Bạn đang xem bài viết Đóng Vai Người Cháu Trong Văn Bản “Bếp Lửa” được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Hồi ức về bếp lửa đã làm bớt đi cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê. Nơi đó năm xưa bà vẫn tảo tần hôm sớm. Dáng bà còng lưng thổi bếp, thổi mãi cho đến khi bếp cháy và tỏa ra hơi ấm nồng nàn, hơi ấm của lửa tỏa ra khắp căn bếp nhỏ ấm tâm hồn của hai bà cháu
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên tâm trí tôi, quá khứ hiện về như một cuộn phim quay chậm. Tuổi thơ được sống bên bà, cùng bà nhóm lửa. Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói. Năm 1945, năm ấy nạn đói khủng khiếp xảy ra do chính sách cai trị của Pháp nên gia đình tôi đói mòn đói mỏi. Bố tôi đi đánh xe, khô rạc ngựa rầy. Bà đi đào những củ khoai, củ sắn rồi nướng cho tôi ăn. Mỗi khi đi đào khoai đào sắn cứ về nhà là chân tay bà lại lấm len bùn đất, tôi nhìn bà mà thương cho bà.
Tám năm ròng sống cùng bà, tôi cùng bà nhóm lửa, nghe bà kể chuyện những ngày ở Huế, bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học. Bà là người thầy đầu tiên trong cuộc đời tôi.
Tuổi thơ tôi đã phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội. Năm ấy giặc đốt làng, làng xóm đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh. Bà dặn tôi gửi thư cho bố không được kể lung tung cứ bảo nhà vẫn được bình yên để cho bố mẹ yên tâm mà công tác.
Hình ảnh bà tôi tần tảo sớm chiều cùng bếp lửa, mái tóc bà bạc phơ, lưng bà đã còng đi. Bếp lửa do tay bà nhóm lên tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ, sưởi ấm cả lòng tôi. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm niềm vui, bà không những là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin, sự sống cho tôi.
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…”
Giờ đây tôi đã trưởng thành, có những niềm vui mới, tình cảm mới, bến bờ mới nhưng tôi không thể nào quên bà ngồi bên bếp lửa thổi những ngọn lử niềm tin, ngọn lửa ấm áp. Dù có đi đâu về đâu con người ta vẫn nhớ về kỉ niệm thơ ấu của mình.
Tôi nhớ bà quá! Bây giờ tôi chỉ ước được về ngày bên bà, ôm chặt bà. Cùng bà nhóm lửa lên mỗi sớm chiều, nghe bà kể lại chuyện những ngày ở Huế. Cùng bà ngồi ăn những củ khoai, củ sắn nóng hổi bên bếp lửa. Tình yêu thương, lòng biết ơn trong gia đình chính là cội nguồn của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
Đóng Vai Người Cháu Trong Văn Bản “Bếp Lửa”
Hồi ức về bếp lửa đã làm bớt đi cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê. Nơi đó năm xưa bà vẫn tảo tần hôm sớm. Dáng bà còng lưng thổi bếp, thổi mãi cho đến khi bếp cháy và tỏa ra hơi ấm nồng nàn, hơi ấm của lửa tỏa ra khắp căn bếp nhỏ ấm tâm hồn của hai bà cháu
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên tâm trí tôi, quá khứ hiện về như một cuộn phim quay chậm. Tuổi thơ được sống bên bà, cùng bà nhóm lửa. Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói. Năm 1945, năm ấy nạn đói khủng khiếp xảy ra do chính sách cai trị của Pháp nên gia đình tôi đói mòn đói mỏi. Bố tôi đi đánh xe, khô rạc ngựa rầy. Bà đi đào những củ khoai, củ sắn rồi nướng cho tôi ăn. Mỗi khi đi đào khoai đào sắn cứ về nhà là chân tay bà lại lấm len bùn đất, tôi nhìn bà mà thương cho bà.
Tám năm ròng sống cùng bà, tôi cùng bà nhóm lửa, nghe bà kể chuyện những ngày ở Huế, bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học. Bà là người thầy đầu tiên trong cuộc đời tôi.
Tuổi thơ tôi đã phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội. Năm ấy giặc đốt làng, làng xóm đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh. Bà dặn tôi gửi thư cho bố không được kể lung tung cứ bảo nhà vẫn được bình yên để cho bố mẹ yên tâm mà công tác.
