Xu Hướng 6/2023 # Đọc Hiểu Văn Bản “Bếp Lửa” # Top 12 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Đọc Hiểu Văn Bản “Bếp Lửa” # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Đọc Hiểu Văn Bản “Bếp Lửa” được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Nhà thơ Bằng Việt (tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng), sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

“Bằng Việt là một nhà thơ được bạn đọc biết đến từ phần thơ in chung với Lưu Quang Vũ trong tập Hương cây – Bếp lửa (1968). Nỗi nhớ quê hương đầu tiên thành thơ là dành cho bếp lửa:”Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, một bếp lửa ấp iu nồng đượm” gắn với hình ảnh người bà và bên người bà là người cháu. Bài thơ nói về tình bà cháu vừa sâu sắc, vừa thấm thía trong những năm đầu đất nước đói kém, loạn lạc, cuối đời gian khổ khó khăn. Cảm xúc tinh tế, đượm buồn của ông về những kỷ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt nam. Bài thơ biều hiện một triết luận thầm kín: những gì là thân thiết nhất của mỗi tuổi thơ mỗi con người, đều có sức toả sáng, nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời. Mạch triết luận thầm kín được khởi đầu từ Bếp lửa còn được tiếp nối trong nhiều bài thơ khác như Trở lại trái tim mình khi ông coi thủ đô Hà Nội như một cội nguồn tình cảm, cội nguồn sức mạnh. Cùng với Thư gửi người bạn xa đất nước, Tình yêu và báo động, Trở lại trái tim, nhà thơ ghi lại được những trạng thái phong phú của một tâm hồn thanh niên rất mực mến yêu đất nước, con người, nêu bật được một thủ đô hào hoa, thanh lịch, trầm tĩnh và anh hùng. Bằng Việt còn có những bài thơ khá tài hoa diễn đạt những suy tư về những danh nhân văn hoá nhân loại như Béttôven, Pauxtôpxki, Plixetxcaia. Người đọc còn biết đến ông về những lo toan chu đáo, những bồi hồi thương nhớ của một người cha ở nơi xa chăm chú theo dõi từng bước đi chập chững của đứa con, trong bài thơ Về Nghệ An thăm con với lời thơ điềm đạm, kiệm lời mà có sức vang xa. Có thể nói với 20 bài thơ trong tập Hương cây – Bếp lửa, Bằng Việt đã khắc hoạ được một triết luận thầm kín của riêng mình. Ông là một trong số không nhiều nhà thơ trẻ được bạn đọc tin yêu ngay từ ban đầu của thơ. Thơ Bằng Việt thường nghiêng về một lời tâm sự, một sự trao đổi nghĩ suy, gây được một cảm giác gần gũi, thân thiết đối với người đọc. Thơ ông thường sâu lắng trầm tư thích hợp với người đọc thơ trong sự trầm tĩnh, vắng lặng. Đó là một dấu ấn riêng của thơ Bằng Việt, còn lưu lại trong ký ức người đọc” (Từ điển văn học, Sđd).

2. Tác phẩm:

– Các tác phẩm chính: Hương cây – Bếp lửa (thơ, in chung, 1968); Những gương mặt những khoảng trời (thơ, 1973); Đất sau mưa (thơ, 1977); Khoảng cách giữa lời (thơ, 1983); Cát sáng (thơ, 1986); Bếp lửa – khoảng trời (thơ tuyển, 1988), Phía nửa mặt trăng chìm (thơ, 1986); Mozart (truyện danh nhân, 1978); Lọ lem (dịch thơ Eptusenkô); Hãy nói bằng ngôn ngữ của tình yêu (dịch thơ Ritsos).

– Tác giả đã được nhận: Giải nhất văn học – nghệ thuật Hà Nội năm 1967 với bài thơ Trở lại trái tim mình; Giải thưởng chính thức về dịch thuật văn học quốc tế và phát triển giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa Bình (Liên Xô) trao tặng năm 1982.

– Bài thơ Bếp lửa được tác giả Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên đang học ở nước ngoài. Bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của người cháu về người bà và tuổi ấu thơ được ở cùng bà.

II – GIÁ TRỊ TÁC PHẨM

Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm,… mà có biết bao nghĩa tình, mà sao tha thiết, lắng sâu đến thế! Thì ra, có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, là hiện hình của những tình cảm thiết tha, chân thành, không thể nào quên. Tiếng gà trưa đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về một thời ấu thơ sống trong tình thương yêu của bà. Còn với Bằng Việt, trong bài thơ Bếp lửa (1963), như chính nhan đề của nó (cũng như nhan đề của bài thơ của Xuân Quỳnh: Tiếng gà trưa), “Bếp lửa” đã trở thành một hình ảnh biểu trưng cho sự ấm áp, nồng đượm của tình bà cháu. “Bếp lửa” khơi gợi, làm nhen lên, lan toả, cháy mãi dòng hồi ức tuổi ấu thơ, thao thức, đượm buồn.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Bài thơ đã bắt đầu như thế. Bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa “chập chờn trong sương sớm, chập chờn trong kí ức. Hơi ấm của bếp lửa bắt đầu truyền thấm, bắt đầu nhen nhóm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc thương yêu của cháu khi nhớ về bà. Hình ảnh “Một bếp lửa” điệp lại hai lần như nhắc nhớ, như hơi thổi vào bếp lửa đang “ấp iu”, để nhịp hồi tưởng bắt đầu… Để trong những dòng thơ tiếp theo, bao kỉ niệm thân thương ùa về:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói (…) Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Cháu nhớ, từ lúc cháu mới lên bốn tuổi, sống bên bà “tám năm ròng”… Nhớ quê mình ngày ấy, những ngày “đói mòn đói mỏi”, những ngày “bố đánh xe khô rạc ngựa gầy”, nhớ “khói hun nhèm mắt”, “sống mũi còn cay” đến tận bây giờ… Nhớ bà kể chuyện Huế trong tha thiết tiếng tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu từ cánh đồng xa, da diết, khắc khoải vọng về, nghe chộn rộn, nao nao, lại như se sắt, xa xăm. Nhớ khi vắng bố mẹ, “bà bảo cháu nghe”, “dạy cháu làm”, “chăm cháu học”. Nhớ “Năm giặc đốt làng”, cháu giúp bà dựng lại nhà. Nhớ lời bà dặn khi viết thư để bố yên tâm,… Cứ thế, trong dòng hồi nhớ nôn nao, những sự việc cụ thể hiện về nguyên vẹn từng chi tiết như thể vừa mới xảy ra hôm qua đây thôi. Và thấm đẫm trong từng hình ảnh, từng sự việc ấy là tình cảm sâu nặng của cháu với bà, hướng về bà. Hình ảnh người bà được khắc hoạ gắn liền với bếp lửa, là khi “cháu cùng bà nhóm lửa”, “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”, “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen”, “Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm – Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”,…

Hình ảnh bếp lửa trở đi trở lại (12 lần) trong suốt bài thơ. Cuộc đời bà lận đận, khó nhọc, giãi dầu mưa nắng nhưng bà luôn dành cho cháu tình thương yêu, săn sóc, chở che ấm nồng như bếp lửa. Bà – bếp lửa là hai mà như một, hoà quyện, hun thấm, thiêng liêng. Bếp lửa gợi nhắc hình bóng thân thiết của bà, và nhớ đến bà là cháu lại không thể quên bếp lửa ấm tình thủa ấy. Bếp lửa đã không còn chỉ là bếp lửa thông thường nữa. Bà nhen lửa là bà nhen lên:

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng Bà nhóm lửa là bà: Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Từ ngọn lửa được nhen lên từ bếp lửa của bà hoá thành ngọn lửa của tình thương yêu ấp ủ, ngọn lửa của niềm tin yêu bền bỉ cháy mãi không thôi. Bà nhóm lửa là bà nhóm lên, truyền cho cháu lẽ sống, lòng cảm thông chia sẻ. Mỗi khi xúc cảm kết thành những suy ngẫm sâu xa, lời thơ lại trào dâng lên như những điệp khúc bập bùng, chứa đựng niềm xúc động rưng rưng, rần rật cháy trong mạch tự sự của nhân vật trữ tình. Những hình ảnh thực, cụ thể, vốn rất đỗi gần gũi, thân quen đã được tác giả nâng lên thành những hình ảnh biểu tượng mang ý nghĩa khái quát sâu sắc. Điều bình dị đã trở nên quý giá, thiêng liêng, kì lạ. Kì lạ, thiêng liêng vì nó nhỏ bé, giản đơn mà đã trở thành hành trang theo cháu trong suốt cuộc đời. Kì lạ, thiêng liêng là vì “đã mấy chục năm rồi” mà bếp lửa của bà vẫn nồng đượm trong cháu, ngọn lửa của bà vẫn thầm cháy trong cháu “đến tận bây giờ”.

