Bạn đang xem bài viết Đọc Hiểu Văn Bản: Sóng (Xuân Quỳnh) được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Sóng (Xuân Quỳnh)
I. Đọc – hiểu chú thích:
1. Tác giả: Xuân Quỳnh
– Xuân Quỳnh (1942-1988), quê tỉnh Hà Tây (nay thuộc hà nội), là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ.
– Xuất thân trong một gia đình công chức. Từng là diễn viên múa, biên tập báo văn nghệ, biên tập viên Nhà xuất bản tác phẩm mới.
– Cuộc đời bất hạnh; luôn khao khát tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử.
– Năm 2001, được tặng giải thưởng về văn học nghệ thuật
* Các tác phẩm chính:
– Thơ Tơ tằm – Chồi biếc (1963) – Hoa dọc chiến hào (1968) – Gió Lào cát trắng (1974) – Lời ru trên mặt đất (1978) – Tự hát (1984) ….
* Hồn thơ Xuân Quỳnh:
– Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Ở sắc thái, cung bậc nào thơ Xuân Quỳnh cũng nồng nàn sôi nổi, chân thành say đắm.
– Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hằng ngày, trân trọng, nâng niu và chăm chút cho hạnh phúc bình dị của đời thường
– Xuân Quỳnh được xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam sau 1975. Tình yêu trong thơ chị vừa nồng nhiệt, táo bạo, vừa thiết tha, say đắm, dịu dàng, hồn nhiên giàu trực cảm mà lắng sâu những trải nghiệm suy tư
– Cái tôi trong thơ Xuân Quỳnh giàu vẻ đẹp nữ tính: rất thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Ở Xuân Quỳnh, khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ, cùng với những dự cảm về bất trắc
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác: Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
– Thể loại: thơ 5 chữ.
– Nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn,đầy khát vọng và sắc son chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời thường.
– Bố cục: ba phần
+ 8 câu đầu: Sóng biển và tình yêu. + 26 câu tiếp theo: Suy nghĩ và trăn trở. + 4 câu cuối: Khát vọng tình yêu.
II. Đọc – hiểu văn bản.
1. Âm điệu của bài thơ:
– Là âm điệu của những con sóng trên biển cả, và sâu xa hơn chính là âm điệu của những con sóng lòng nhiều cung bậc, sắc thái, cảm xúc trong trái tim nữ thi sĩ – âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, khát khao, rạo rực tình yêu, đang rung lên đồng điệu, hoà nhịp với sóng biển, đến mức không còn thấy đâu là nhịp điệu của sóng biển, đâu là nhịp điệu tâm hồn thi sĩ.
– Âm điệu đó được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm chữ và phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh.Thể thơ năm chữ cùng với sự linh hoạt , phóng túng khi ngắt nhịp, phối âm đã gợi lên thật ấn tượng nhịp sóng biển (và cả sóng lòng nữa) khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội.
⇒ Xuân Quỳnh đã mượn nhịp Sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình trong một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của tình yêu, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.
2. Hình tượng Sóng:
* Hình ảnh sóng:
– “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể” → nghệ thuật nhân hoá: con sóng vượt qua không gian chợt tìm đến cái bao la của biển cả. Trái tim người con gái đang yêu cũng vậy: không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao để đồng cảm, đồng điệu với khát vọng khám phá mình, khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu → Liên tưởng rất thực và cũng rất thơ. Khát vọng tình yêu đã hóa thân vào một biểu tượng đẹp là sóng. Giống như con sóng muôn đời vẫn dạt dào biển cả, tình yêu muôn đời vẫn là nỗi khát khao, đam mê của tuổi trẻ.
⇒ Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu Sông không hiểu nổi mình thì Sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để tìm ra tận bể để đến với cái cao rộng, bao dung với khát vọng và kiếm tìm.
⇒ Có thể thấy ngay trong khổ thơ đầu này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu: sự chủ động của người con gái khi yêu (chủ động ở đây không phải là ngỏ lời mà chủ động vươn tới cái cao cả, cái lớn lao)
+ Nỗi khát vọng tình yêu, rạo rực trong trái tim của Xuân Quỳnh, cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại, mà mãnh liệt nhất là tuổi trẻ Đó là khát vọng có tính vĩnh hằng theo thời gian
– “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ” → khát vọng mãnh liệt về tình yêu luôn luôn thường trực, bồi hồi trong trái tim tuổi trẻ, nhất là tình yêu lứa đôi. Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.
⇒ Hình tượng bao trùm toàn bộ bài thơ là hình ảnh ẩn dụ: Sóng để nói đến tình yêu. Hình tượng sóng đôi “sóng” và “em” đã bộc lộ được tâm trạng khát khao, nỗi nhớ da diết vừa trực tiếp lại vừa gợi cảm như những vòng sóng nối tiếp nhau cùng dội lại, cùng cộng hưởng và lan tỏa.
3. Sự cắt nghĩa về tình yêu.
Quy luật của sóng: “Từ nơi nào sóng lên?/ Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu?” → lí giải quy luật xuất phát của sóng là từ gió, còn gió từ đâu? “Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau.” → những câu hỏi không có lời giải đáp cũng như một tình yêu đích thực, không thể giải thích được, truy nguyên được nguồn gốc → chứng tỏ sự bí ẩn, diệu kì, sức hấp dẫn, mời gọi của tình yêu muôn thuở.
Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách: hạt nhân của tình yêu là nỗi nhớ “Con sóng dưới lòng sâu / Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ /Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức” → con sóng dù ở trạng thái nào (dưới lòng sâu, trên mặt nước), dù ở thời gian nào (ngày hay đêm) đều nhớ bờ da diết → điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, nhân hóa “sóng nhớ bờ…không ngủ được” diễn tả một nỗi nhớ thật mãnh liệt, da diết, thường trực cả khi thức, khi ngủ, bao trùm lên cả không gian và thời gian của nhân vật trữ tình.
⇒ Tình yêu là một hiện tượng tâm lí khác thường, đầy bí ẩn không thể giải thích được câu hỏi về khơi nguồn của nó, về thời điểm bắt đầu của một tình yêu. Đó là điều mà trước đó nhà thơ Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” thì nay Xuân Quỳnh lại bộc bạch một cách hồn nhiên , thật dễ thương
+ Tình yêu cũng như sóng biển, như gió trời: cũng tự nhiên, hồn nhiên, khó hiểu, nhiều bất ngờ→ làm sao có thể giải thích được nguồn gốc của nó. Đây là một cách cắt nghĩa rất Xuân Quỳnh – một cách cắt nghĩa nữ tính và trực cảm.
