tác giả khắc họa từ góc độ lịch sử.

Dòng sông âm nhạc – người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.

Là nơi sinh ra toàn bộ nền âm nhạc cổ điển của Huế.

Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của Kiều.

Dòng sông thi ca – dòng sông không lặp lại mình.

Là vẻ đẹp mơ màng “dòng sông trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà.

Là vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” của Cao Bá Quát.

Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ Bà huyện Thanh Quan.

Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu.

Đem lại nguồn cảm hứng bất tận, mới mẻ cho các thi nhân.

Dòng sông gắn với những phong tục, với nét đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.

Màu sương khói trên sông Hương = màu áo điều lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng .

Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế “rất dịu dàng và rất trầm tư”.

Bài kí mở đầu và kết thúc bằng một câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Mang nghĩa hỏi:

Tên nhan đề gợi trí tò mò, kích thích sự khát khao, tìm tòi khám phá về dòng sông.

Huyền thoại “nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông” → cái đẹp vĩnh hằng và danh thơm muôn thủa.

Nội dung bài kí là câu trả lời dài ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó: Sông Hương”.

Mang tính chất biểu cảm:

Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính, tươi đẹp.

Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng, ngưỡng mộ trân trọng ngợi ca của tác giả với sông Hương, thành phố Huế thân yêu.

e. Nghệ thuật trần thuật

Giọng điệu trần thuật:

Giọng điệu giàu chất suy tưởng và chất triết luận

Giọng điệu trữ tình ngọt ngào, say đắm với cấu trúc nhịp nhàng, tài tình trong việc xem thơ vào văn xuôi.

Sử dụng nhiều biện pháp tu từ nghệ thuật: nhân hóa và so sánh, liên tưởng phóng khoáng, hình ảnh đặc sắc, giàu chất hội họa, nhạc và thơ…tạo nên những góc hình ảnh đa sắc về sông Hương, đưa người đọc từ thích thú này đến thích thú khác.

Ngôn từ: trôi chảy, hết sức tự nhiên, sử dụng hài hòa thanh điệu của các tiếng, lựa chọn từ ngữ đắt trong miêu tả đối tượng.

3 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông Của Hoàng Phủ

Tìm về với cội nguồn của dòng sông Hương qua câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ dựng lên bức tranh sông Hương hoang dại phóng khoáng mà mộng mơ lãng mạn, bên cạnh đó nhà văn còn khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa con người xứ Huế và dòng sông xứ sở ấy. Bài phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ cùng các em tìm hiểu chi tiết về những nội dung đặc sắc này.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

1. Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, mẫu số 1 (Chuẩn):

Với vốn kiến thức phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí, triết học, những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình cùng cách dùng từ ngữ, lối hành văn súc tích, hướng nội, mê đắm và tài hoa. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được viết tại Huế vào năm 1981 là một trong số những tùy bút xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Trước hết, nhà văn đã dùng vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc của mình để tái hiện một cách chân thực và rõ nét thủy trình của sông Hương với những vẻ đẹp khác nhau từ thượng nguồn cho đến khi nằm trọn mình trong lòng của thành phố Huế mộng mơ. Ở thượng nguồn, vẻ đẹp của sông Hương đã được tác giả khắc họa bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, thú vị. Sông Hương được ví như “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Với việc sử dụng câu văn dài, được tách thành nhiều vế cùng các động từ mạnh “rầm rộ’, “cuộn xoáy” và những hình ảnh độc đáo, tác giả đã làm hiện lên một sông Hương với vẻ đẹp mãnh liệt, hùng tráng, nhưng ở dòng sông ấy ta còn thấy vẻ đẹp “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Thêm vào đó, ở thượng nguồn, sông Hương còn được so sánh với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” – một vẻ đẹp giản dị và trong sáng. Cuối cùng, sông Hương ở thượng nguồn giống như “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Dường như, sông Hương giống như một cái nôi, giống như một người mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng những nét đẹp văn hóa ngàn đời của thành phố Huế. Có thể thấy, bằng hàng loạt những hình ảnh so sánh độc đáo, sông Hương ở thượng nguồn như một sinh thể đa tính cách, có vẻ đẹp hùng tráng mãnh liệt nhưng cũng có vẻ đẹp dịu dàng, nữ tính.