Hình ảnh bà tôi tần tảo sớm chiều cùng bếp lửa, mái tóc bà bạc phơ, lưng bà đã còng đi. Bếp lửa do tay bà nhóm lên tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ, sưởi ấm cả lòng tôi. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm niềm vui, bà không những là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin, sự sống cho tôi.
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…”
Giờ đây tôi đã trưởng thành, có những niềm vui mới, tình cảm mới, bến bờ mới nhưng tôi không thể nào quên bà ngồi bên bếp lửa thổi những ngọn lử niềm tin, ngọn lửa ấm áp. Dù có đi đâu về đâu con người ta vẫn nhớ về kỉ niệm thơ ấu của mình.
Tôi nhớ bà quá! Bây giờ tôi chỉ ước được về ngày bên bà, ôm chặt bà. Cùng bà nhóm lửa lên mỗi sớm chiều, nghe bà kể lại chuyện những ngày ở Huế. Cùng bà ngồi ăn những củ khoai, củ sắn nóng hổi bên bếp lửa. Tình yêu thương, lòng biết ơn trong gia đình chính là cội nguồn của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
Đóng Vai Người Cháu Kể Lại Kỉ Niệm Tình Bà Cháu Trong Bài Thơ Bếp Lửa
(Văn mẫu lớp 9) – Anh (Chị) hãy Đóng vai người cháu kể lại kỉ niệm tình bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa của nhà thơ Bằng Việt.
Đề bài: Trong vai người cháu kể lại kỉ niệm tình bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa
BÀI LÀM
” Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương Da dẻ dù khô đi tấm lòng không hẹp lại. Giàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãi Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”
Đó là những vần thơ của tôi – Người cháu dành cho bà nội nội kính yêu của mình giờ đây đang du học ở ucraina xa xôi tôi vẫn không thể nguôi quên bếp lửa ấm áp tình bà.
Là người Việt Nam không ai không biết đến bếp lửa được nhen lên bằng những nhiên liệu bình thường củi, rơm, rạ,… Bếp lửa tỏa sáng chờn vờn bốc cao bập bùng mỗi sớm mai gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tảo tần giàu tình yêu thương giàu đức hi sinh.
Bà tôi cũng vậy bà khéo léo chi chút kiên nhẫn nhóm lửa gửi vào đó bao tình yêu thương cháu con. Nhớ về bếp lửa tôi lại bồi hồi nhớ bà thương bà trải bao mưa nắng của bà.
Bếp lửa không chỉ gợi nhắc tình bà mà còn gợi bao kỉ niệm tuổi thơ đó là kỉ niệm nạn đói 1945 ám ảnh day dứt cái đói hoành hành khủng khiếp gia đình tôi cũng như bao gia đình Việt Nam khác long đong mỏi mệt vì miếng ăn. Bố đi đánh xe ngựa gầy gò khô rạc mà cái đói vẫn bám riếc không tha nếu không có bếp lửa ấm áp của bà có lẽ tôi không qua được nạn đói thật khủng khiếp biết bao giờ đây nghĩ lại sống mũi vẫn cay khé quá khứ như đồng hiện ở hiện tại xóa nhòa hoàn cảnh mấy chục năm.
Kỉ niệm thứ hai là những năm kháng chiến chống thực dân Pháp mẹ và cha tôi tham gia công tác ở chiến khu bà đã thay cả cha cả mẹ nuôi dạy tôi nên người tôi ở cùng bà, bà bảo tôi nghe bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học bà chi chút cho tôi tất cả bên ccanh bếp lửa ấm áp tình bà trong tâm thức tôi còn có tiếng chim tu hú đồng việt. Mỗi lần tu hú kêu bà hay kể lại kỉ niệm những ngày ở Huế. Tiếng chim tu hú gọi mùa càng khiến lòng tôi và bà dậy lên nỗi nhớ mong da diết cha mẹ tôi ở chiến khu. Được sống trong tình yêu thương của bà tôi càng chạnh thương con tu hú cô đơn bé nhỏ kêu da diết khắc khoải trên những cánh đồng xa.