⇒ Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn,dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất, và dào dạt, náo nức và mãnh liệt nhất là ở đoạn thơ này. Qua hình tượng sóng và em, Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt, thiết tha, nồng nàn của mình – một người phụ nữ – điều hiếm thấy trong văn học Việt Nam trước đó
4. Sự chiêm nghiệm cuộc đời và khát vọng được sống hết mình trong tình yêu.
“Cuộc đời tuy dài thế …………………… Mây vẫn bay về xa”
→ nhịp thơ lắng xuống, hình ảnh thơ mở ra (đi qua, biển dẫu rộng, bay về xa) như mang đến những dự cảm, sự khắc khoải lo âu, nhận thức và thấm thía sự hữu hạn của kiếp người, giữa cái vô cùng, vô tận của thời gian. Cuộc đời mỗi người tuy dài nhưng vẫn luôn là hữu hạn trong dòng thời gian, cũng như biển kia dẫu rộng vẫn không so được với cái bao la vô tận của bầu trời.
– “Làm sao được tan ra ……………………. Để ngàn năm còn vỗ”
→ cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi đó là “tan ra thành trăm con sóng nhỏ” → khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.
– “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Các từ chỉ số lượng lớn ® phơi bày một nỗi khát vọng hoà nhịp tình yêu của mình với tình yêu nhân loại, khát vọng về sức sống của tình yêu với muôn thuở một tình yêu say đắm chân thành
⇒ Tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. Khát vọng hóa thân, phân thân vào sóng thật mạnh mẽ. Tình yêu đôi lứa thật sự hạnh phúc khi hòa nhập trong biển lớn tình yêu của cộng đồng. Khát vọng hóa thân vào biển lớn tình yêu mang một giá trị văn hóa lớn, tạo nên sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung; giữa cái hữu hạn và vĩnh hằng.
Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà nhà thơ đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào hạnh phúc trong tương lai. Tương lai như đang còn ở phía trước đối với Xuân Quỳnh
● Ghi nhớ (sgk)
III. Tổng kết:
1. Giá trị nội dung:
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
2. Giá trị nghệ thuật:
– Bài thơ mang âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi nhịp độ của con sóng liên tiếp. – Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ thường là không ngắt nhịp, các câu thơ ngắn, đều đặn gợi sự nhịp nhàng. – Thành công trong việc xây dựng hình tượng sóng: hình tượng sóng trở đi trở lại với nhiều cung bậc, gợi những trạng thái cảm xúc đa dạng trong cõi lòng người con gái đang yêu. – Ngôn ngữ gần gũi, trong sáng, dung dị, tinh tế.
3. Ý nghĩa văn bản:
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người.
LUYỆN TẬP:
Câu 1. Nêu ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh sóng và mối quan hệ giữa hai hình tượng “sóng” và “ em” trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Gợi ý :
– Sóng là biểu tượng cho khát vọng về tình yêu của người phụ nữ, tương đồng với sự phong phú, bí ẩn của tâm hồn người phụ nữ khi yêu.
– Sóng là hình ảnh biểu tượng cho tình yêu vĩnh hằng – Sóng cũng giống tình yêu trong mạch thời gian ngày xưa và ngày sau, quá khứ và tương lai bất diệt trước mọi đổi thay.
– Sóng là hình ảnh tượng trưng cho quy luật không thể cắt nghĩa của tình yêu.
– Sóng là biểu tượng cho tình yêu trong sáng, giản dị, chân thành, luôn thể hiện khát vọng về một tình yêu chung thủy và dâng hiến trọn vẹn, ý thức được sự trôi chảy của thời gian và sự nhỏ nhoi của kiếp người.
– Sóng và em tuy hai nhưng lại là một, đều là nỗi lòng của người phụ nữ đang yêu, là sự phân thân và hóa thân của cái tôi trữ tình, từ đó diễn tả những cung bậc tình cảm mãnh liệt trong trạng thái yêu đương của người phụ nữ.
– Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu:
Nét đẹp truyền thống: đằm thắm, dịu dàng, hồn hậu, dễ thương, chung thủy.
Nét đẹp hiện đại: táo bạo, mãnh liệt, dám vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn hạnh phúc, dù có phấp phỏng trước cái vô tận của thời gian nhưng vẫn tin vào sức mạnh của tình yêu.
⇒ Qua bài thơ “ Sóng” ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu “không hiểu nỗi mình” thì sông dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “ tìm ra tận bể”, đến cái cao rộng bao dung. Đó là những nét mới mẻ hiện đại trong tình yêu.
– Tâm hồn người phụ nữ đó giàu khao khát, không yên lặng “ Vì tình yêu muôn thuở – Có bao giờ đứng yên”
“Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở mức độ tình yêu buổi đầu giản đơn, hò hẹn, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu hạnh phúc, với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều minh chứng thử thách mang đậm dấu ấn trách nhiệm” ( Phạm Đình Ân ).
LUYỆN ĐỀ
Đề 1. Đọc đoạn thơ sau:
“Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương”
Hãy xác định nội dung chính của đoạn thơ?
Nhận xét gì về cách viết của tác giả trong câu: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam”? Tác dụng nghệ thuật của cách viết?
Dấu – trong câu thơ “Hướng về anh – một phương” có ý nghĩa gì? Tác dụng của dấu – trong câu thơ là gì? Viết đoạn văn cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn thơ.
Gợi ý :
– Xác định nội dung chính của đoạn thơ: Đoạn thơ là lời tự bạch khẳng định tình yêu và lòng chung thủy của nhân vật trữ tình: dù ở đâu, nơi nào, hoàn cảnh và cuộc đời có đổi thay thì em cũng chỉ có một tình yêu duy nhất đối với anh.
– Nhận xét gì về cách viết của tác giả trong câu: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam”: Cách viết mới lạ, khác biệt với lô gic thông thường của tự nhiên.
– Tác dụng nghệ thuật của cách viết: nhấn mạnh dụng ý rằng: dù cho hoàn cảnh có đổi thay, trái đất có xoay chiều đổi hướng thì tình yêu vẫn không hề thay đổi, vẫn kiên định.
– Dấu – trong câu thơ “Hướng về anh – một phương” có ý nghĩa: Tách câu thơ làm đôi, bổ sung ý nghĩa cho câu thơ.
-Tác dụng của dấu – trong câu thơ là gì: tạo nên điểm nhấn cho câu thơ, làm cho ý thơ thêm mạnh mẽ, kiên định.
Viết đoạn văn cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn thơ. Phải đảm bảo các ý sau:
Giới thiệu về vị trí đoạn thơ:
– Cảm nhận về cái hay (nội dung) đoạn thơ: Thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt của người phụ nữ với nét riêng vừa nữ tính, vừa kiên định. Đó chính là nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu đã được thơ ca xưa nay nói đến nhiều. Nhưng đến Xuân Quỳnh vẫn mang có nét duyên dáng, ý nhị, sâu sắc.
– Cảm nhận về cái đẹp (hình thức) của đoạn thơ: Câu thơ 5 chữ vừa trang trọng, vừa linh hoạt, phù hợp với diễn tả tâm trạng, cảm xúc. Cách nói mới lạ gây bất ngờ cho người đọc, gợi những liên tưởng sâu xa về tình yêu và lòng chung thủy. Câu thơ cuối nhấn mạnh vào vế “một phương” như một lời tạc dạ về lòng chung thủy. Đánh giá chung về đoạn thơ.