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…

Bài thơ Bếp lửa được sáng tác khi Bằng Việt đang là sinh viên ngành Luật của Trường Đại học Tổng hợp Ki-ép (Liên Xô cũ). Kì lạ và thiêng liêng biết bao khi trong cuộc sống đã ” Có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” mà lòng vẫn khôn nguôi hình ảnh người bà với bếp lửa ở tận miền kí ức ấu thơ.

Cứ nhẹ nhàng, mộc mạc mà thấm thía, sâu xa, bếp lửa của bà, ngọn lửa của bà, tình thương yêu của bà, cuộc đời bà đã soi rọi, toả ấm con đư¬ng cháu đi. Có thể cuộc sống hiện đại sẽ không còn nhiều người biết đến bếp lửa như ở nơi quê nghèo ấy nữa, nhưng nó đã thành biểu tượng, sẽ còn mãi giá trị “khơi gợi cho người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam”(1). Điều nhỏ nhoi, giản dị mà có ý nghĩa sâu sắc, lớn lao là như vậy.

(Sưu tầm)

Đọc Hiểu Văn Bản: “Uy

Đọc – hiểu văn bản: “Uy-lit-xơ Trở về” (trích SỬ THI “Ô ĐI XÊ”)

I. ĐỌC – HIỂU TIỂU DẪN.

1. SỬ THI “Ô ĐI XÊ”.

– Là 1 trong hai sử thi nổi tiếng của văn học Hi Lạp cổ đại (TK IX-VIIITCN)

– Tương truyền là do Hô me rơ (nhà thơ mù) sáng tác dựa theo truyền thuyết về cuộc chiến thành Tơ roa (xảy ra trước đó 3 thế kỉ)

– Tác phẩm gồm 12 110 câu thơ chia thành 24 khúc ca

* Tóm tắt: sgk (nhân vật chính là người anh hùng Uy-lit-xơ và hành trình trở về quê hương I tác đoàn tụ cùng gia đình)

* Chủ đề: Khát vọng chinh phục thiên nhiên để khai sáng, mở rộng giao lưu giữa các nền văn minh văn hoá; đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình.Qua đó thể hiện sức mạnh trí tuệ, ý chí của con người.

* Vị trí đoạn trích: Đoạn trích thuộc khúc ca thứ XXIII của sử thi Ô-đi-xê.

II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN.

1. Nhân vật Uy lít xơ:

– Tài năng: như một vị thần ( thắng trong cuộc thi bắn cung; tiêu diệt những tên cầu hôn đầu sỏ; trừng phạt lũ đầy tớ phản bội..) với trí tuệ mẫn tiệp ( bảo gia nhân bày tiệc, tìm cách đối phó với gia đình những kẻ cầu hôn vừa bị mình trừng trị..)

– Ngoại hình: đẹp như một vị thần

⇒ Uy-lit-xơ là hiện thân cho vẻ đẹp của người anh hùng chiến trận thời cổ đại

– Tính cách:

+ Nhẫn nại đợi vợ công nhận mình trong sự tin tưởng (thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy )

+ Trách Pê-nê-lốp vì có trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối … có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới về xứ sở

+ Hờn dỗi: đòi nhũ mẫu kê giường để ngủ một mình

+ Giật mình vì tưởng tình cảm vợ chồng không còn nguyên vẹn (qua bí mật về chiếc giường của hai vợ chồng )

+ khi vợ nhận ra chồng: ôm lấy vợ và khóc dầm dề

⇒ Diễn biến tâm lí phức tạp nhằm khắc họa tính cách trần tục của Uy-lit-xơ. Uy-lit-xơ vừa là người anh hùng muôn vàn trí xảo vừa là con người trần thế nhất mực thủy chung với gia đình

2. Nhân vật Pê-nê-lốp:

* Khi chưa gặp Uy-lit-xơ:

– Nàng thận trọng nói với nhũ mẫu về mối hồ nghi của mình: Chính chàng đã chết rồi; Chỉ có thần linh mới có thể tiêu diệt được bọn cầu hôn

– Nhũ mẫu đưa bằng chứng vết sẹo: Pê-nê-lốp không tin;

* Khi gặp Uy-lit-xơ:

– Pê-nê-lốp rất đỗi phân vân: vừa bàng hoàng xúc động vừa thận trọng dò xét.

– Ngồi lặng thinh trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt: đăm đăm âu yếm nhìn chồng; lúc lại không nhận ra chồng; gọi chồng là “ngài” xưng “tôi”.

– Bị con trai và cả Uy-lit-xơ trách móc, Pê-nê-lốp vẫn thận trọng đưa ra phép thử đối với Uy-lit-xơ dựa vào bí mật chỉ có hai người biết

+ Cách thử bí mật chiếc giường trong đoạn này vừa cho thấy phẩm chất trí tuệ của Pê-nê-lốp ( trọng danh dự, thận trọng, tỉnh táo) vừa cho thấy sự thủy chung, kiên trinh của nàng

* Khi Uy-lit-xơ nói ra bí mật chiếc giường:

– Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay, chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng, giãi bày tâm sự. Niềm vui sướng, hạnh phúc tột cùng.

⇒ Pê-nê-lốp là người phụ nữ khôn ngoan, tỉnh táo, thủy chung

3. Nghệ thuật:

– Ngôn ngữ kể chuyện trang trọng, chậm rãi, sử dụng nhiều định ngữ ( Pê-nê-lốp thận trọng, Uy-lit-xơ muôn vàn trí xảo,..)

– Lời nói của nhân vật được chau chuốt (vừa có hình ảnh vừa có chiều sâu trí tuệ ); tâm lí nhân vật được khắc họa rõ nét

– Sử dụng nghệ thuật so sánh mở rộng

Đọc Hiểu Văn Bản Cha Tôi

Đọc hiểu văn bản Cha tôi

Gợi dẫn 1. Đặng Huy Trứ (1825 – 1874) hiệu là Tỉnh Trai và Vọng Tân, tự là Hoàng Trung, người làng Thanh Lương, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Năm 1843, Đặng Huy Trứ đỗ cử nhân, năm 1848 đỗ tiến sĩ nhưng vì phạm huý ông đã bị đánh trượt và bị tước luôn học vị cử nhân.

Ông đã dâng nhiều thư điều trần đề xuất nhiều tư tưởng tân tiến nhưng đáng tiếc là những tư tưởng của ông không được thực hiện.

2. Đặng Dịch Trai ngôn hành lục thuộc thể kí, là tác phẩm khá thành công của Đặng Huy Trứ. Tác phẩm là những trang hồi tưởng của tác giả về người cha đáng kính của mình, ông Đặng Văn Trọng (tên hiệu là Dịch Trai). Tác phẩm ghi lại chi tiết lời nói và việc làm của Đặng Văn Trọng cùng nhiều chi tiết quan trọng về cuộc đời, qua đó thể hiện những quan niệm về cuộc sống của tác giả và tình cảm kính trọng của ông đối với người cha đáng kính.

3. Đoạn trích có nhiều từ cổ, cần đọc kĩ chú thích. Lưu ý thể hiện rõ giọng đọc các lời thoại.

Đoạn tríchlần lượt thuật lại ba sự kiện tiêu biểu, ba khúc ngoặt trên đường thi cử của nhân vật “tôi” (tức Đặng Huy Trứ). Sự kiện là việc thi cử đỗ trượt của “tôi” nhưng vấn đề tác giả muốn thể hiện ở đây lại nằm ở hành động, lời nói của người cha. Những phản ứng của người cha trước việc đỗ trượt của con trai đã thể hiện rõ nhân cách và cái nhìn sâu sắc của ông về con người.