Kỉ niệm thứ ba cũng có sức ám ảnh lớn trong tâm hồn tôi là nạn giặc càn tàn phá xóm làng ngọn lửa hung tàn bốc lên ngùn ngụt thiêu rụi nhà cửa tài sản trong mất mát đau thương bà cùng tôi và xóm làng lầm lụi trở về. Tôi cũng sớm trưởng thành lớn khôn biết đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh cảm động nhất là lời dặn của bà: ” Mày có viết thư cho bố kể này kể nọ cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố yên tâm công tác”. Bà tôi là thế đấy bà không chỉ lam lũ tảo tần giàu tình yêu thương mà còn giàu đức hi sinh bà gánh vác mọi lo toan gian khó về mình để con yên tâm công tác. Phải chăng bà tôi là hậu phương vững chắc giúp cho tiền tuyến đánh giặc. Đẩy nhanh cuộc kháng chiến đến ngày thắng lợi. Bà xứng đáng với tám chữ vàng bác Hồ trao tặng ” Anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang” Bà vừa mang nét đẹp truyền thống vừa mang nét đẹp hiện đại của người phụ nữ thời kì mới.
Từ kỉ niệm năm xưa tôi băn khoăn suy ngẫm về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa bà nhen mỗi chiều đã thành ngọn lửa của niềm yêu thương sẵn trong lòng bà niềm tin bà khơi thắp trong tôi. Phải chăng bà là đại diện của thế hệ cha anh giữ lửa truyền lửa, truyền niềm tin đến thế hệ tương lai mấy chục năm đã trôi qua bà vẫn luôn thức khuya dậy sớm lam lũ tảo tần trải qua bao mưa nắng cuộc đời, công việc bà làm có ý nghĩa to lớn biết bao, bà đã nhóm trong lòng tôi tình yêu thương lòng biết ơn sâu nặng từ những thứ giản dị đời thường nhất như khoai sẵn ngọt bùi, khơi thắp trong lòng tôi niềm vui san sẻ tình làng nghĩa xóm và đặc biệt bà còn khơi dậy mọi tâm tình ước vọng để tôi bay cao bay xa đến tận những chân trời mới. Ôi bếp lửa giản dị đời thường sánh ngang với điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.
Giờ đây tôi đã lớn khôn trưởng thành đến với những chân trời rộng mở nơi đây có bếp điện, bếp gas… Có ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả nhưng trong tiềm thức câu hỏi luôn hiện hữu trong tôi sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa. Có lẽ bếp lửa – Tình bà sẽ luôn tỏa sáng nâng đỡ nhiều con người xa xứ như tôi suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phả chăng yêu bếp lửa yêu bà là tình cảm cội nguồn tình gia đình và rộng ra là tình yêu quê hương đất nước?
Ôi bếp lửa tình bà sao mà ấm áp đến vậy! Bếp lửa ấy đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi để tôi lớn khôn trưởng thành như hôm nay. Có gốc rễ của cội nguồn con người mới trưởng thành vì vậy tôi muốn nhắn nhủ các bạn trẻ hãy trân trọng những gì đáng quí nhất, giản dị đời thường quanh ta. Yêu kính ông bà gia đình, cha mẹ, anh chị em rộng ra là tình quê hương, đất nước theo đúng truyền thống của nhân dân. Thương người như thể thương thân.
Đóng Vai Người Cháu Trong Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt Kể Lại Câu Chuyện
Đóng vai người cháu trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt kể lại câu chuyện
Mùa đông nước Nga tuyết phủ trắng xóa. Đêm lạnh như cắt da cắt thịt, ngồi bên lò sưởi, hơ bàn tay ấm, nhìn ánh lửa lắc lử, tôi chợt nhớ đến bà và quê hương da diết.
Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vô cùng cực khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi , tôi đã quen với mùi khói. Tôi vẫn nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra khủng khiếp đối với gia đình tôi cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba tôi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gò mà cái đói vẫn bám riết không tha, người dân cực khổ vô cùng.
Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi tham gia công tác kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tôi cùng bà nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tôi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa cay cay, khiến mỗi lần tôi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy . Bà đã thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên người. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học, chăm sóc tôi với tình yêu thương vô vàn như một người mẹ .
Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc khác không nghỉ ngơi mà cũng không than phiền hay trách móc gì cả. Cuộc đời bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên tôi không muốn phiền lòng bà nữa. Tôi đã lớn lên trong vòng tay yêu thương và bảo bọc của bà. Đôi lúc những khi rãnh rỗi bà còn thường kể chuyên tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: ” Con phải ráng học để xây dựng đất nước , nếu không thì đất nước mình chỉ mãi nghèo khổ thôi”.
Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm , từng chữ từng lời nói của bà đều khác sâu trong lòng tôi. Tiếng tu hú kêu làm tôi và bà đều nhớ ba mẹ tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không muốn xa quê hương để bà khó nhọc.