Đề 2: “Thơ Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường”. (SGK Văn học 12, tập 1,Nxb Giáo dục, Hà Nội,2000, tr.250). Phân tích bài thơ Sóng để làm rõ nhận định trên.
Gợi ý :
1.Giới thiệu bài thơ:
+ Bài thơ sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).
+ Bài thơ đã hội tụ những vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh trong tình yêu- một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
2. Giải thích nhận định:
+ Nhận định trên có ý nghĩa khái quát về thơ và con người Xuân Quỳnh. Đấy là những vần thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ: tình yêu là cái đẹp, cái cao cả, tình yêu là sự hoàn thiện con người.
+ Nhận định còn có ý nghĩa khái quát: thơ Xuân Quỳnh tiêu biểu cho tiếng nói tâm tư, tình cảm của giới mình.
3. Phân tích bài thơ để chứng minh nhận định:
+ Một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường:
+ Một tâm hồn phụ nữ luôn có những rung động mãnh liệt, luôn rạo rực đầy khát khao, luôn tìm cách lí giải tâm hồn mình và đi tìm nguồn cội của tình yêu:
“Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể”
Và:
“Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau”
+ Một tâm hồn phụ nữ hồn hậu, chân thành với tình yêu đắm say, trong sáng và chung thủy:
“Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức”
Hay:
“Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh- một phương”
+ Một tâm hồn phụ nữ hi vọng vào tình yêu cao cả trước thử thách nghiệt ngã của thời gian và cuộc đời sẽ hoàn thiện mình:
“Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở”
+ Một tình yêu không vị kỉ mà đầy trách nhiệm, muốn hòa nhập vào cái chung để hiến dâng trọn vẹn:
“Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”
* Nghệ thuật biểu hiện:
Sử dụng thể thơ năm chữ, âm điệu bắng trắc của những câu thơ thay đổi, đan xen nhau, nhịp điệu phù hợp với nhịp điệu vận động của sóng và phù hợp với cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, diễn tả những trạng thái đối lập mà thống nhất của sóng và của tình cảm con người.
Hình tượng sóng trong bài thơ đã thể hiện sinh động và chính xác những cảm xúc và khát vọng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
* Đánh giá:
+ Nhận định trên hoàn toàn xác đáng. Từ ý kiến trên và bài thơ giúp ta nhìn lại tâm hồn mình để sống đẹp trong tình yêu và trong cuộc đời.
Đọc Hiểu Văn Bản Sóng (Xuân Quỳnh) Gắn Liền Với Đời Sống Thực Tiễn
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN
======
NGÔ THỊ HỒNG NGỌC
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (XUÂN QUỲNH) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ MAI HƢƠNG
HÀ NỘI – 2015
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội học tập, rèn luyện và có cơ hội được thực hành nghiên cứu khoa học tại trường. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã nhiệt tình giảng dạy. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hƣơng, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho tôi những kinh nghiệm khoa học quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận đúng thời hạn. Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân, bạn bè đã động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2015 Tác giả khóa luận
Ngô Thị Hồng Ngọc
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hƣơng, chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2015 Tác giả khóa luận
Ngô Thị Hồng Ngọc
DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Kí hiệu
Ý nghĩa
THPT
Trung học phổ thông
HS
Học sinh
GV
Giáo viên
GS
Giáo sư
TS
Tiến sĩ
SGK
Sách giáo khoa
Nxb GD
Nhà xuất bản giáo dục
MỤC LỤC MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………….. 1 1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………………… 1 2. Lịch sử vấn đề ……………………………………………………………………………….. 2 3. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………………………… 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………………………… 4 5. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………………………………….. 4 6. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………………….. 4 7. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………… 4 8. Dự kiến đóng góp ………………………………………………………………………….. 5 9. Bố cục khóa luận …………………………………………………………………………… 5 NỘI DUNG …………………………………………………………………………………………. 6 Chương 1.CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN …………………………….. 6 1.1. Cơ sở lí luận ……………………………………………………………………………….. 6 1.2. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………………………………………. 9 1.2.1. Đọc hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn …………. 11 1.2.2. Thực trạng tiếp nhận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT ………………………………………………………………………………………….. 11 Chương 2. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (NGỮ VĂN 12) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN ………………….. 14 2.1. Đặc trưng của văn bản trữ tình ……………………………………………………. 14 2.1.1. Khái niệm văn bản trữ tình ……………………………………………………. 14 2.1.2. Đặc trưng của văn bản trữ tình ………………………………………………. 15 2.1.2.1. Lấy việc bộc lộ nội tâm con người làm mục đích, nội dung biểu đạt………………………………………………………………15 2.1.2.2. Chủ thể trữ tình…………………………………………………………16 2.1.2.3. Ngôn ngữ trữ tình……………………………………………19
2.2. Các biện pháp dạy học đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Ngữ văn 12) gắn liền với đời sống thực tiễn ………………………………………………………………… 21 2.2.1. Biện pháp chung ………………………………………………………………….. 21 2.2.1.1. Đọc tiếp cận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh)…………………21 2.2.1.2.Tái hiện hình tượng nhân vật trữ tình: Sóng và Em…………..23 2.2.1.3. Đọc hiểu văn bản “Song” (Xuân Quỳnh)…………………….23 2.2.2. Phương hướng dạy học đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Ngữ văn 12) gắn liền với đời sống thực tiễn ……………………………………………………….. 25 2.2.2.1. Dạy đọc hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn…………………………………..25 2.2.2.2. Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh)…………………………………………………………………..35 Chương 3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ………………………………………………… 41 KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………….. 