Sự kiện thứ nhất xảy ra vào mùa thu năm Quý Mão (1843), “tôi theo cha cùng người anh con bác trưởng là Đặng Huy Sĩ đến trường Phú Xuân để thi”. Nhân vật “tôi” đi thi với mục đích “quen với tiếng trống trường thi”. Khi người ta xướng danh, yết bảng thì “tôi” đi xem hát. Cũng chỉ định đi chơi về rồi ngó bảng tú tài. Tất nhiên, đây chỉ là cách nói khiêm tốn của người thuật chuyện, song nó cũng thể hiện được thái độ đi thi của ông. Sự kiện đầy bất ngờ đã xảy ra, khi xướng danh họ Đặng, mọi người đều nghĩ là Đặng Văn Trọng. Thế nhưng người đỗ thứ ba lại chính là “tôi”. Đỗ thứ ba trong kì thi này là một vinh dự rất lớn, là hi vọng và mong đợi của mọi sĩ tử, kể cả của thân phụ Đặng Huy Trứ, tức Đặng Văn Trọng, một người tài giỏi mà ai cũng nghĩ là xứng đáng. Thế nhưng, thái độ của hai cha con lại hoàn toàn bất ngờ. Con thì không quan tâm, vẫn mải đi chơi và khiêm tốn với “ý định” “để đến tối sẽ đi coi bảng tú tài xem có tên mình hay không”. Còn người cha, nghe tin con đỗ, một tin vui đối với cả gia tộc, dòng họ thì lại có phản ứng thật lạ : “cha tôi dựa vào cây xoài, nước mắt ướt áo” như là “gặp việc chẳng lành”. Không phải ông buồn vì con thi đỗ mà ông lại trượt. Những giọt nước mắt của người cha ấy thể hiện tấm lòng cao cả, nỗi lo lắng của một người cha, một người từng trải, người vốn đã rất hiểu lẽ đời. Câu trả lời của ông hợp tình hợp lí : “Có gì đáng vui đâu. Đỗ đạt cao là để dành cho người có phúc đức. Con tôi tính tình chưa già dặn, chưa có đức nghiệp gì… Cổ nhân đã nói “Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã !””. Đó là nỗi băn khoăn của một người cha luôn lo lắng cho con. Câu trả lời của ông vừa rất khiêm tốn lại rất chân thành. Những câu nói ấy đã có ngầm ý rằng : mục đích của việc thi cử không nhất thiết phải đỗ đạt để làm quan ngay. Sự đời cái gì dễ kiếm thì không được trân trọng dù nó rất quý giá. Dù là người có tài năng thực sự nhưng nếu đỗ đạt quá sớm sẽ sinh ra kiêu ngạo và tự mãn. Phản ứng của người cha là phản ứng của người hiểu sâu xa câu chuyện “Tái ông thất mã”. Kể lại sự kiện này, tác giả đã chọn chi tiết, ngôn ngữ rất khéo léo để thể hiện nhân cách và suy nghĩ sâu xa của người cha. Ngôn ngữ và cách nói của người cha thể hiện ông là một nhà nho mẫu mực. Những lí lẽ ông đưa ra đều thật trọn vẹn, có trên có dưới. Không tự ti nhưng cũng không kiêu căng tự mãn: “Nào ngờ, mới một lần đi thi lại trúng thứ ba. Đó là do triều đình nuôi dưỡng, tổ tông tích đức, gia đình giáo dục mà được thế… Nhìn lên, tôi đội ơn tác thành của thiên tử, lại cảm kích công vun trồng của tổ tiên, chỉ sợ con tôi không báo đáp được nghĩa nặng ơn dày nên không cầm nổi nước mắt”. Tác giả đã dùng lời đáp ấy và mượn lời nhận xét của mọi người để tỏ lòng kính trọng và niềm tự hào về người cha của mình.

Sự kiện thứ hai được thuật lại trong đoạn trích vẫn lại là chuyện thi cử. Lần thứ hai, người con đỗ đạt và người cha cũng có phản ứng tương tự. Đó là”Khoa thi Hội mùa xuân năm Đinh Mùi nhân tứ tuần đại khánh của đức Hiến tổ Chương Hoàng đế Thiệu Trị, vua cho mở Ân khoa”.

Người cha nghe tin con đỗ đạt không hồ hởi vui mừng mà lo lắng : “Bậc đỗ đại khoa ắt phải là người phúc phận lớn. Con tôi đức độ ra sao mà được như vậy, chỉ làm cho tôi thêm lo lắng”. Không phải người cha không tin vào khả năng của con mình. Đây là cách phản ứng của một người cha có suy nghĩ sâu sắc, chín chắn. Ông đã thể hiện quan niệm của mình về người quân tử. Người đỗ đạt phải là người có tài và có đức. Đó là quan niệm của một chính nhân quân tử, một con người hiểu đời, hiểu người, hiểu lẽ sống và hiểu chính con trai mình.

Sự kiện thứ ba được tác giả thuật lại trong đoạn trích có khác với hai sự kiện trên. Tác giả đã chọn kể hai sự việc đồng thời xảy ra trong gia đình để ngợi ca tấm lòng và nhân cách của người cha. “Kì thi Đình năm ấy vào ngày 26 tháng 4. Đúng hôm đó, từ cuối nhà bên trái điện Cần Chánh báo tin dữ : bác ngự y Đặng Văn Chức mất […]. Tôi thì vừa bị đánh hỏng trong kì thi Đình… Cả nhà lại càng buồn cho tôi”. Trước hai tin dữ ấy, Đặng Văn Trọng đau đớn trước cái chết của người anh và coi việc con trai bị đánh hỏng là “không có chuyện gì đáng kể”. Với phản ứng của người cha như trên, có thể suy đoán dường như người cha không muốn con trai mình đỗ đạt. Một nhà nho theo nghiệp sách đèn khoa cử không lẽ lại coi thường chuyện đỗ đạt như vậy. Xem lại thì không phải vậy. Tấm lòng của người cha ấy được thể hiện rõ ở lời nói của ông trong phần kết đoạn trích. Khi việc tang người anh trai đã hơi thư, ông mời quay sang khuyên nhủ con trai. Lời khuyên nhủ này là tâm sự giấu kín từ nơi sâu thẳm tấm lòng người cha : “Đã vào thi Đình thì không còn đánh trượt nữa, từ đời Lê đến nay như thế đã lâu mà nay con lại bị đánh trượt”. Ông đã phân tích cho con trai thấy sai lầm nghiêm trọng của mình để người con nhận rõ điều trái phải. Việc để bị đánh trượt trong kì thi Đình là một lỗi lầm rất lớn. Nhưng ông không dừng lại ở việc chỉ ra sai lầm của con, mà quan trọng hơn, ông đã khuyên nhủ con trai những lời thấu tình đạt lí. Lời khuyên của người cha chứa đựng những triết lí về cuộc sống. Nó đã giúp cho người con nhận ra lỗi lầm của mình, nhưng không bị rơi vào sự tuyệt vọng, bi quan hay phẫn uất. Bài học ông dạy con có thể thu gọn trong câu “Thất bại là mẹ thành công”. Những lí lẽ người cha đưa ra thật thấu tình đạt lí, nó buộc người con phải suy nghĩ mà quyết tâm tiến thủ. “… tước cả khoa danh của con là để rèn luyện cho con nên người. Ông Phạm Văn Huy ở Thiên Lộc… Tài học, phẩm hạnh của con còn kém các ông ấy muôn lần. Người ta ai chẳng có lúc mắc sai lầm, quý là ở chỗ biết sửa chữa”.

Lí lẽ và quan niệm về chuyện thi cử, về thành công và thất bại của người cha đều rất sâu sắc. Đó cũng chính là một bài học nhân sinh quý giá cho người đời sau.

Người cha hiện lên trong lời tự thuật của nhân vật “tôi” thật đáng kính trọng. Ông là điển hình mẫu mực của một nhà nho chân chính. Qua câu chuyện của bản thân mình, tác giả đã đưa ra một triết lí sống rất thực tế và sâu sắc : ở đời, điều quan trọng không phải là thành công hay thất bại. Điều quan trọng là ta phải biết vì sao mình thất bại, từ đó rút ra bài học cho bản thân. Thành công không kiêu ngạo tự mãn, thất bại không bi quan tuyệt vọng. Phải biết mình biết ta, biết sống cho đúng mực và phải biết đứng lên sau khi ngã.

Cách kể chuyện trong đoạn trích rất tiêu biểu cho nghệ thuật viết kí. Tác giả rất trung thành với sự thực nhưng không dừng lại ở việc thuật lại sự việc. Trong khi thuật lại các sự kiện, người viết đã lựa chọn chi tiết, sự việc tiêu biểu để từ đó thể hiện thái độ của bản thân hoặc những quan niệm, tư tưởng có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Đặng Huy Trứ để lại nhiều sách về giáo dục, sử, binh thư, riêng về văn, có Đặng Hoàng Trung văn sao(Bản sao tập văn của Đặng Hoàng Trung), Đặng Hoàng Trung thi sao (Bản sao tập thơ của Đặng Hoàng Trung), Đặng Dịch Trai ngôn hành lục (Sao lục châm ngôn và hành trạng của Đặng Dịch Trai), Tứ giới thi(Thơ về bốn điều răn)…, trong đó đáng kể nhất là Đặng Hoàng Trung thi sao và Đặng Dịch Trai ngôn hành lục. Thi sao gồm 12 quyển, 1250 bài thơ làm trong thời gian 1840 – 1860. Thơ ông bày tỏ tấm lòng quan tâm đến đời sống người dân thường ở nông thôn, chung niềm vui nỗi buồn với họ, từ bác thợ cày, phụ nữ nuôi tằm, chị vú nuôi trẻ, bà đỡ hộ sản đến người chạy chợ, nhà nho nghèo… Qua nhiều bài thơ, tác giả đã khắc hoạ nhiều mặt đời sống phong phú ở miền quê, bằng những chi tiết cụ thể, như đống rấm trấu ban đêm, mẹt cau phơi ngày lạnh. Các sản vật địa phương cùng những nghề thủ công như rổ tre Bàu La, gạo gie An Cựu, lò vịt An Xuân, nghề làm đá ở Lục Bảo v.v… cũng đi vào thơ của ông. Sau khi ra làm quan, tác giả dành phần lớn thơ để bộc lộ rõ hơn nữa lòng ưu thời mẫn thế cùng những suy tư về vận mệnh ngả nghiêng của đất nước. Lòng yêu nước đó đã được thể hiện cụ thể bằng hành động chống giặc Pháp đến hơi thở cuối cùng.