Nếu ở thượng nguồn, sông Hương là một sinh thể đa tính cách thì khi về đến ngoại vi của thành phố Huế tác giả đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp dịu dàng, trầm mặc của nó. Bằng cặp mắt quan sát đầy tinh tế của mình, ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương hiện lên như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” – một người con gái đẹp với những điều cong mềm mại bởi dòng sông ấy đang chuyển dòng một cách liên tục và đang uốn mình để khoe, để phô diễn những đường cong duyên dáng, mềm mại của mình. Thêm vào đó, sông Hương còn hiện lên là một người con gái dịu dàng, duyên dáng và luôn biết cách tự làm mới bản thân mình bằng cách thay đổi liên tục sắc áo của chính mình “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Ở nơi đây, sông Hương còn mang trong mình vẻ đẹp trầm mặc, “như triết lí, như cổ thi” bởi nó ẩn mình trong “những rừng thông u tịch” và “lăng tẩm đồ sộ”.

Sông Hương thơ mộng giữa thành phố Huế

Nếu sông Hương ở ngoại vi thành phố hiện lên với vẻ đẹp của một người con gái đẹp – mềm mại, dịu dàng nhưng đồng thời cũng mang vẻ đẹp trầm mặc thì sông Hương khi đã nằm trọn trong lòng thành phố Huế lại mang nét đẹp riêng. Trong lòng thành phố, sông Hương giống như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Đặc biệt, với vốn hiểu biết phong phú và sâu rộng của mình, ông đã đi so sánh sông Hương với những dòng sông khác trên thế giới để làm rõ nét khác biệt của sông Hương. Trước hết, tác giả đã so sánh sông Hương với “sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét” để thấy điểm giống nhau giữa chúng là nằm trọn trong lòng thành phố nhưng đồng thời qua đó cũng thấy được nét khác biệt của sông Hương chính ở chỗ sông Hương vẫn giữ được cho Huế vẻ đẹp của một đô thị, một thành phố cổ với những cây đa, cây cừa cổ thụ, với những ánh lửa thuyền chài lập lòe trong đêm… Thêm vào đó, tác giả đã so sánh sông Hương với sông Lê-nin-grat của Nga để thêm một lần nữa thấy sự khác biệt của sông Hương. Nếu Lê-nin-grat chảy nhanh, lưu tốc mạnh thì sông Hương lại hoàn toàn khác, nó có điệu chảy lặng lờ, chậm rãi, “cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Nét chậm rãi, lưu tốc chậm ấy của sông Hương có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm ngàn những cánh hoa đăng trôi nhẹ nhàng, “như vấn vương của một nỗi lòng”. Sông Hương ở trong lòng thành phố Huế như bản nhạc trữ tình nhẹ nhàng, chậm rãi dành riêng cho mảnh đất cố đô. Cùng với đó, ở nơi đây, sông Hương còn hiện lên như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” – một người chơi đàn rất giỏi và độc đáo.

Có thể thấy, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả lại một cách chi tiết, sinh động và độc đáo về thủy trình của sông Hương từ thượng nguồn đến trước khi ra biển. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bằng tất cả tình yêu, sự say đắm với sông Hương, với Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương ở vẻ đẹp của lịch sử và thi ca. Trước hết, sông Hương hiện lên là dòng sông của lịch sử. Nhìn lại suốt cả chặng đường dài của lịch sử dân tộc, sông Hương đã góp sức mình làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Thời kì dựng nước, nó là dòng sông biên thùy xa xôi, thời kì trung đại, gắn với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Trãi. Và để rồi trong suốt thế kỉ XIX hay trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và cả mùa xuân năm 1968, sông Hương đã ghi dấu lại những chiến công vẻ vang của dân tộc. Thêm vào đó, sông Hương còn là dòng sông của cuộc đời. Nó như một người con gái dịu dàng của đất nước. Người con gái ấy khi nghe lời gọi, đã “sẵn sàng hiến cuộc đời mình để làm một chiến công” và để rồi khi trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương lại là một người con gái dịu dàng. Và cuối cùng, sông Hương chính là dòng sông của thi ca, là một dòng sông đẹp và là nguồn cảm hứng của biết bao nhà thơ, nhà văn. Dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong các sáng tác của các nghệ sĩ, mỗi nhà thơ lại có những cảm nhận riêng về nó. Ta có thể bắt gặp những sông Hương với vẻ đẹp khác nhau trong thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan…

Tóm lại, bằng vốn hiểu biết hướng nội, văn phong mê đắm, tài hoa cùng tình yêu say đắm với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện một cách hấp dẫn, sinh động vẻ đẹp của sông Hương.

2. Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, mẫu số 2:

Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà văn gốc Huế, ông vốn gốc người Quảng Trị, nhưng từ khi sinh ra ông đã ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để viết được bài tùy bút này xuất sắc đến vậy. Nhà văn luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, tác phẩm của ông luôn mang một sức liên tưởng dồi dào và lối hành văn mê đắm, hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. Chính những đặc điểm ấy ở nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời có giá trị sâu sắc cho đến tận ngày hôm nay.

Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông được viết vào ngày 4-1-1981, tại Huế, được in trong tập sách cùng tên, bài bút gồm có ba phần, đoạn trích chúng ta được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu nói về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng Hương giang lững lỡ giữa trời Huế mộng mơ.

Hoàng Phủ Ngọc Tường viết những trang bút ký này bằng tất cả tình yêu thương cùng cảm xúc dâng trào của mình trong nỗi niềm với Huế. Hình ảnh sông Hương hiện lên như hình ảnh một cô gái Huế xinh đẹp, diễm tình, mái tóc đen dài như suối, tính cách của cô gái mang đầy màu sắc mới mẻ, có cá tính lúc mạnh lúc dịu dàng uyển chuyển.

Mở đầu, dưới sự am tường sâu sắc về địa lý, tác giả đem đến cho người đọc người nghe cái vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng phong phú cùng sức quyến rũ của dòng sông. Sông Hương được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng đỡ làm nổi bật hẳn, giữa chúng là sự tương hỗ, phụ trợ cho nhau tạo nên một vẻ đẹp rất Huế, rất thơ mộng. Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn, sông Hương chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy ở ngoại vi thành phố Huế, cuối cùng là sông Hương chảy qua thành phố, và chính lúc lúc này dòng Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân.

Sông Hương trong không gian núi rừng Trường Sơn, in bóng những vẻ đẹp mà núi rừng Trường Sơn đã tạo nên, đã góp phần hình thành nên dòng sông xinh đẹp. Và để làm rõ điều này tác giả đã đưa vào bài bút ký ba hình ảnh so sánh và nhân hóa đặc biệt ấn tượng, “sông Hương như một bản trường ca của rừng già”, một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo mới lạ, cho thấy cái cá tính của tác giả trong việc liên tưởng rất phong phú và mạnh mẽ đậm chất Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sông Hương mang cái chất hào hùng, dài bất tận, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt vừa hùng vĩ vừa hùng tráng, cũng rất đỗi trữ tình. Tất cả thể trong cái nhịp chảy của nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, “cuộn xoáy như những cơn lốc”, tác giả sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh cái hùng tráng của dòng sông. Nhưng không chỉ thế dòng sông cũng chẳng kém phần thơ mộng trữ tình khi chảy qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” và giữa cái cảnh sắc ấy dòng sông lại mang những phẩm chất khác hẳn “dịu dàng và say đắm”. Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng vẫn rất hài hòa tạo nên một vẻ đẹp đa dạng phong phú, một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương giang.

Nhưng chưa dừng lại ở đó, tự cảm thấy vẫn chưa lột tả hết được cái vẻ đẹp, cái tính cách của dòng sông ở đoạn này, nên nhà văn dùng tiếp một hình ảnh nhân hóa đầy sáng tạo, tác giả so sánh sông Hương giống như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, giống như bộ tộc sống du mục, tự do mạnh mẽ có phần hoang dại, làm ta liên tưởng đến những cô gái với vũ khúc tình tứ, cháy bỏng, say mê lòng người. Dòng sông qua miêu tả của tác giả trở nên có cá tính và tâm hồn khoáng đạt, chính rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Cái cá tính và tâm hồn ấy lại chính là thứ mà dòng sông muốn giấu đi và ẩn mình trong núi ngàn sâu thẳm, ngay khi ra khỏi rừng già, nó đã lập tức kết thúc phần đời hùng tráng ấy tại cửa rừng và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến được vùng thượng nguồn con sông, thể hiện cái sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng, cái sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, thể hiện được quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.