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Môn Ngữ văn là một trong những môn quan trọng trong trường THPT và vấn đề giảng dạy Ngữ văn luôn là vấn đề được mọi người quan tâm. Bởi kiến thức trong môn học có vai trò đặc biệt đối với đời sống con người. Trong đó, tri thức trong văn học đem lại giá trị sống phong phú, giúp con người hoàn thiện mình hơn. Tuy nhiên với giới trẻ hiện nay và đặc biệt là học sinh THPT thì việc học văn cũng như tiếp nhận các tác phẩm văn học ngày càng trở nên khó khăn. Học sinh thờ ơ với các văn bản trữ tình vì xa rời hiện thực cuộc sống. Do vậy, việc học văn càng trở nên nhàm chán vô vị, học sinh học với thái độ học đối phó. Việc học sinh trong nhà trường THPT quay lưng lại với các tác phẩm trữ tình nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung nguyên nhân không chỉ là thái độ vô cảm của các em trong việc cảm thụ hay tiếp nhận một tác phẩm văn học. Có thể văn học trữ tình còn xa lạ với các em do khoảng cách, thời gian tâm lí càng khiến học sinh không tiếp nhận. Bên cạnh đó là phương pháp dạy học của một số giáo viên vẫn dạy văn theo lối truyền thống, chưa thực sự có ý thức đổi mới trong phương pháp dạy cũng như cách truyền đạt nên không tạo ra cho học sinh sự hứng thú khi học. Từ những nguyên nhân trên, chúng tôi thiết nghĩ cần phải tạo tâm thế hứng thú cho học sinh khi học bộ môn Ngữ văn, đặc biệt là các văn bản trữ tình, người dạy cần phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT. Ý thức được vấn đề đó, người dạy học sẽ có cái nhìn toàn diện tích cực về văn học và vai trò của bộ môn Ngữ văn trong đời sống. Nâng cao chất lượng dạy học nhằm truyền đạt những kiến thức không thể thiếu mang giá trị nhân văn là cách chúng ta mang đến cho học sinh những
1
hành trang tinh thần quý giá với đời sống tình cảm phong phú để các em trưởng thành làm người, hiểu cuộc đời, từ đó biết yêu thương, biết chia sẻ để sống có ý nghĩa hơn cho bản thân, gia đình và cho xã hội. Trên tinh thần đổi mới của Bộ Giáo dục về dạy – học Ngữ văn, chúng tôi chọn đề tài: Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) gắn liền với đời sống thực tiễn với mong muốn đi tiếp con đường mà các nhà giáo dục quan tâm. Nghiên cứu này chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc dạy học với hi vọng tác phẩm sẽ đến gần hơn và trở nên thiết thực hơn với học sinh THPT. 2. Lịch sử vấn đề Bàn về vấn đề phương pháp dạy học và dạy học Ngữ văn có từ rất sớm, xuất phát đầu tiên ở các nước phương Tây. Xuất hiện với một số cuốn sách như: “Phương pháp dạy học văn” của IA Rex. Trình bày phương pháp học một cách rất cụ thể, nhấn mạnh vai trò đọc sáng tạo. Coi đó là phương pháp đặc thù nhằm phát triển năng lực cảm thụ văn học trên phương diện nghệ thuật thông qua Đọc – hiểu. “Phương pháp dạy học văn ở trường THPT” V.A Nhiconxki (Ngọc Toàn và Bùi Lê dịch) cho rằng dạy học văn có vị trí và vai trò chủ đạo của người học trong nhà trường và hoạt động đọc diễn cảm trong quá trình tiếp nhận. Ở Việt Nam những năm 80, những cuốn sách bàn về đọc văn và văn học như:”Cảm thụ văn học giảng dạy văn học” của GS Phan Trọng Luận: Tầm quan trọng của việc đọc, đọc từng câu, từng chữ không thể nhảy cóc. Đọc không chỉ dừng lại ở việc quan sát bề mặt câu chữ mà phải thấy được bề sâu từng ý nghĩa mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm: “Văn học và nhân cách” GS Nguyễn Thanh Hùng cũng nhấn mạnh đến sự phát triển của quá trình đọc
2
được hoạt động liên tưởng, tưởng và giới thiệu nghệ thuật. Ngoài ra còn có nhiều bài báo, chuyên đề, chuyên luận như: Báo văn nghệ (14.2.1988)”Môn văn như thực trạng và giải pháp”, GS Trần Đình Sử. Đề cập tới ba mục tiêu của việc dạy văn, rèn luyện khả năng đọc hiểu, bám sát tác phẩm không suy đoán tùy tiện. Trong bài viết: “Dạy đọc hiểu là tạo nên nền tảng văn hóa cho người đọc”, GSTS Nguyễn Thanh Hùng chỉ ra việc đọc hiểu giúp hình thành và củng cố, phát triển năng lực, nắm vững và sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo. Từ bình diện văn hóa ấy, bài viết xác định: Đọc là một hoạt động có văn hóa, có ý nghĩa cơ bản cho sự phát triển của nhân cách. Chuyên đề: “Đọc và tiếp nhận văn chương”, GSTS Nguyễn Thanh Hùng khẳng định: Tiếp nhận tác phẩm văn học là một quá trình vì nó chỉ diễn ra một hoạt động duy nhất là hoạt động đọc văn. GS Phan Trọng Luận trong chuyên đề: “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học” đã phân tích tầm quan trọng của hoạt động đọc. Đọc từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc để tri giác bằng mắt, tai tất cả các hình ảnh, chi tiết, từ ngữ. Quá trình đọc là quá trình thâm nhập từng bước vào nội dung ý nghĩa của tác phẩm. Tất cả các nghiên cứu trên của văn chương cho rằng đọc là hoạt động đầu tiên của tiếp nhận văn chương. Dựa vào nghiên cứu trên khóa luận này chúng tôi tiến hành tổ chức: Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong nhà trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm mục đích: Xác lập các hoạt động các bước dạy văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) theo hướng đọc hiểu. Làm rõ các vấn đề xung quanh gắn với đời sống thực tiễn. Khóa luận sẽ đi nghiên cứu đặc điểm của thể loại trữ tình góp phần xây dựng quy trình dạy
3
văn gắn liền với đời sống. Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn ở trường THPT theo hướng dạy văn là dạy học sinh biết cách làm người – con người không chỉ có tri thức mà còn có khả năng thích ứng cao, biết giao tiếp, ứng xử trong đời sống. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận thực hiện các nhiệm vụ sau: Tìm hiểu cơ sở của dạy học Ngữ văn với đời sống và quy trình dạy học đọc – hiểu văn bản trữ tình ở trường THPT gắn với đời sống thực tiễn. Vận dụng những hiểu biết trên để đọc – hiểu văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 Nxb GD) trong trường THPT gắn với đời sống thực tiễn. 5. Đối tƣợng nghiên cứu Chúng tôi tập trung nghiên cứu: Lí thuyết đọc – hiểu, đọc – hiểu văn bản gắn với đời sống thực tiễn. Vận dụng và hướng dẫn HS biết cách đọc hiểu văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 Nxb GD) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 6. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các đặc trưng chung của thể loại trữ tình mà cụ thể là các đặc trưng của thơ trữ tình. Đặc biệt, đi sâu vào hoạt động đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp lí thuyết: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp thực nghiệm: vận dụng lí thuyết đọc – hiểu vào thiết kế bài giảng “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn 12 tập 2, Nxb GD) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn.