Thơ Đặng Huy Trứ tuy chưa sánh được với các nhà thơ cự phách về mặt nghệ thuật nhưng mặt mạnh của ông lại là đưa được những hình ảnh hiện thực sinh động, cá thể, giàu sắc thái địa phương vào thơ. Mặt mạnh này càng thể hiện đầy đủ hơn ở cuốn văn xuôi Đặng Dịch Trai ngôn hành lục. Đây là cuốn hồi kí viết về người cha nhưng đề cập đến cả một gia đình đông đúc của ông, gồm bà, mẹ, các bác, anh em họ, hàng xóm láng giềng…, đặc biệt là phần kể chuyện về thuở ấu thơ, việc học hành, thi cử cùng mối tình thuỷ chung vượt lễ giáo của ông với cô hàng bánh. Những chân dung nhân vật, những tập tục một thời đều được ông kể lại tỉ mỉ, chân thật, do đó rất hấp dẫn người đọc ; là những tư liệu quý giúp bạn đọc đời sau hiểu về đời sống đương thời mà không phải nhà văn đương thời nào cũng để tâm ghi chép. Điều đó hẳn không tách rời với những cởi mở, đổi mới của ông trong việc nhìn ra nước ngoài, góp phần chấn hưng nền kinh tế nước nhà một cách thiết thực.

Đọc Hiểu Văn Bản Tấm Cám

Đọc hiểu văn bản Tấm Cám

Gợi dẫn 1. Thể loại Truyện cổ tích là một thể loại truyện dân gian có nguồn gốc từ thời nguyên thuỷ nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những số phận khác nhau của con người. Theo Nguyễn Đổng Chi, truyện cổ tích có bốn đặc điểm :

Yếu tố tưởng tượng trong loại hình truyện cổ tích Việt Nam nói chung ít xa lạ với nhân tính : loại truyện sinh hoạt chiếm một tỉ lệ tương đối cao ; loại truyện thần kì, truyện loài vật, truyện phiêu lưu mạo hiểm chiếm một tỉ lệ tương đối thấp.

– Truyện cổ tích Việt Nam thấm đậm chất liệu đời sống xã hội Việt cổ ; là biểu trưng nghệ thuật của cái hiền hoà, nhân ái, hay tính chừng mực trong tâm lí dân tộc.

– Tính cách phê phán hiện thực khá đậm trong truyện cổ tích Việt Nam ; nhân vật tích cực thường tỏ ra không bằng lòng với trật tự, tập tục có sẵn, phản ứng lại cái ti tiện tầm thường.

– Truyện cổ tích Việt Nam có một mảng đáng kể nêu bật vai trò tích cực của người phụ nữ, đề cập đến ước mơ tình yêu và hôn nhân tự do( 1).

Truyện cổ tích gồm ba loại lớn :

– Truyện cổ tích thần kì ;

– Truyện cổ tích sinh hoạt ;

– Truyện cổ tích loài vật.

2. Tác phẩm

Tấm Cám thuộc loại truyện cổ tích thần kì, thể hiện những đặc trưng tiêu biểu của truyện cổ tích. Đó là câu chuyện về cuộc chiến đấu giữa thiện và ác, là minh hoạ cho tư tưởng “ở hiền gặp lành” của nhân dân, là câu chuyện về những người thấp cổ bé họng trong xã hội nhưng lại có những phẩm chất tốt đẹp. Câu chuyện có hai tuyến nhân vật, đây là nét tiêu biểu cho thi pháp truyện cổ tích : Tấm – đại diện cho phía thiện, luôn bị chèn ép và hãm hại ; mẹ con Cám – đại diện của cái ác, luôn tìm mọi cách hãm hại người tốt. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa thiện và ác được thể hiện rõ ở mối quan hệ Tấm – Cám.

Trong truyện cổ tích, yếu tố kì ảo có vai trò giúp Thiện thắng ác, tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm ; đồng thời thể hiện sức sáng tạo và ước mơ của nhân dân lao động về một cuộc sống tốt đẹp và công bằng hơn. Tấm Cám là câu chuyện có nhiều ý nghĩa : ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa văn hoá… Kết thúc truyện tuy rất bi thảm song nó thể hiện niềm căm phẫn tột độ của tác giả dân gian đối với cái ác.

3. Tóm tắt

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm ở với dì ghẻ, bị mẹ con Cám bắt làm lụng suốt ngày. Một lần, để giành lấy yếm đỏ, Cám lừa đổ hết tép trong giỏ của Tấm, chỉ còn sót lại con bống. Tấm khóc, Bụt hiện lên dặn Tấm về nuôi cá bống. Mẹ con Cám lại lừa Tấm đi chăn trâu xa, ở nhà giết bống. Mất bống, Tấm khóc. Bụt hiện lên và dặn cô nhặt x­ương bống chôn vào bốn chân gi­ường. Vua mở hội. Bụt bày cách cho Tấm nhặt thóc gạo nhanh và có quần áo, khăn, giày đẹp để đi hội. Vua nhặt đ­ược chiếc giày Tấm đánh rơi bèn truyền lệnh ướm giày kén vợ và Tấm trở thành hoàng hậu.

Ngày về nhà giỗ cha, Tấm bị mẹ con dì ghẻ bày m­ưu giết chết để Cám đư­ợc thế chân. Tấm biến thành chim vàng anh bay vào cung. Nhiều lần bị Cám hãm hại, Tấm phải hoá thân thành cây xoan đào, khung cửi rồi cây thị… Về ở với bà cụ bán n­ước, Tấm đảm đang, khéo léo. Vua ghé vào quán nư­ớc thấy miếng trầu giống trầu Tấm têm ngày xư­a bèn hỏi thăm, nhận ra vợ mình và đón nàng về cung. Cám càng sinh lòng ghen ghét, ao ư­ớc đ­ược xinh đẹp như­ chị. Tấm bày cách xui Cám ngồi dưưới hố thật sâu rồi sai ngư­ời dội nư­ớc sôi xuống. Cám chết. Nghe tin dữ, mụ dì ghẻ uất lên, ngã vật xuống đất chết theo.

4. Cách đọc và kể

– Thể hiện lời dẫn chuyện khác với lời nhân vật.

– Dựa trên đặc điểm của các nhân vật, thể hiện giọng đọc, giọng kể : Tấm hiền thục, Cám chanh chua, Bụt nhân từ, mẹ Cám độc ác.

Một vấn đề nổi bật trong truyện cổ tích Tấm Cám là xung đột truyện. Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ phản ánh mối xung đột giữa cái thiện với cái ác trong xã hội. Xung đột này thường được truyện cổ tích giải quyết theo hướng cái thiện chiến thắng cái ác, dù phải trải qua gian nan, nguy khó, cuối cùng kẻ “ở hiền” tất sẽ “gặp lành”, được hưởng hạnh phúc và cái ác sẽ bị trừng trị một cách đích đáng.

Xét trên phương diện diễn biến, từ mở đầu đến kết thúc truyện, thái độ của Tấm đối với hành vi tàn ác của mẹ con Cám chuyển biến theo hướng sự phản kháng mỗi lúc một tăng tiến ; đồng thời cuộc đấu tranh giành và giữ hạnh phúc của Tấm trước mẹ con dì ghẻ ngày càng gian nan, quyết liệt hơn. Từ một cô Tấm hiền lành, chăm chỉ, lương thiện luôn luôn bị ức hiếp, bị bắt nạt, chỉ biết khóc trong oan ức, tủi cực,… đến một hoàng hậu bị cái ác hãm hại, giết chết, hết hoá thành vàng anh đến thành cây xoan đào, trở thành khung cửi và bị đốt thành tro, đến khi hoá thân vào quả thị rồi trở lại là cô Tấm,… Quá trình chết đi sống lại ấy cho thấy tính chất gian khó của cuộc đấu tranh “một mất một còn” của cái thiện với cái ác, đồng thời cũng cho thấy sức sống mãnh liệt đến mức không thể bị tiêu diệt của cái thiện.