Tôi hiểu lòng bà nên chỉ vâng lời thôi ,và tôi càng thấy thương bà hơn, một mình bà gánh vác hết mọi công việc còn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Nên mọi việc gì trong nhà tôi có thể làm được thì tôi liền giúp bà như: cho gà ăn, lấy củi, hái rau ,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng giúp bà đỡ được phần nào. Những ngày mà bà làm việc nặng, tới tối tay chân bà mỏi thì đôi đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.
Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm bếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và hình ảnh của bà . Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua mưa nắng cuộc đời, tảo tần chăm sóc tôi. Công việc của bà giản dị nhưng tôi vẫn biết ơn vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong cuộc đời bà. Ôi bếp lửa giản dị nhưng riêng tôi cảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đẹp.
Bếp lửa còn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui niềm yêu thương giành cho tôi và mọi người . Bà không những là người nhóm lửa, mà còn là người truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người .
Giờ đây tôi đã trưởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “luôn hiện hữu trong tâm trí tôi với câu hỏi: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ôi bếp lửa tình bà sao ấm áp đến như vậy ! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trưởng thành như ngày hôm nay. Bây giờ tôi chỉ muốn về với bên bà, được bà kể chuyện, được bà chăm sóc yêu thương. Mỗi con người ai cũng đều có cội nguồn để trưởng thành. Vì thế mà tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày hôm nay.
Trong mỗi chúng ta, có lẽ kỉ niệm tuổi ấu thơ bao giờ cũng là những trang kí ức sâu đậm nhất . đó có thể là kỉ niệm về làng quê thân thương, hay cũng có thể là kỉ niệm về tuổi học trò. Những kỉ niệm ấy như ăn sâu vào tiềm thức của chúng ta, khiến ta khó lòng mà quên được. Đối với tôi cũng vậy !
Tuổi thơ về người bà thân thương gắn liền với bóng đen ghê rợn của nạn đói năm Ất Dậu, đó trở thành dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng tôi. và trong nỗi nhớ ấy, lòng tôi đã dấy lên một niềm xúc động khi những dòng kí ức ấy ùa về.
Đối với bản thân tôi “bếp lửa chờn vờn sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng lượm” đã trở thành một hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong gia đình nông thôn chúng tôi. Bếp lửa là nơi bắt đầu nỗi nhớ da diết của tôi. Trong dòng cảm xúc dạt dào ấy, bếp lửa đã trở thành một kỉ niệm khó phai. Bếp lửa thể hiện sự tần tảo của bà mà còn thắp lên tình thương yêu sâu sắc của hai bà cháu.
Từ năm lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói mà bà nhóm lên. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi và hình ảnh bếp lửa đã trở nên không thể thiếu trong đời tôi. Để bây giờ nhớ lại tôi lại cảm thấy cay xè sống mũi. Bếp lửa thiêng liêng trở thành một dấu ấn, một nỗi nhớ, nỗi ám ảnh sâu sắc trong cuộc đời tôi.
Tám năm ! một quãng thời gian không dài cũng không ngắn nhưng đủ để nhen nhóm trong lòng tôi một ngọn lửa tình yêu cháy bỏng dành cho người bà. Bếp lửa của quê hương, của sự yêu thương gợi lên tiếng chim tú hú như giục giã nghe sao mà da diết quá !
Trong khoảng thời gian chiến tranh, tôi sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà. Bếp lửa hiện lên như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự đùm bọc châm chút của bà. Bên bếp lửa, bà kể tôi nghe những câu chuyện còn ở Huế, bà dạy, bà bảo, bà chăm chút tôi.
Giặc đi, ai ai cũng bị mất mát rất nhiều, tuy nhiên mọi người vẫn giúp đỡ nhau dựng cho nhau những túp lều. Bà âm thầm chịu dựng để bố mẹ tôi yên tâm công tác nơi phương xa. Vất vả chồng lên vất vả, gian truân nối tiếp gian truân, nhưng bà vẫn dặn tôi đinh ninh ” Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, mày viết thư chớ kể này, kể nọ, cứ bảo nhà vẫn bình yên ” Ôi chao ! khi nghĩ lại lời dặn ấy thật mộc mạc, bình dị nhưng lại chất chứa trong ấy biết bao tâm tình, biết bao đau khổ cuộc đời bà
Khi nhớ lại, nỗi kỉ niệm ấy lại dâng lên thêm. Tôi lại suy ngẫm về cuộc đời tần tảo của bà, cuộc đời luôn cặm cụi làm việc. Bà vẫn luôn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa và công việc ấy kéo dài suốt cuộc đời bà, bà nhóm lửa cho hôm nay, cho ngày mai và đến mãi mai sau,… Bà nấu cho tôi những bữa ăn trông thật đơn giản nhưng lại chất chứa trong đó tình cảm sâu đậm của bà. Và chính bà là người khơi dậy ước mơ, khát vọng tuổi thơ của tôi.