4
8. Dự kiến đóng góp Định hướng việc dạy học văn bản trữ tình trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. Chúng tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Đồng thời, bản thân có dịp nâng cao kiến thức, trau dồi kinh nghiệm phục vụ sự nghiệp trong tương lai. Bên cạnh đó, khóa luận góp phần hình thành và phát triển khả năng tìm tòi và nghiên cứu khoa học của người viết. 9. Bố cục khóa luận Khóa luận gồm 3 phần: – Mở đầu – Nội dung – Kết luận
5
NỘI DUNG
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lí luận Trong thời đại công nghệ thông tin hiện đại như ngày nay, con người có rất nhiều cách để tiếp cận một tác phẩm văn học. Trong đó đọc – hiểu là phương pháp phổ biến nhất để gần hơn với các tác phẩm văn học vì văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Theo SGK Ngữ văn nâng cao lớp 10: Đọc là “hoạt động nắm bắt ý nghĩa trong các kí hiệu của văn bản, khác với nghe là hoạt động nắm bắt ý nghĩa từ tín hiệu âm thanh”. Đọc ở đây đòi hỏi hiểu nội dung từ ngữ, tình cảm, cái đẹp của văn bản và có thể sử dụng văn bản đó vào đời sống cá nhân và xã hội. Hiểu là nắm được những thông tin chính của văn bản và ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm, bên cạnh đó giải thích và biểu đạt được cái hay của văn bản. Hiểu là ngộ ra, nhận ra những triết lý nhân sinh mà tác giả gửi gắm qua từng văn bản. Đồng thời thời cũng là sự bổ sung những ý kiến mới tăng thêm giá trị cho tác phẩm. Theo chúng tôi Nguyễn Thanh Hùng thì “Đọc – hiểu là đọc cái chủ quan của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình vào trang sách. Đọc – hiểu không chỉ là tái tạo âm thanh, từ và chữ viết mà còn là quá trình nhuần thấm tín hiệu nghệ thuật chưa mã hóa đồng thời với việc huy động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân của người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của văn chương. Đọc – hiểu là đón đầu những gì đang đọc qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi mới quay về với những gì đã đọc để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái tạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng”. [5,tr.5] Trong cuốn “Hiểu văn dạy văn” chúng tôi Nguyễn Thanh Hùng khẳng
6
định: Đọc – hiểu không những là những hình thức tiếp nhận nội dung, vẻ đẹp thẩm mĩ của văn bản đó mà còn là hoạt động tâm sinh lí, có tính trực giác và khái quát. Nó hàm chứa trong đó kinh nghiệm cá nhân của bạn đọc. Đây là mối quan hệ giữa chủ thể sáng tác và chủ thể tiếp nhận, tạo ra quá trình giao tiếp ngầm giữa nhà văn và bạn đọc. Người đọc chính là người đồng sáng tạo trong văn chương. Còn theo GS Nguyễn Thái Hòa: Đọc – hiểu là một phương pháp: “Nói một cách khái quát dù đơn giản hay phức tạp đều là hành vi ngôn ngữ, sử dụng linh hoạt một thủ pháp, thao tác bằng cơ quan thị giác và thính giác để tiếp nhận và phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc văn bản”. GS đã chỉ ra đọc – hiểu là một hành vi ngôn ngữ và coi đó là một thao tác dùng thị giác và thình giác. Người đọc đi tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của văn bản, không chỉ vậy đọc – hiểu còn là quá trình ghi nhớ nội dung thông tin và cấu trúc văn bản. Sách giáo viên Ngữ văn 6 đã nêu ra khái niệm đầu tiên về đọc – hiểu, về phương pháp đọc – hiểu: “Cách làm chủ yếu vẫn là bằng hình thức nêu các câu hỏi hướng dẫn nhưng nhấn mạnh phương châm đề cao công việc hoạt động của học sinh, nhằm tìm hiểu văn bản theo 3 hướng sau: Đọc – hiểu; suy nghĩ – vận dụng; liên tưởng – tích lũy các phương pháp dạy học hiện đại”. Từ những ý kiến và hiểu biết trên, chúng tôi đi đến xác lập khái niệm về phương pháp đọc – hiểu trên tinh thần tham khảo, học hỏi: Theo nghĩa rộng: Đọc – hiểu là thuật ngữ chỉ chung cho phương thức và mục đích của việc lĩnh hội tri thức và nắm bắt thông tin. Đó là hoạt động nhận thức nói chung thông qua con đường giải mã văn bản bằng ngôn từ. Theo nghĩa hẹp: Đọc – hiểu là hoạt động thưởng thức nghệ thuật ngôn từ, hưởng thụ thẩm mĩ của con người. Nó bao gồm nhiều hành động thể chất và thao tác tư duy (tưởng tượng, liên tưởng, phán đoán…) để đi đến đích là
7
8
9
Những tác phẩm được lựa chọn trong nhà trường có một giá trị tiêu biểu “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Nội dung đã được sàng lọc, xác định qua thời gian nên mang tính thời sự và có giá trị thực tiễn. Xã hội càng phát triển, đặc biệt trong thời đại hội nhập, nhu cầu vươn tới một nền giáo dục chất lượng cao, đào tạo ra những con người có khả năng thích nghi với cuộc sống, giải quyết những vấn đề thiết thực của cuộc sống ngày càng cấp thiết. Đó là cái đích hướng của giáo dục, trong đó Ngữ văn là một môn học có vai trò rất quan trọng. Từ trước tới nay, môn Ngữ văn được coi là môn học đặc thù với rất nhiều đặc tính: Vừa rèn luyện về ngôn ngữ, rèn luyện tư duy hình tượng cũng như khả năng sáng tạo của học sinh, vừa rèn luyện khả năng cảm thụ văn chương lại vừa tăng khả năng giáo dục nhân cách, đạo đức. Mục đích của việc dạy văn trong nhà trường là đào tạo ra những con người có tư duy độc lập, sáng tạo, có kĩ năng đọc, kĩ năng viết và kĩ năng đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc dạy và học Ngữ văn trong nhà trường hiện nay chưa đáp ứng được những nhu cầu trên. Theo điều tra của nhiều công trình nghiên cứu về việc dạy – học văn hiện nay, kết quả học tập môn Ngữ văn rất đáng báo động. Nhiều học sinh không biết cách viết như thế nào cho hợp lí một bài văn, không biết cách hành văn thậm chí còn không chịu tìm hiểu văn bản trong chương trình cũng như các sách tham khảo bên ngoài. Đáng nói hơn là nhiều học sinh, sinh viên ra trường vẫn không biết cách viết một lá đơn xin việc, không trình bày được ý tưởng trong công viêc một cách mạch lạc…tức là đã thiếu đi những kĩ năng sống cơ bản lẽ ra phải được trang bị và môn Ngữ văn là yếu tố giúp hình thành những kĩ năng cơ bản đấy. Vì vậy, dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn là vấn đề cần thiết.