Sự trở về với cuộc đời của Tấm ở cuối truyện nói lên quan niệm của nhân dân ngày xưa về hạnh phúc với triết lí “ở hiền gặp lành”. Trong ước mơ về công lí, công bằng xã hội ấy, cái thiện, người lương thiện được phần thắng, được hưởng hạnh phúc, đó là một kết cục tốt đẹp mang đặc trưng của truyện cổ tích ; còn cái ác phải trả giá, đúng như triết lí “ác giả ác báo”, “gieo gió gặp bão” mà nhân dân đã đúc kết.

Qua số phận của nhân vật Tấm, tác giả dân gian đã gửi gắm nhiều ước mơ, khát vọng. Đó là ước mơ về sự công bằng xã hội, cái thiện chiến thắng, cái ác phải trả giá ; ước mơ về hạnh phúc gia đình (Tấm – vua, sự trở về của Tấm bên vua…) ; ước mơ chính đáng và sự bù đắp cho những oan khổ bằng sự đổi đời (Tấm trở thành hoàng hậu) ; ước mơ tình nghĩa (Tấm và bà cụ hàng nước ; chim vàng anh, xoan đào và vua),…

Sự xuất hiện miếng trầu têm cánh phượng trong truyện mang nhiều ý nghĩa. Miếng trầu gắn với phong tục hôn nhân, với sự kết giao, hẹn ước, với tình nghĩa thuỷ chung,… mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam. Có thể thấy hình ảnh miếng trầu và tục ăn trầu trong truyện Sự tích trầu cau hoặc trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ, ví dụ :

– Miếng trầu ăn ngọt như đường, Đã ăn lấy của, phải thương lấy người. – Miếng trầu là đầu câu chuyện. – Miếng trầu nên dâu nhà người.

Trong quá trình chuyển biến của thái độ, sự phản kháng của Tấm đối với hành vi tàn ác của mẹ con Cám, cũng là quá trình đấu tranh của cái thiện với cái ác, yếu tố kì ảo có một vai trò quan trọng, thể hiện khát vọng, ước mơ, quan niệm của nhân dân. Nếu như ở phần đầu của truyện, mỗi lần Tấm gặp khó khăn Bụt đều hiện lên để ban tặng cho những vật thần kì, thì đến phần sau câu chuyện, ta không còn thấy Tấm khóc, cũng không thấy Bụt hiện ra nữa, mặc dù càng về sau thì sự nguy khó, gian nan mà Tấm gặp phải càng cao. Tính chất của yếu tố kì ảo ở phần sau không giống như ở phần đầu truyện, dù nó vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc quyết định số phận, quá trình hoá thân của Tấm nhưng rõ ràng là tác giả dân gian đã gửi gắm vào nhân vật Tấm ý thức chủ động trong việc giành và giữ hạnh phúc cho mình. Chim vàng anh, xoan đào, quả thị, rồi Tấm trở về và trừng trị mẹ con Cám, ở giai đoạn này cái thiện đã trực diện đấu tranh, quyết giành lấy sự sống trước cái ác.

Truyện Tấm Cám thể hiện rõ đặc điểm của thể loại truyện cổ tích thần kì. Đó là sự xuất hiện của yếu tố kì ảo và vai trò của nó đối với diễn biến, kết thúc câu chuyện. Có thể liệt kê ra các yếu tố kì ảo trong truyện Tấm Cám : Bụt, con gà biết nói tiếng người, đàn chim sẻ, sự hoá thân của Tấm thành chim vàng anh, xoan đào, quả thị rồi trở lại làm người, con quạ biết nói.

Tham khảo một số bản kể :

1. Các bản kể của người Kinh

a) Các bản kể ở đồng bằng Bắc Bộ :

Bản kể trên là bản kể phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Một số làng xã ở Bắc Ninh có đền thờ bà Tấm. Đây là hiện tượng phong kiến hoá truyện cổ tích dân gian để đề cao một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng rộng ở một vùng nhất định. Truyện ỷ Lan Thái hậu đã mượn nhiều chi tiết của truyện dân gian Tấm Cám. Các làng, xã như Dương Quang, Thuận Quang (huyện Thuận Thành), Sơn Trung, Sơn Nam (huyện Võ Giàng), Hưng Lãng, Thanh Đăng, Cát Lư, Thục Cầu, Nghĩa Lộ, Hoàng Nha, Thanh Miếu (huyện Văn Mĩ, Hải Hưng), Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội)… có đền thờ ỷ Lan Thái hậu (vợ Lí Thánh Tông), tức gọi là đền bà Tấm. Có một số chi tiết khác với bản kể chung, như :

– Tấm đem đôi hài quý phơi nắng, chẳng may chim thần cắp đi một chiếc đem vào bỏ ở cung vua Lí Thánh Tông. Vua đi cầu tự, bắt đàn bà con gái ướm thử, Tấm bận cắt cỏ không ra đón vua, vua cho gọi lại ướm hài thì chân vừa như in. Vua lấy làm vợ, gọi là ỷ Lan thái phi. ỷ Lan từ chỗ là cung phi được tôn làm nguyên phi (đứng đầu các phi sau hoàng hậu), về sau đoạt ngôi thái hậu của bà Thượng dương.

– Giày của Tấm là do chen chúc nhau ngày hội mà tuột ra. Vua nhận được giày, bắt dân gian ướm chân. Một số vùng như La Miệt (Quế Võ), Nga Hoàng (Võ Giàng)… trong ngày hội làng trước đây còn có tục chen nhau, với niềm tin có làm như vậy mới có hạnh phúc.

– Trong bốn lọ chôn ở chân giường có một lọ nước thần, Tấm tắm rửa, người mỗi ngày mỗi đẹp.

– Ông Bụt được thay bằng nhà sư Đại Điên, vị pháp sư đã giết Từ Vinh và bị Từ Đạo Hạnh đánh chết.

Sự tích ỷ Lan Thái hậu không phải là dị bản của truyện dân gian Tấm Cám mà là hiện tượng vay mượn cốt truyện dân gian để đề cao một nhân vật lịch sử. Chúng ta nêu ở đây để đối chiếu với tham khảo.

b) Bản kể ở đồng bằng Nam Bộ :

Cốt truyện cũng giống như bản kể chung, chỉ khác một số chi tiết :

– Tấm, Cám là hai chị em sinh đôi, Cám có xấu hơn nhưng khuôn mặt có hao hao giống nhau. Về sau, Cám giết Tấm tranh lấy vua, vua mới bị lầm.

– Tấm, Cám đi bắt cá để chọn xem ai làm chị, chứ không phải để lấy cái yếm đỏ. Do đó, lúc con Cám lừa Tấm, nó hát :

Đầu ai có rơm có rác, Kêu tôi bằng bác Tôi phủi rác cho

– Chim sẻ hiện lên, bày cho Tấm sàng gạo. Tấm chỉ sàng một loáng là đấu thóc và đấu gạo tách khỏi hẳn nhau.

– Vua tới dự giỗ chồng bà lão hàng nước, cầm miếng trầu mà nhận ra Tấm.

2. Các bản kể của đồng bào miền núi

a) Các bản kể của đồng bào Tày :

Truyện Tua Gia – Tua Nhi na ná như truyện Tấm Cám, ngoài ra có một số chi tiết khác như :

– Mụ dì ghẻ bắt Tua Gia gánh nước bằng ống bương thủng và lừa :

Gánh nước thì gánh suối xa Chớ gánh gần nhà, nước chẳng nên ăn

– Tua Gia bị giết hoá kiếp thành gà chứ không phải chim vàng anh.

– Tua Gia có con trai, Tua Gia chết đi, sống lại, nhờ có con trai mà vua và Tua Gia mới nhận ra nhau.

Ngoài truyện Tua Gia – Tua Nhi, đồng bào Tày còn có một số truyện khác như Nàng Khao – nàng Dăm, Cô gái mồ côi, nội dung cơ bản cũng như vậy.

b) Bản kể của đồng bào Nùng :

Truyện Ô Pẻn – Ô Kin của đồng bào Nùng giản đơn, ít chi tiết nhưng lại có những chi tiết đậm màu sắc núi rừng, thí dụ :

– Mẹ Ô Pẻn bị bố Ô Pẻn đánh chết vứt vào rừng hoá thành thần hổ. Ô Pẻn bị dì ghẻ bắt lên rừng canh nương. Thần hổ săn sóc Ô Pẻn, cô gái trở nên xinh đẹp vô cùng. Ô Kin thấy vậy, tranh đi canh nương. Thần hổ hiện lên quật chết. Quạ báo tin Ô Kin chết cho mụ dì ghẻ, mụ này lên rừng tìm xác con cũng bị thần hổ quật chết luôn.

c) Bản kể của đồng bào Thái :

Đồng bào Thái có truyện ý Ưởi, ý Noọng.