Ngọn lửa mà bà nhen nhóm cả một đời người là ngọn lửa thiêng liêng và kì lạ. Là kỉ niệm nâng bước tôi trong cuộc đời dài. Bà tôi không chỉ lag người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương, niềm tin cho bao thế hệ. Bếp lửa có lẽ trở thành một biểu tượng của sự sống của niềm yêu thương và cội nguồn, gia đình, đất nước, là sự sống bền bỉ của con người
Không chỉ như vậy, hiện diện cùng bếp lửa là người bà, cũng là tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Bà là người giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu nước. Giữa tro tàn, mất mát đau thương, bà vẫn miệt mài nhóm lửa. Bếp lửa mà bà vẫn thường nhóm sớm sớm chiều chiều đã dâng lên thành ngọn lửa trong lòng bà.
Những nỗi nhớ về bà khép lại trông sự buồn man mác của tôi. Tôi rất nhớ, rất nhớ về tình yêu thương của bà, bếp lửa thiêng liêng và quê hương nồng nàng, tha thiết của tôi. Vì vậy, tôi càng trân trọng những tình cảm tôi đang có. Bếp lửa như lời nhắc nhở tôi về cội nguồn, nghĩa tình thiêng liêng, sâu nặng trong cuộc sống.
Bao nhiêu năm xa quê hương, xa bà, xa miền quê yêu dấu nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những thánh năm tuổi thơ, có bà bên bếp lửa ấm. Dường như cái rét cắt da thịt của mùa đông nước Nga khiến tôi hồi tưởng về ký ức khi ấy.
Năm tôi lên bốn, tức là năm 1945, đất nước đang lâm vào một nạn đói khủng khiếp, khi ấy cuộc sống khó khăn rất nhiều. Bố mẹ tôi phải ra ngoài kiếm tiền, tôi được bà chăm sóc. Tôi còn nhớ khi ấy nhà nhà ai cũng đói, cả người lẫn ngựa đều gầy. Người chết vì đói cũng không ít, thế nên người dân phải đót rơm để trừ tử khí, đốt nhiều đến nỗi khói hun nhèm mắt, tới giờ vẫn còn cay. Dù vậy tôi cùng bà cũng không bỏ cuộc, chúng tôi ngồi bên ngọn lửa như có một hy vọng, dù không lớn nhưng vẫn sống mãnh liệt.
Bố mẹ tôi đi theo tiếng gọi Tổ Quốc, giao tôi cho bà giữ. Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm lửa, dù có khổ đến mấy, bà vẫn ngày ngày thắp lên ngọn lửa như thấp lên mỗi niềm hy vọng. Tôi ngồi trông những đàn chim tu hú hót tha thiết ngoài cánh đồng, tôi chỉ muốn nó rằng: ” Tu hú ơi sao chẳng ở cùng bà?”. Tôi từ nhỏ đã quen cái hơi thân thuộc của bà. Cùng bà dậy sớm để cùng thắp lên “hy vọng” dần dần đã trở thành niềm vui nho nhỏ của tôi.
Tôi vẫn nhớ những câu chuyện khi ấy của bà. Bà thường hay kể những ngày ở Huế cho tôi nghe, dù bà có kể bao nhiêu tôi vẫn không thấy chán. Được áp đầu nằm lên đùi bà, được những ngón tay ấm áp của bà luồn qua khe tóc, nằm nghe những câu chuyện cùng với hơi ấm của bếp lửa và tất nhiên là với bà cũng đủ làm cho tôi hạnh phúc.