10
1.2.1. Đọc hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn Như đã trình bày ở lí do chọn đề tài: Đối với những văn bản văn chương thuộc thể loại trữ tình, học sinh thường có quan niệm chúng quá lãng mạn, xa rời thực tế cuộc sống và cho rằng đó chỉ là cảm nhận của giới văn nghệ sĩ nên tiếp nhận văn bản trữ tình theo hướng “học cho xong”. Trong thực tế, những văn bản trữ tình lại mang giá trị nhân sinh tích cực mà học sinh chưa thật sự khám phá hoặc chưa muốn khám phá. Người giáo viên với vai trò hướng dẫn tổ chức hoạt động học của học sinh chính là chiếc cầu nối giúp học sinh nhận ra và tiếp thu những giá trị đó qua phương pháp đọc – hiểu văn bản. Nếu như trong những giờ dạy học đọc – hiểu văn bản trữ tình giáo viên có thể dẫn dắt học sinh tới những giá trị nhân sinh thực tiễn, học sinh có thể áp dụng vào trong cuộc sống của mình thì chắc chắn sẽ không còn khô khan với các em nữa mà thay vào đó học sinh sẽ hào hứng hơn, tiếp thu hiệu quả hơn. Trong giờ học giáo viên giúp học sinh biết rung cảm với nhịp đập trái tim con người trước cuộc sống muôn màu, bồi đắp lòng tin yêu con người và cuộc sống, biết căm ghét những gì hạ thấp nhân phẩm và ngăn cản sự phát triển toàn diện của con người. Nếu không gắn với lợi ích thực tiễn đặc biệt trong môi trường xã hội công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay thì việc dạy đọc – hiểu văn bản trữ tình trong nhà trường THPT sẽ trở nên nặng nề, giáo điều và không đạt được hiệu quả như mong muốn. 1.2.2. Thực trạng tiếp nhận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trƣờng THPT Việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông trong đó có việc đổi mới phương pháp dạy học văn theo tinh thần khoa học hiện đại đã và đang diễn ra phổ biến và thu được kết quả khả quan. Việc chúng tôi chọn đề tài này xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đã được quy định tại Luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 14
11
tháng 6 năm 2005 ở Khoản 2 Điều 5: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học khả năng tự học, lòng say mê tự học và ý chí vươn lên”. Đặc điểm cấu trúc chương trình THPT hiện nay quan tâm đến việc dạy tác phẩm văn học theo thể loại. Nhiều văn bản mới như văn bản nhật dụng được đưa vào chương trình. Vì vậy, nghiên cứu cảm thụ không chỉ đóng khung một cách phiến diện vào vấn đề hứng thú mà cần chú ý nhiều hơn vào giá trị thực tiễn (gắn liền với tâm lí, sinh lí, xã hội, mĩ học…). Không thể dạy văn theo cách tĩnh và thiếu mối liên hệ biện chứng giữa văn học và thực tế cuộc sống, khuynh hướng khoa học ngày nay yêu cầu một cách nghiêm ngặt về khảo nghiệm thực tiễn trữ tình. Bởi những đặc trưng rất riêng của văn bản trữ tình so với các loại văn bản khác, đòi hỏi học sinh phải có năng lực cảm thụ văn chương mới có thể phân tích, cắt nghĩa, bình giá những chi tiết, hình ảnh trong văn bản. Trong khi trên thực tế, học sinh không có hứng thú với những bài thơ trung đại bởi chúng khó hiểu, công thức, cũng không có hứng thú với thơ hiện đại bởi cho rằng đó là những văn bản xa rời thực tế và không phù hợp với tâm lí đương thời. Giáo viên với tư cách là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động của học sinh nhằm giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy, đôi lúc còn gặp phải lúng túng khi truyền tải những kiến thức, cảm xúc thẩm mĩ mà văn bản trữ tình đem lại. Nguyên nhân một phần do giáo viên chưa liên hệ thực tế vào bài dạy khiến học sinh thấy mơ hồ và không hứng thú, tạo ra một khoảng trống không có sự liên hệ giữa học sinh và văn bản dẫn đến tình trạng “học cho xong”. Mặc dù trên thực tế, văn bản trữ tình có được viết ở thời đại nào cũng tái hiện cuộc sống, tái hiện hiện thực. Vậy nên sẽ khô khan nếu dạy đọc – hiểu văn bản trữ tình mà không gắn liền với thực tiễn. Văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh là nhịp sóng lòng được nhà thơ hóa
12
thân và dành tặng cho đời nhiều cảm xúc, là một văn bản trữ tình trong chương trình SGK Ngữ văn THPT lớp 12. Đây là “một câu chuyện cổ tích về tình yêu được nhà thơ kể lại”, là “đứa con tinh thần” thể hiện rõ nhất hồn thơ của nữ thi sĩ. Trong chương trình Ngữ văn THPT, khi tiếp cận văn bản “Sóng” – một văn bản trữ tình của một tác giả nổi tiếng được đánh giá là nét mới mẻ trong thi ca Việt Nam vì một nữ nhân làm thơ về tình yêu của phụ nữ, học sinh có thể thấy văn bản này hay, thấy thích những vần thơ lạ nhưng chưa hiểu về văn bản, hiểu về tình yêu mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm cũng như quan niệm nhân sinh mới mẻ chứa đựng trong đó. Điều gì đã làm cho văn bản “Sóng” có sức sống trường tồn trong gần thế kỉ qua? Nhìn nhận thực trạng này và với mục đích nâng cao chất lượng dạy học văn nói chung. Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân quỳnh) gắn liền với đời sống thực tiễn” với mục đích giúp học sinh tiếp nhận văn bản trữ tình và nhận thức được quan niệm nhân sinh mới mẻ. Chúng tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới dạy học với hi vọng tác phẩm văn học sẽ gần gũi, thiết thực và hứng thú hơn với học sinh trong trường THPT.
13
Chƣơng 2. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (NGỮ VĂN 12) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN 2.1. Đặc trƣng của văn bản trữ tình 2.1.1. Khái niệm văn bản trữ tình Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và phát triển tương đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học thể hiện sự giống và khác nhau về cách tổ chức tác phẩm, về các loại đặc điểm của hiện tượng đời sống và tính chất của mối quan hệ giữa nhà văn và các loại hiện tượng đời sống ấy. Mỗi thể loại văn học lại có những đặc điểm riêng về nội dung và hình thức nhằm đáp ứng và phản ánh phù hợp với hiện tượng đời sống, quan điểm tư tưởng mà mà văn học muốn gửi gắm, phản ánh. Chính vì thế, sự phân chia thể loại là một yêu cầu không thể thiếu. Nhìn chung, đến nay còn rất nhiều sự tranh luận xung quanh vấn đề phân chia thể loại nhưng với giới hạn của đề tài về vấn đề dạy học đọc – hiểu văn học theo đặc trưng thể loại gắn liền với đời sống thực tiễn nên bài viết này chỉ đi sâu vào thể loại trữ tình mà cụ thể là văn bản trữ tình. Về nội dung, có thể thấy những tác phẩm trữ tình thường đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm, cảm xúc bên trong – những cảm xúc rất đa dạng, mơ hồ. Đó có thể là niềm vui, nỗi buồn, sự chia li, hi vọng hay đau đớn… Đặc biệt, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong những tác phẩm trữ tình thường bộc lộ một cách trực tiếp, có thể thiên về tình cảm cá nhân, có khi suy tư về nhân tình thế thái, về số phận con người, về thăng trầm xã hội, về cảm xúc thời đại…. Về hình thức, tác phẩm trữ tình thường có hình thức ngắn gọn mang tính chất tâm tình, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ mang tính cách điệu hàm súc, tư tưởng được mã hóa vào những biểu tượng nghệ thuật đầy ý nghĩa.