– ý Ưởi bị dì ghẻ hành hạ, khi mang giỏ cá rỗng không về bị dì đánh đuổi lên rừng, ngủ trong một túp lều lợp lá chuối. Hổ bắt gặp, định ăn thịt nhưng thấy ý Ưởi khổ sở, hổ động lòng thương lại giúp nàng có quần áo đẹp. Vua đi săn gặp nàng lấy làm vợ.

– ý Ưởi trèo cây cau bị dì ghẻ chặt gốc, ngã xuống suối chết đuối, hoá thành chim gáy. Dì ghẻ giết chim vứt vào lửa. Một bà cụ xin than mang xác chim bị cháy về, chim hoá thành người.

Truyện này không có nhiều chi tiết hoá kiếp như các bản kể phổ biến.

d) Bản kể của đồng bào Mèo :

Đồng bào Mèo có truyện Gầu Nà – Gầu Rềnh.

– Gầu Nà mồ côi, hàng ngày bị dì ghẻ bắt đi chăn bò. Bò thường hoá ra người và dệt vải đẹp cho Gầu Nà. Gầu Rềnh bắt chước tranh đi chăn bò bị bò húc đau và người càng ngày càng xấu xí.

– Gầu Nà gặp Nù Náng, một chàng trai Mèo khoẻ đẹp. Hai người lấy nhau. Đến ngày cưới, mẹ con Gầu Rềnh tìm cách đánh tráo cô dâu, nhưng Nù Náng thông minh đã đánh tráo lại và lấy được Gầu Nà.

– Đoạn cuối, lúc mụ dì ghẻ chết, hồn mụ còn hoá ra hai cây gạo để ngăn cách vợ chồng Gầu Nà nhưng thất bại.

Các bản kể ít nói đến vua hay hoàng tử mà thường nói đến một chàng trai khoẻ, đẹp. Truyện không nhắc đến chi tiết đôi giày.

e) Bản kể của đồng bào Chàm :

Truyện Ca Dong, Ha Lốc có một số chi tiết đáng lưu ý :

– Ca Dong là con gái nuôi, Ha Lốc là con gái đẻ.

– Ca Dong sống một mình buồn bã, nuôi con cá giá rốc làm em, hàng ngày bớt phần cơm nuôi nó.

– Ca Dong bị mất cá, nằm mê, hồn cá hiện lên bảo đem xương bỏ vào gáo dừa chôn ở ngã ba đường. Xương cá biến thành một đôi giày vàng. Ca Dong nhặt được một chiếc, còn một chiếc chim thần cắp vào cung vua.

– Vua xuống chiếu cho dân gian dự hội ướm giày. Ca Dong bị người mẹ nuôi trộn ngô lẫn vừng, rồi bắt nhặt riêng ra, lại còn bắt gỡ một cuộn chỉ rối.

– Bốn kiếp của Ca Dong là rùa, măng tre, chim sáo và quả thị.

g) Bản kể của đồng bào Xơ-rê :

Đồng bào Xơ-rê (Tây Nguyên) có truyện Gơ Liu, Gơ Lát.

Phần mở đầu truyện này có chi tiết chim thần thả xuống đất một đôi giày, ai ướm vừa thì hoàng tử lấy làm vợ. Gơ Liu ướm vừa được lấy hoàng tử. Gơ Lát giết Gơ Liu. Gơ Liu hoá thành khóm trúc, rồi hoá thành chim, thành cây thị. Đoạn cuối, chính hoàng tử là người giết Gơ Lát làm mắm về cho mụ dì ghẻ.

3. Các bản kể ở nước ngoài

a) Bản kể ở Căm-pu-chia :

Người Khơ-me có truyện Nàng Can-tóc và nàng Song Ang-cát. Can-tóc có nghĩa là xinh tươi, Song Ang-cát có nghĩa là đầu mẩu củi. Truyện kể về một người đàn ông goá vợ có con gái là Can-tóc, sau lấy vợ kế, có con riêng là Song Ang-cát. Truyện na ná truyện Tấm Cám, có một số chi tiết khác như :

– Ông Bụt thay bằng một vị pháp sư. Con cá bống được thay bằng một con cá quả. Vị pháp sư hiện lên bảo thả cá xuống ao và gọi :

Quả đẹp quả xinh Lên ăn cơm lành Cho mau chóng lớn

– Chi tiết đôi giày ở bản kể Căm-pu-chia có điều lí thú. Pháp sư bảo Can-tóc lấy một chiếc giày (chỉ một chiếc) ở gầm giường cất đi. Còn chiếc kia Song Ang-cát nhặt được nhưng không biết làm gì, vứt ra bờ rào. Quạ bay qua quắp mang vào cung vua.

– Sự biến hoá của Can-tóc không phải thành chim, thành khung cửi, thành quả thị mà là thành cây chuối và thành cây tre.

– Kết thúc truyện không có chi tiết làm mắm gửi dì ghẻ.

b) Bản kể ở Thái Lan :

ở Thái Lan có truyện Con cá vàng. U-ay là con vợ chồng người đánh cá. Mẹ bị chết đuối. Dì ghẻ có hai cô gái độc ác là Ai và Le. Một hôm bị dì ghẻ đánh đập, U-ay ra bờ sông khóc. Mẹ hiện lên thành một con cá nhỏ. U-ay mang cá về nuôi ở giếng. Những chi tiết mụ dì ghẻ lừa U-ay bắt cá ăn thịt giống như trong truyện Tấm Cám. U-ay về lấy chiếc vẩy cá còn sót lại chôn ở rừng, vẩy mọc lên hai cây ma khua. Vua đi săn thấy cây quý, hỏi ra biết là U-ay trồng bèn lấy nàng làm vợ. Mụ dì ghẻ nhắn U-ay về thăm bố ốm làm bẫy giết. U-ay biến thành chim chào mào. Một số chi tiết biến hoá cũng na ná như truyện Tấm Cám. Đoạn cuối, một vị đạo sĩ cho vua biết sở dĩ U-ay bị khổ như vậy là vì kiếp trước đã giết một con gà mẹ và bắt con gà con cho con chơi.

ở Miến Điện cũng có truyện Con rùa tương tự như vậy, chỉ khác người mẹ là một con rùa. Ngoài những bản kể ở khu vực Đông Nam á, ta có thể kể ra đây một số bản kể của Trung Quốc, ấn Độ.

c) Bản kể ở Trung Quốc :

ở Trung Quốc có truyện Nàng Diệp Hạn. Truyện kể có một cô gái tên là Diệp Hạn, bố mẹ chết phải ở với dì ghẻ. Một hôm bắt được một con cá quý, nàng nuôi ở chậu, rồi thả xuống ao, cá mỗi ngày một lớn. Cá chỉ nổi lên khi nào thấy bóng Diệp Hạn trên bờ. Mụ dì ghẻ bắt Diệp Hạn đi gánh nước xa, lấy áo của nàng lừa cá, rồi bắt ăn thịt. Mất cá, Diệp Hạn khóc lóc đem xương cá chôn cất. Nhờ đó, cô có quần áo đẹp và giày vàng. Diệp Hạn đi xem hội, đánh rơi giày, có người bắt được bán cho vua Đà Hãn. Vua cũng cho dân ướm giày và lấy Diệp Hạn. Mẹ con mụ dì ghẻ bị trời đánh. Dân thương hại chôn cất và có miếu thờ…

d) Bản kể ở ấn Độ :

ở ấn Độ có truyện kể về một hoàng hậu gian ác hành hạ con chồng và giết chết con chồng. Hành vi của mụ bị vua phát hiện và xử tội chết, mụ bị đốt cháy lấy xương gửi về cho mẹ mụ.

ở Bắc ấn có truyện một nàng công chúa đánh rơi giày xuống dòng sông, một con cá to nuốt mất. Người đầu bếp của một vương quốc láng giềng mổ con cá đó bắt được chiếc giày đẹp, đem nộp vua. Vua truyền ai ướm vừa chân sẽ rước về làm hoàng hậu.

Ngoài những bản kể ở châu á, trong số những bản kể ở châu Âu có thể đối chiếu với truyện Tấm Cámcủa ta, ta có thể kể truyện Lọ Lem của Pháp.