Ngay sau khi ra khỏi rừng già sông Hương đã vặn mình và khoác lên mình một tấm áo với nét đẹp hoàn toàn mới lạ, khiến cho chúng ta hơi ngỡ ngàng, bối rối. Tác giả so sánh vẻ đẹp của sông Hương như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô băng dòng phù sa ngọt ngào, ấm áp. Sự lặng lẽ chảy, lặng lẽ cống hiến bồi đắp phù sa để hình thành nên nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng âm thầm, hi sinh chịu đựng, tất cả vì những đứa con thân yêu, người mẹ ấy chẳng đòi hỏi gì, chỉ mong sao con mình khôn lớn, nay mai tỏa khắp phương trời. Đến đây tác giả đã thực sự thành công khi biến một dòng sông vốn vô tri vô giác, nay đã trở thành một sinh thể có cảm xúc, có cá tính, biết hi sinh như một con người thực thụ, để lại cho người đọ người nghe những ấn tượng vô cùng sâu sắc về dòng sông.

Bài văn mẫu Phân tích tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hết phần chảy ở giữa Trường Sơn, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua vùng Châu Hóa đầy hoa dại, hết sức lãng mạn, hết sức thi vị. Mang vẻ đẹp của “người gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy đang nằm ngủ mơ màng, thì người tình mong đợi đến và đánh thức. Sở dĩ tác giả có liên tưởng như vậy là bởi dòng sông khúc này nước chảy rất êm đềm. Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng. Thế nên đoạn chảy này được tác so sánh như cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau tìm về với nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm chàng hoàng tử trong mơ. Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới những vóc dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục, “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Tác giả ngắm nhìn dòng sông mà tưởng tượng đến “người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình, đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.

Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại quyến rũ của người con gái mà còn mang những vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú. “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, “mềm như tấm lụa”, một vẻ đẹp mềm mại, yên bình đến thế. Rồi dòng sông khi đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những mảng màu rực rỡ, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, thật kỳ thú và dòng Hương Giang như một bức tranh nhiệm màu, đặc sắc vô cùng. Khi sông Hương đi qua những lăng tẩm thì lại trở nên trầm mặc, cổ thi, tạo cảm giác như dòng sông Hương đang chiêm nghiệm, thành kính, suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng như thế nào, và rồi ông Hương bỗng bừng sáng, trẻ trung hơn hẳn khi nghe thấy âm thanh của thành phố.

Cuối cùng tác giả đem đến cảnh sông Hương nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái đang e ấp trong vòng tay của người thương, và lúc chuẩn bị rời xa người yêu. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”, gợi ra một mối tình mới chớm của người con gái Huế. Rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, như tấm lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình yêu đầu đời.

Tác giả so sánh sông Hương như một điệu “slow” của xứ Huế, chậm rãi, như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu chảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, du dương, mềm mại, ý nhị, một sức liên tưởng đầy thi vị, lãng mạn. Rồi thì nhà văn lại tiếp tục có những liên tưởng mới hết sức thú vị “sông Nê-va cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”. Tác giả muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc tàu thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ vì tàu trôi nhanh quá, thế tác giả mới thấm thía nhớ về sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố”. Kiểu chảy lững lờ ấy khiến ta liên tưởng đến một cô gái, bẽn lẽn nửa muốn đi, nửa lại muốn ở, chẳng nỡ rời ra vòng tay yêu dấu của người thương, lòng đầy vấn vương. Với lối viết sinh động và sáng tạo, tác giả biến dòng Hương giang thành một “nàng thơ” vừa cá tính lại vừa e ấp, dịu dàng đắm mình trong tình yêu cùng chàng trai xứ Huế mộng mơ.

Hơn thế nữa sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm hưng thịnh của cố đô Huế “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam, đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh xinh đẹp thơ mộng, suốt mấy nghìn năm văn hiến của đất nước. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó là nét cá tính, sông Hương đã có từ lâu nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.

Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, tinh thế, sử am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế tác giả Hoàng phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tá phẩm bút ký thật đặc sắc, như họa vào lòng người đọc người nghe một bức tranh Huế và sông Hương tuyệt đẹp, vẻ đẹp vừa gần gũi, lại thiêng liêng, nhưng cũng rất dịu dàng e lệ. Tất cả như hướng độc giả đến cái khao khát một lần được về thăm Huế, đứng trên cây cầy Tràng Tiền vắt ngang sông Hương mà chiêm ngưỡng dòng sông cho thỏa nỗi lòng.

3. Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, mẫu số 3 (Chuẩn):

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanhNon xanh nước biếc như tranh họa đồ”.

Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dòng sông Hương chưa? Sông Hương chính là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lại mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với phong cảnh hữu tình đó là dòng sông quê hương qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn, nhà khảo cứu văn học, văn hóa. Ông là một nhà văn chiến sĩ, có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về thể kí đồng thời là người đã có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của văn học. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu năm 1986. Tác phẩm đã làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đó là sự uyên bác, giàu chất thơ và giàu trí tưởng tượng.

Sông Hương là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái tôi của nhà văn. Sông Hương chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của xứ Huế. Chính vì vậy, sông Hương đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, từ góc độ địa lí đến lịch sử và qua góc nhìn văn hóa, thơ ca.

Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó tựa như “một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội”. Sông Hương khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc dưới đáy vực sâu”. Sông Hương mang dáng vẻ trữ tình hiện đại “lúc dịu dàng, say đắm giữa những rặng dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng biện pháp nhân hóa để bạn đọc cảm nhận được sông Hương như một “cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại” với “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” làm cho dòng sông nổi bật ở vẻ đẹp cá tính, hùng vĩ. Nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây ấn tượng mạnh: “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “dịu dàng”, “say đắm”, “gan dạ”, “tự do” để diễn tả từng trạng thái thay đổi của dòng sông. Tác giả còn sử dụng lối so sánh táo bạo, đặc biệt đầy hình ảnh: Sông là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di- gan”, là “người mẹ phù sa”. Tác giả đã nhân hóa sông trong liên tưởng với một cô gái, đây là liên tưởng kín đáo, ấn tượng làm cho gương mặt sông Hương được nắm bắt ở chiều sâu và ở nhiều phương diện khác nhau.

Dòng sông Hương gắn liền với nền văn hóa xứ sở của thành phố Huế

Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế, sông Hương “trở thành người tình dịu dàng và chung thủy với cố đô”. Sông Hương là người con gái đẹp “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Sông đã thay đổi hình hài, làm mềm đi nét nữ tính của mình. Sông Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa, đã thay đổi hình dáng “mềm như tấm lụa”, màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để dòng chảy trôi đi thực chậm. Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với vẻ đẹp của người con gái Di – gan. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dòng liên tục. Dòng sông có ý thức kiếm tìm về thành phố, “vui tươi hẳn lên” khi tìm đúng đường về, sông Hương còn là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” ru mọi người vào giấc ngủ yên bình. Khi chảy vào thành phố Huế, sông Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. “Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, tự uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến”, dòng sông mềm mại hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố, là niềm tự hào của xứ Huế, của con người Huế. Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân tộc, khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh “lập lòe trong sương đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn Mô – tê xưa cũ”.

Sông Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của các nhà văn, nó có chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhìn bằng con mắt hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô. Qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương như một điệu “slow” tình cảm dành riêng cho Huế, sâu lắng, trữ tình. Với cái nhìn đắm say của trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn nhận ở nhiều phương diện dưới các góc độ khác nhau. Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó lẳng lơ, kín đáo.

Sông Hương là dòng sông lịch sử. Dòng sông được khơi gợi trong sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang. Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại. Dòng sông ấy còn vẻ vang soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó đã chứng kiến Cách mạng tháng Tám, mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển. Sông Hương đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, mang đậm dấu ấn thời gian.

Không chỉ được nhìn ở dưới góc độ địa lí, lịch sử, sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận. Từ âm thanh của cuộc sống, tác giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian. Nhiều lần, nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình để hình thành nên cái nôi của văn chương, văn hóa.

Từ góc độ thơ ca, sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm dậy lên những vần thơ biếc xanh của Tản Đà: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Hình ảnh này với câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Đây là minh chứng thời gian của những tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nhà văn cũng làm sống dậy, sông Hương hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát. Sông Hương quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu chất thơ.

Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử đến văn hóa, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác nay bỗng trở nên có hồn , có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.

Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút kí đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả.

Sau khi đã Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông các em có thể đi vào Cảm nhận về Ai đã đặt tên cho dòng sông hoặc tham khảo Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông nhằm củng cố kiến thức của mình về những nội dung văn học này.

https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-tac-pham-ai-da-dat-ten-cho-dong-song-cua-hoang-phu-ngoc-tuon-41555n.aspx

Cập nhật thông tin chi tiết về Đọc Hiểu Văn Bản: “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!