14
Bài Thơ Sóng (Xuân Quỳnh)
Bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh)
Bài giảng: Sóng (Xuân Quỳnh) – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Nội dung bài thơ Sóng
I. Đôi nét về tác giả Xuân Quỳnh
– Xuân Quỳnh sinh năm 1942, mất năm 1988, tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh
– Quê quán: La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội)
– Xuân Quỳnh xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội
– Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa của Đoàn văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III
– Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
– Năm 2007, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
– Tác phẩm chính: Tơ tằm – Chồi biếc (in chung), Hoa dọc chiến hào, Gió Lào cát trắng, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Hoa cỏ may, Bầu trời trong quả trứng, truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn
– Phong cách thơ: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằn thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
II. Đôi nét về tác phẩm Sóng
1. Hoàn cảnh ra đời
– Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tê ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh
– Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào
2. Bố cục (4 phần)
– Phần 1 (2 khổ thơ đầu): Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng
– Phần 2 (2 khổ tiếp theo): Suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu
– Phần 3 (3 khổ thơ tiếp theo): Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái trong tình yêu
– Phần 4 (còn lại): Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt
3. Giá trị nội dung
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
4. Giá trị nghệ thuật
– Hình tượng sóng đôi giúp nhà thơ diễn tả những cảm xúc khó nói trong tình yêu
– Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt phù hợp trong việc diễn tả các cung bậc, sắc thái cảm xúc khác nhau
– Ngôn ngữu gần gũi, trong sáng, dung dị, tinh tế
III. Dàn ý phân tích Sóng
I. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về nhà thơ Xuân Quỳnh (tiểu sử, phong cách thơ…)
– Giới thiệu khát quát về bài thơ “Sóng” (hoàn cảnh ra đời, nội dung chính….)
II. Thân bài
1. Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng
– Thủ pháp đối lập: dữ dội – dịu em, ồn ào – lặng lẽ
→ Các cung bậc, sắc thái khác nhau của sóng cũng giống như những cung bậc tình cảm phong phú, những trạng thái đối cực phức tạp, đầy nghịch lí của người phụ nữu khi yêu
– Hình ảnh ẩn sụ, nhân hóa “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”: khát vọng vươn xa, thoát khỏi những gì chật chội, nhỏ hẹp, tầm thường
→ Quan niệm mới về tình yêu: yêu là tự nhân thức, là vươn tới cái rộng lớn, cao xa
– Phép so sánh, liên tưởng “Ôi con sóng ngày xưa … Bồi hồi trong ngực trẻ”: Lời khẳng định khát vọng tình yêu cháy bỏng, mãnh liệt luôn luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ
2. Những suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu
– Sử dụng dày đặc các câu hơi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?”: thể hiện mong muốn muốn tìm được cội nguồn của tình yêu, lí giải được tình yêu, khát khao hiểu được tình yêu, hiểu được bản thân mình và hiểu được người mình yêu
– Câu trả lời “Em cũng không biết nữa”: Lời tự thú chân thành của người phụ nữ, đầy hồn nhiên, nữ tính. Tình yêu là bí ẩn, những trạng thái trong tình yêu luôn là những điều khó lí giải
3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái khi yêu
– Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu
+ Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu… trên mặt nước…”, “ngày đêm không ngủ được”
→ Nỗi nhớ da diết, sâu đậm
+ Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”
→ Cách nói cường điệu nhưng hết sức hợp nhằm tô đậm nỗi nhớ mãnh liệt của tác giả
+ Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình
– Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:
+ “Em”: phương Bắc phương Nam – “Hướng về anh một phương”
→ Lời thể thủy chung son sắt tuyệt đối
+ “sóng” : ngoài đại dương → “Con nào chẳng tới bờ”
→ quy luật tất yếu.
+ Lòng thủy chung là sức mạnh để tình yêu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tới với bến bờ hạnh phúc
⇒ Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn vững tin ở tình yêu
4. Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt
– Sự nhạy cảm và lo âu của tác giả về cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian “Cuộc đời tuy dài thế … Mây vẫn bay về xa”
– “Làm sao” gợi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.
– Khát khao của nguời phụ nữa được hòa mình vào cuộc đời, được sống trong “biển lớn tình yêu” với mooitj tình yêu trường cửu, bất diệt với thời gian
III. Kết bài
– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
+ Nội dung: bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người
+ Nghệ thuật: hình ảnh sóng đôi sóng và em, thể thơ năm chữ, ngogn ngữu dung dị, trong sáng…
– Cảm nhận về bài thơ: bài thơ cho chúng ta thấy rõ những cung bậc cảm xúc sâu lắng, thầm kín trong tình yêu. Đó là tiếng lòng, là nhịp chảy của những trái tim đang khao khát, rạo rực yêu thương.
Ngân hàng trắc nghiệm miễn phí ôn thi THPT Quốc Gia tại chúng tôi
tac-gia-tac-pham-lop-12.jsp
Sơ Lược Tác Phẩm Sóng (Xuân Quỳnh)
b. Sơ lược AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
c. Sơ lược tác phẩm Vợ Chồng A Phủ
d. Sơ lược tác phẩm VỢ NHẶT (Kim Lân)
e. Sơ lược về bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)
f. Sơ lược tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
1.Tác giả
– Cuộc đời bất hạnh ; luôn khát khao tình yêu , mái ấm gia đình và tình mẫu tử. – Đặc điểm hồn thơ : tiếng nói của người phụ nữ giàu lòng yêu thương; khao khát hạnh phúc đời thường, bình dị; nhiều âu lo,day dứt, trăn trở trong tình yêu.