Đối chiếu và so sánh các bản kể ở Việt Nam, bản kể mà chúng ta chọn giảng đã trải qua một sự lựa chọn tinh vi và mang tính chất dân tộc sâu sắc. Truyện Tấm Cám của ta có ba chặng rành mạch trong tình tiết :

1. Sự xung đột gia đình tập trung xung quanh chi tiết con bống và đôi giày.

2. Sự biến hoá của Tấm xung quanh chi tiết con vàng anh và quả thị.

3. Sự báo thù của Tấm và cái chết đáng kiếp của mẹ con mụ dì ghẻ.

ở một số bản kể khác, các chi tiết không được phong phú như thế. Có truyện chỉ có một hoặc hai chặng cuối. Một số truyện cho con người biến thành bò, thành hổ v.v… rõ ràng là không lí thú bằng.

Có một số truyện ở phần kết thúc lại thuyết minh cho giáo lí đạo Phật hoặc đề cao vương quyền không phù hợp với nội dung cơ bản của sáng tác dân gian.

Đọc Hiểu Văn Bản: Sóng (Xuân Quỳnh)

Sóng (Xuân Quỳnh)

I. Đọc – hiểu chú thích:

1. Tác giả: Xuân Quỳnh

– Xuân Quỳnh (1942-1988), quê tỉnh Hà Tây (nay thuộc hà nội), là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ.

– Xuất thân trong một gia đình công chức. Từng là diễn viên múa, biên tập báo văn nghệ, biên tập viên Nhà xuất bản tác phẩm mới.

– Cuộc đời bất hạnh; luôn khao khát tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử.

– Năm 2001, được tặng giải thưởng về văn học nghệ thuật

* Các tác phẩm chính:

– Thơ Tơ tằm – Chồi biếc (1963) – Hoa dọc chiến hào (1968) – Gió Lào cát trắng (1974) – Lời ru trên mặt đất (1978) – Tự hát (1984) ….

* Hồn thơ Xuân Quỳnh:

– Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Ở sắc thái, cung bậc nào thơ Xuân Quỳnh cũng nồng nàn sôi nổi, chân thành say đắm.

– Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hằng ngày, trân trọng, nâng niu và chăm chút cho hạnh phúc bình dị của đời thường

– Xuân Quỳnh được xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất  trong nền thơ Việt Nam sau 1975. Tình yêu trong thơ chị vừa nồng nhiệt, táo bạo, vừa thiết tha, say đắm, dịu dàng, hồn nhiên giàu trực cảm mà lắng sâu những trải nghiệm suy tư

– Cái tôi trong thơ Xuân Quỳnh giàu vẻ đẹp nữ tính: rất thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Ở Xuân Quỳnh, khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ, cùng với những dự cảm về bất trắc

2. Tác phẩm:

– Hoàn cảnh sáng tác: Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).

– Thể loại: thơ 5 chữ.

– Nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn,đầy khát vọng và sắc son chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời thường.

– Bố cục: ba phần

+ 8 câu đầu: Sóng biển và tình yêu. + 26 câu tiếp theo: Suy nghĩ và trăn trở. + 4 câu cuối: Khát vọng tình yêu.

II. Đọc – hiểu văn bản.

1. Âm điệu của bài thơ:

– Là âm điệu của những con sóng trên biển cả, và sâu xa hơn chính là âm điệu của những con sóng lòng nhiều cung bậc, sắc thái, cảm xúc trong trái tim nữ thi sĩ – âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, khát khao, rạo rực tình yêu, đang rung lên đồng điệu, hoà nhịp với sóng biển, đến mức không còn thấy đâu là nhịp điệu của sóng biển, đâu là nhịp điệu tâm hồn thi sĩ.

– Âm điệu đó được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm chữ và phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh.Thể thơ năm chữ cùng với sự linh hoạt , phóng túng khi ngắt nhịp, phối âm đã gợi lên thật ấn tượng nhịp sóng biển (và cả sóng lòng nữa) khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội.

⇒ Xuân Quỳnh đã mượn nhịp Sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình trong một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của tình yêu, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

2. Hình tượng Sóng:

* Hình ảnh sóng:

– “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể” → nghệ thuật nhân hoá: con sóng vượt qua không gian chợt tìm đến cái bao la của biển cả. Trái tim người con gái đang yêu cũng vậy: không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao để đồng cảm, đồng điệu với khát vọng khám phá mình, khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu → Liên tưởng rất thực và cũng rất thơ. Khát vọng tình yêu đã hóa thân vào một biểu tượng đẹp là sóng. Giống như con sóng muôn đời vẫn dạt dào biển cả, tình yêu muôn đời vẫn là nỗi khát khao, đam mê của tuổi trẻ.

⇒ Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu Sông không hiểu nổi mình thì Sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để tìm ra tận bể để đến với cái cao rộng, bao dung với khát vọng và kiếm tìm.

⇒ Có thể thấy ngay trong khổ thơ đầu này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu: sự chủ động của người con gái khi yêu (chủ động ở đây không phải là ngỏ lời mà chủ động vươn tới cái cao cả, cái lớn lao)

+ Nỗi khát vọng tình yêu, rạo rực trong trái tim của Xuân Quỳnh, cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại, mà mãnh liệt nhất là tuổi trẻ Đó là khát vọng có tính vĩnh hằng theo thời gian

– “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ” → khát vọng mãnh liệt về tình yêu luôn luôn thường trực, bồi hồi trong trái tim tuổi trẻ, nhất là tình yêu lứa đôi. Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.

⇒ Hình tượng bao trùm toàn bộ bài thơ là hình ảnh ẩn dụ: Sóng để nói đến tình yêu. Hình tượng sóng đôi “sóng” và “em” đã bộc lộ được tâm trạng khát khao, nỗi nhớ da diết vừa trực tiếp lại vừa gợi cảm như những vòng sóng nối tiếp nhau cùng dội lại, cùng cộng hưởng và lan tỏa.

3. Sự cắt nghĩa về tình yêu.

Quy luật của sóng: “Từ nơi nào sóng lên?/ Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu?” → lí giải quy luật xuất phát của sóng là từ gió, còn gió từ đâu? “Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau.” → những câu hỏi không có lời giải đáp cũng như một tình yêu đích thực, không thể giải thích được, truy nguyên được nguồn gốc → chứng tỏ sự bí ẩn, diệu kì, sức hấp dẫn, mời gọi của tình yêu muôn thuở.

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách: hạt nhân của tình yêu là nỗi nhớ “Con sóng dưới lòng sâu / Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ /Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức” → con sóng dù ở trạng thái nào (dưới lòng sâu, trên mặt nước), dù ở thời gian nào (ngày hay đêm) đều nhớ bờ da diết → điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, nhân hóa “sóng nhớ bờ…không ngủ được” diễn tả một nỗi nhớ thật mãnh liệt, da diết, thường trực cả khi thức, khi ngủ, bao trùm lên cả không gian và thời gian của nhân vật trữ tình.

⇒ Tình yêu là một  hiện tượng tâm lí khác thường, đầy bí ẩn không thể giải thích được câu hỏi về khơi nguồn của nó, về thời điểm bắt đầu của một tình yêu. Đó là điều mà trước đó nhà thơ Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” thì nay Xuân Quỳnh lại bộc bạch một cách hồn nhiên , thật dễ thương

+ Tình yêu cũng như sóng biển, như gió trời: cũng tự nhiên, hồn nhiên, khó hiểu, nhiều bất ngờ→ làm sao có thể giải thích được nguồn gốc của nó. Đây là một cách cắt nghĩa rất Xuân Quỳnh – một cách cắt nghĩa nữ tính và trực cảm.

⇒ Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn,dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất, và dào dạt, náo nức và mãnh liệt nhất là ở đoạn thơ này. Qua hình tượng sóng và em, Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt, thiết tha, nồng nàn của mình – một người phụ nữ – điều hiếm thấy trong văn học Việt Nam trước đó

4. Sự chiêm nghiệm cuộc đời và khát vọng được sống hết mình trong tình yêu.

“Cuộc đời tuy dài thế …………………… Mây vẫn bay về xa”

→ nhịp thơ lắng xuống, hình ảnh thơ mở ra (đi qua, biển dẫu rộng, bay về xa) như mang đến những dự cảm, sự khắc khoải lo âu, nhận thức và thấm thía sự hữu hạn của kiếp người, giữa cái vô cùng, vô tận của thời gian. Cuộc đời mỗi người tuy dài nhưng vẫn luôn là hữu hạn trong dòng thời gian, cũng như biển kia dẫu rộng vẫn không so được với cái bao la vô tận của bầu trời.

– “Làm sao được tan ra ……………………. Để ngàn năm còn vỗ”

→ cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi đó là “tan ra thành trăm con sóng nhỏ” → khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.