2.Tác phẩm
a.Hoàn cảnh sáng tác: 1967 – tại biển Diêm Điền , Thái Bình. b.Đề tài : tình yêu – tình cảm muôn đời của con người. c.Nội dung : Mượn hình tượng sóng để diễn tả tình yêu của người phụ nữ . Sóng là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: tình yêu tha thiết, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son, chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người. – Sóng là một hình tượng đẹp của thiên nhiên , các thi nhân thường mựợn sóng để biểu đạt những sắc thái tình cảm của mình. – Sóng trong thơ XQ là hình tượng biểu hiện cho một tình yêu nồng ấm, dạt dào, tha thiết,…và vĩnh hằng. Sóng và em trong bài thơ có mối quan hệ mật thiết với nhau . Sóng chính là biểu hiện tình yêu của em , của người con gái đang yêu nồng nàn, tha thiết. – Trong bài thơ ” Sóng” của XQ, sóng là một hình tượng ẩn dụ . XQ đã mượn hình tượng sóng để nói lên tính chất của tình yêu . + Mở đầu bài thơ, XQ đã đưa ra hai tính chất đối lập của sóng: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Quả đúng như vậy, những khi bão tố, biển động thì sóng trào lên một cách dữ dội, ồn ào như giận dữ muốn nghiền nát cả bờ. Nhưng những lúc trời êm biển lặng thì sóng chỉ rì rào, dịu êm và lặng lẽ . Hai tính chất đối lập này của sóng cũng chính là hai tính chất đối lập trong tình yêu . Tình yêu cũng như sóng, có lúc khát khao cháy bỏng, mãnh liệt , ào ạt nhưng có lúc dịu êm, lặng lẽ , mơ màng đi vào chiều sâu của sự nhớ nhung, chờ đợi. + Sông không hiểu chính mình Sóng tìm ra tận bể Những con sóng cũng thật mạnh mẽ, bản lĩnh : ở phạm vi chật hẹp không hiểu mình thì con sóng tìm ra phạm vi rộng lớn hơn. Mượn nét tính cách , khát khao này của con sóng để thể hiện khát vọng vươn tới miền bao la, vô tận tìm đến tình yêu đích thực của người con gái, người phụ nữ Đây cũng chính là bản lĩnh mạnh mẽ, táo bạo của người phụ nữ trong tình yêu. + Con sóng ngày xưa, ngày nay vẫn cứ “Dữ dội và dịu êm, Ồn ào và lặng lẽ” muôn đời sóng vẫn vỗ và muôn đời tình yêu là tình cảm mà con người khát khao: Ôi con sóng ngày xưa Và ngày nay vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Nhà thơ đã yêu, đang yêu và chiêm nghiệm từ tình yêu của chính mình để khẳng định : Tình yêu là khát vọng muôn đời của con người và nhất là tuổi trẻ . Có lẽ vì thế mà con người chúng ta thường quan niệm tuổi trẻ là tuổi của tình yêu, tuổi của khát khao hạnh phúc. + Nhà thơ đã yêu, đang yêu và muốn đi tìm căn nguyên của tình yêu, điểm khởi nguồn của sóng. Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Khởi nguồn của sóng thì có thể tìm hiểu được , điểm khởi đầu của tình yêu thì “Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau” . Thật khó khăn để lí giải Ta yêu nhau khi nào?, Vì sao ta yêu nhau?,…bởi tình yêu thuộc phạm trù tình cảm , những tình cảm được rung lên từ lòng người và hơi thở của trái tim mà chiều sâu lòng người, hơi thở trái tim làm sao hiểu hết được.Vì thế, trong tình yêu thì muôn đời có những câu hỏi không trả lời được. XQ đã yêu, đang yêu da diết, mãnh liệt nhưng cũng chỉ biết lắc đầu rất phụ nữ ” em cũng không biết nữa” . Câu thơ vừa chứa đựng một sự ngây thơ, bối rối vừa chứa đựng chút bất lực của nhà thơ trước câu hỏi ” Khi nào ta yêu nhau”.Câu hỏi mà các thế hệ thi nhân vẫn chưa trả lời được. Ngay cả ông hoàng tình yêu – Xuân Diệu cũng bối rối ” Làm sao cắt nghĩa được tình yêu .. + Không cắt nghĩa được tình yêu, không lí giải được ” Khi nào ta yêu nhau” nhưng nhà thơ thành thật thổ lộ yêu là nhớ nhung da diết, mãnh liệt: Con sóng dưới lòng sâu….. Cả trong mơ còn thức Tình yêu cũng như con sóng , có khi biểu hiện cụ thể trên bề mặt rất dễ nhận biết nhưng có khi lại lắng sâu vào tận đáy tâm hồn và chỉ có những người nhạy cảm, có chiều sâu tâm tưởng mới nhận ra được. XQ đã khéo léo dùng phép nhân hóa để khẳng định rằng dù là con sóng chìm hay sóng nổi thì con nào cũng nhớ bờ thao thức, ngày đêm không ngủ được. Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Con sóng nhớ bờ ngày đêm không ngủ được hay chính là nỗi nhớ da diết, rạo rực trong tình yêu của XQ. Nỗi nhớ trong tình yêu chiếm lĩnh cả thời gian , không gian, cả lúc thức lẫn lúc ngủ. Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Cách diễn đạt nỗi nhớ của XQ thật là độc đáo , nhà thơ bộc lộ thẳng thắn nỗi nhớ của mình trong tình yêu. Nỗi nhớ cứ tồn tại , cứ hiện diện trong tâm hồn , nó không hề lắng xuống mà trào dâng mãnh liệt , quay quắt không nguôi. + Từ nỗi nhớ tha thiết trong tình yêu , nhà thơ khẳng định tấm lòng sắt son chung thủy của mình đối với người yêu : Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh- một phương Dẫu có xa cách thời gian , không gian thì trái tim em , ánh mắt em vẫn luôn dành cho anh. Thật là một trái tim yêu thủy chung , son sắt đáng trân trọng biết bao. Đoạn thơ 4 câu như một lời thề, một lời tự đính ước với người mình yêu. Tình yêu chân thành, tha thiết ; mãnh liệt , thủy chung. + Yêu chân thành, mãnh liệt nên nhà thơ tin tưởng ở tình yêu của chính mình: Ở ngoài kia đại dương Tăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở Người phụ nữ đang yêu và tin rằng tình yêu ấy sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù phải trải qua những khó khăn, thử thách. Đúng vậy, một tình yêu chân chính, đích thực sẽ giúp con người vượt qua bao sóng gió cuộc đời để đưa tình yêu cập bến bờ hạnh phúc, yêu thương. + Yêu tha thiết nên nhà thơ khao khát bất tử hóa tình yêu: Cuộc đời tuy dài thế……. Để ngàn năm còn vỗ. Vũ trụ vĩnh hằng , cuộc đời con người hữu hạn . Làm sao để được yêu như trái tim mình khao khát ? Khao khát bất tử hóa tình yêu nhưng trái tim của nhà thơ không vị kỉ , tầm thường , nhỏ hẹp mà thật lớn lao, cao thượng. Nhà thơ đã hòa niềm hạnh phúc riêng của mình vào niềm hạnh phúc của cuộc đời rộng lớn, cái riêng tồn tại trong cái chung bao la , rộng lớn ấy nên trở thành vỉnh cửu. – Nghệ thuật : + Thể thơ tự do – 5 chữ. + Cách ngắt nhịp, gieo vần độc đáo; giàu sức liên tưởng. + Xây dựng hình tượng ẩn dụ – sóng. + Giọng thơ tha thiết. Mượn hình tượng sóng để diễn tả tình yêu của người phụ nữ . Sóng là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: tình yêu tha thiết, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son, chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người Trái tim yêu của Xuân Quỳnh: ” Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt đời thường ai cũng có Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” d.Nghệ thuật : + Thể thơ tự do – 5 chữ. + Cách ngắt nhịp, gieo vần độc đáo; giàu sức liên tưởng. + Xây dựng hình tượng ẩn dụ – sóng. + Giọng thơ tha thiết.
Theo Học Văn – Văn Học
Cập nhật thông tin chi tiết về Đọc Hiểu Văn Bản: Sóng (Xuân Quỳnh) trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!