– “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Các từ chỉ số lượng lớn ® phơi bày một nỗi khát vọng hoà nhịp tình yêu của mình với tình yêu nhân loại, khát vọng về sức sống của tình yêu với muôn thuở một tình yêu say đắm chân thành

⇒ Tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. Khát vọng hóa thân, phân thân vào sóng thật mạnh mẽ. Tình yêu đôi lứa thật sự hạnh phúc khi hòa nhập trong biển lớn tình yêu của cộng đồng. Khát vọng hóa thân vào biển lớn tình yêu mang một giá trị văn hóa lớn, tạo nên sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung; giữa cái hữu hạn và vĩnh hằng.

Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà nhà thơ đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào hạnh phúc trong tương lai. Tương lai như đang còn ở phía trước đối với Xuân Quỳnh

● Ghi nhớ (sgk)

III. Tổng kết:

1. Giá trị nội dung:

Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.

2. Giá trị nghệ thuật:

– Bài thơ mang âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi nhịp độ của con sóng liên tiếp. – Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ thường là không ngắt nhịp, các câu thơ ngắn, đều đặn gợi sự nhịp nhàng. – Thành công trong việc xây dựng hình tượng sóng: hình tượng sóng trở đi trở lại với nhiều cung bậc, gợi những trạng thái cảm xúc đa dạng trong cõi lòng người con gái đang yêu. – Ngôn ngữ gần gũi, trong sáng, dung dị, tinh tế.

3. Ý nghĩa văn bản:

Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người.

LUYỆN TẬP:

Câu 1. Nêu ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh sóng và mối quan hệ giữa hai hình tượng “sóng” và “ em” trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Gợi ý :

– Sóng là biểu tượng cho khát vọng về tình yêu của người phụ nữ, tương đồng với sự phong phú, bí ẩn của tâm hồn người phụ nữ khi yêu.

– Sóng là hình ảnh biểu tượng cho tình yêu vĩnh hằng – Sóng cũng giống tình yêu trong mạch thời gian ngày xưa và ngày sau, quá khứ và tương lai bất diệt trước mọi đổi thay.

– Sóng là hình ảnh tượng trưng cho quy luật không thể cắt nghĩa của tình yêu.

– Sóng là biểu tượng cho tình yêu trong sáng, giản dị, chân thành, luôn thể hiện khát vọng về một tình yêu chung thủy và dâng hiến trọn vẹn, ý thức được sự trôi chảy của thời gian và sự nhỏ nhoi của kiếp người.

– Sóng và em tuy hai nhưng lại là một, đều là nỗi lòng của người phụ nữ đang yêu, là sự phân thân và hóa thân của cái tôi trữ tình, từ đó diễn tả những cung bậc tình cảm mãnh liệt trong trạng thái yêu đương của người phụ nữ.

– Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu:

Nét đẹp truyền thống: đằm thắm, dịu dàng, hồn hậu, dễ thương, chung thủy.

Nét đẹp hiện đại: táo bạo, mãnh liệt, dám vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn hạnh phúc, dù có phấp phỏng trước cái vô tận của thời gian nhưng vẫn tin vào sức mạnh của tình yêu.

⇒ Qua bài thơ “ Sóng” ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu “không hiểu nỗi mình” thì sông dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “ tìm ra tận bể”, đến cái cao rộng bao dung. Đó là những nét mới mẻ hiện đại trong tình yêu.

– Tâm hồn người phụ nữ đó giàu khao khát, không yên lặng “ Vì tình yêu muôn thuở – Có bao giờ đứng yên”

“Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở mức độ tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc, với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều minh chứng thử thách mang đậm dấu ấn trách nhiệm” ( Phạm Đình Ân ).

LUYỆN ĐỀ

Đề 1. Đọc đoạn thơ sau:

“Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương”

Hãy xác định nội dung chính của đoạn thơ?

Nhận xét gì về cách viết của tác giả trong câu: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam”? Tác dụng nghệ thuật của cách viết?

Dấu – trong câu thơ “Hướng về anh – một phương” có ý nghĩa gì? Tác dụng của dấu – trong câu thơ là gì? Viết đoạn văn cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn thơ.

Gợi ý :

– Xác định nội dung chính của đoạn thơ: Đoạn thơ là lời tự bạch khẳng định tình yêu và lòng chung thủy của nhân vật trữ tình: dù ở đâu, nơi nào, hoàn cảnh và cuộc đời có đổi thay thì em cũng chỉ có một tình yêu duy nhất đối với anh.

– Nhận xét gì về cách viết của tác giả trong câu: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam”: Cách viết mới lạ, khác biệt với lô gic thông thường của tự nhiên.

– Tác dụng nghệ thuật của cách viết: nhấn mạnh dụng ý rằng: dù cho hoàn cảnh có đổi thay, trái đất có xoay chiều đổi hướng thì tình yêu vẫn không hề thay đổi, vẫn kiên định.

– Dấu – trong câu thơ “Hướng về anh – một phương” có ý nghĩa: Tách câu thơ làm đôi, bổ sung ý nghĩa cho câu thơ.

-Tác dụng của dấu – trong câu thơ là gì: tạo nên điểm nhấn cho câu thơ, làm cho ý thơ thêm mạnh mẽ, kiên định.

Viết đoạn văn cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn thơ. Phải đảm bảo các ý sau:

Giới thiệu về vị trí đoạn thơ:

–  Cảm nhận về cái hay (nội dung) đoạn thơ: Thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt của người phụ nữ với nét riêng vừa nữ tính, vừa kiên định. Đó chính là nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu đã được thơ ca xưa nay nói đến nhiều. Nhưng đến Xuân Quỳnh vẫn mang có nét duyên dáng, ý nhị, sâu sắc.

– Cảm nhận về cái đẹp (hình thức) của đoạn thơ: Câu thơ 5 chữ vừa trang trọng, vừa linh hoạt, phù hợp với diễn tả tâm trạng, cảm xúc. Cách nói mới lạ gây bất ngờ cho người đọc, gợi những liên tưởng sâu xa về tình yêu và lòng chung thủy. Câu thơ cuối nhấn mạnh vào vế “một phương” như một lời tạc dạ về lòng chung thủy. Đánh giá chung về đoạn thơ.

Đề 2: “Thơ Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường”. (SGK Văn học 12, tập 1,Nxb Giáo dục, Hà Nội,2000, tr.250). Phân tích bài thơ Sóng để làm rõ nhận định trên.

Gợi ý :

1.Giới thiệu bài thơ:

+ Bài thơ sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).

+ Bài thơ đã hội tụ những vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh trong tình yêu- một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.

2. Giải thích nhận định:

+ Nhận định trên có ý nghĩa khái quát về thơ và con người Xuân Quỳnh. Đấy là những vần thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ: tình yêu là cái đẹp, cái cao cả, tình yêu là sự hoàn thiện con người.

+ Nhận định còn có ý nghĩa khái quát: thơ Xuân Quỳnh tiêu biểu cho tiếng nói tâm tư, tình cảm của giới mình.

3. Phân tích bài thơ để chứng minh nhận định:

+ Một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường:

+ Một tâm hồn phụ nữ luôn có những rung động mãnh liệt, luôn rạo rực đầy khát khao, luôn tìm cách lí giải tâm hồn mình và đi tìm nguồn cội của tình yêu:

“Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể”

Và:

“Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau”

+ Một tâm hồn phụ nữ hồn hậu, chân thành với tình yêu đắm say, trong sáng và chung thủy:

“Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức”

Hay:

“Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh- một phương”

+ Một tâm hồn phụ nữ hi vọng vào tình yêu cao cả trước thử thách nghiệt ngã của thời gian và cuộc đời sẽ hoàn thiện mình:

“Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở”

+ Một tình yêu không vị kỉ mà đầy trách nhiệm, muốn hòa nhập vào cái chung để hiến dâng trọn vẹn:

“Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”

* Nghệ thuật biểu hiện:

Sử dụng thể thơ năm chữ, âm điệu bắng trắc của những câu thơ thay đổi, đan xen nhau, nhịp điệu phù hợp với nhịp điệu vận động của sóng và phù hợp với cảm xúc của nhân vật trữ tình.

Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, diễn tả những trạng thái đối lập mà thống nhất của sóng và của tình cảm con người.

Hình tượng sóng trong bài thơ đã thể hiện sinh động và chính xác những cảm xúc và khát vọng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.

* Đánh giá:

+ Nhận định trên hoàn toàn xác đáng. Từ ý kiến trên và bài thơ giúp ta nhìn lại tâm hồn mình để sống đẹp trong tình yêu và trong cuộc đời.

Cập nhật thông tin chi tiết về Đọc Hiểu Văn Bản “Bếp Lửa” trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!