Bố mẹ đi xa, bà tôi thay bố mẹ dạy tôi nhiều việc, bà lo cho tôi ăn học, lo cho tôi ăn uống, chăm sóc tôi, khuyên răn tôi những việc sai. Khi lớn lên tôi mới nhận ra, bà thương tôi, lo cho tôi không có đủ tình thương, bà cố gắng đảm nhiệm là một người bố, người mẹ và là một người thầy để lo cho tôi. Dù khó khăn bà cũng chỉ để tôi thấy một nụ cười hiền hòa. Nhớ đến đây, hai gọt lệ lăn dài trên má tôi…
Bình yên là thế cho đến khi…. Năm đó, giặc đốt làng cháy rụi. Tôi cùng bà đi trốn. Khi mọi việc kết thúc, bà nắm chặt tay tôi đi từng bước run rẩy vào làng, mọi thứ trước mắt tôi thật hoang tàn. Tôi có thể nghe được cả tiếng khóc than của người dân. Chúng tôi về tới ngôi nhà tranh của mình, nó đã bị đổ xuống nhưng may là các bác hàng xóm đã giúp chúng tôi dựng lại được. Đêm ấy, ngồi bên bà, chợt bà bảo tôi: ” Mày có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo là chúng ta vẫn bình yên. Đừng để bố bây lo.”
Chính là thế, dù có ra sao bà tôi vẫn gắng gượng. Người phụ nữ ấy là niềm tự hào to lớn của tôi, bà không bao giờ than vãn, hay tỏ ra mệt mỏi, tôi biết bà đang cố gắng giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù sớm dù chiều, dù đã qua mấy chục năm, bà vẫn luôn thắp lên bếp lửa ấp iu ấy. Ngọn lửa được bà dành chọn tất cả niềm thương yêu của mình. Chính bếp lửa ấy là nơi có khoai sắn ngọt bùi, nồi xôi gạo sẻ chia và những tâm tình tuổi thơ. Tôi hiểu lòng bà, vì sao bà lại nhóm lửa, tôi hiểu rằng bà đang hy vọng, ngọn lửa bà thắp như là một niềm tin đất nước sẽ chiến thắng, sẽ bình yên. Bà dành cả đời mình chỉ để hy vọng niềm tin hạnh phúc của bà có thể thành hiện thực.
Dù tôi đang ở nơi xa Tổ Quốc, cho dù tôi không thể ở cùng bà, dù tôi đang thấy những điều mới lạ. Tôi vẫn không quên hình ảnh người bà thân thường cùng bếp lửa thắp lên niềm tin của tôi. Tôi tin bà vẫn luôn ở đây, đang thắp lên ngọn lửa ấm áp trong lồng tôi. “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.”
Cảm Nhận Của Em Về Tình Bà Cháu Và Bếp Lửa Trong Bài Thơ Bếp Lửa
Cảm nhận của em về tình bà cháu và bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
Mở bài Cảm nhận của em về tình bà cháu và bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
Tình thương yêu của mọi người trong gia đình dành cho nhau, cùng tỏa lửa cho nhau giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn nhất, cùng nhau chia sẻ bao chuyện buồn vui. Với bếp lửa từ tình bà nhem nhóm lên dạy dỗ và nuôi lớn nhà thơ, đến khi trưởng thành tác giả đi Liên Xô học tập và sinh sống tại đó năm 1963 Bằng Việt đã gửi chọn niềm nhớ nhung và thương yêu cho người bà của mình qua bài Bếp lửa.
Thân bài Cảm nhận của em về tình bà cháu và bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
Bếp lửa trong kí ức của nhà thơ được nhóm lên từ đôi tay của bà, sáng chiều bà nhóm bếp nấu cơm, cũng bàn tay ấy bà vất vả nuôi cháu lớn. Hỉnh ảnh bếp lửa bập bùng trong bài thơ gắn liền với hình ảnh của bà. Nhắc về bà là nhắc tới bếp lửa và ngược lại nhớ tới bếp lửa là hình ảnh bà lại hiện lên. Bếp lửa chính là tình bà cháu ấm áp và cảm động. Ngay mở đầu bài thơ ta đã thấy nhà thơ nhắc tới “bếp lửa”:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ngọn lửa bập bùng trong những buổi sáng sớm, nắng chưa lên nên sương vẫn còn đọng lại. Hình ảnh bếp lửa xuất hiện để gợi nhớ về bà, mỗi sáng bà đều dậy sớm nhen bếp để nấu cơm nuôi tác giả, tình yêu thương vô bờ bến của bà đã tạo động lực cho tác giả có được như ngày hôm nay và tác giả cũng rất là thương bà của mình: “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Nhà thơ nhắc đến những năm 1945 đói kém: “Đó là năm đói mòn đói mỏi” nhưng bà của tác giả vẫn tần tảo nuôi cháu, bà dành tất cả tình yêu thương cho cháu mang đến cho cháu những bữa ăn nhọc nhằn mà nghĩ đến giờ: “sống mũi còn cay”. Gắn liền với bà còn có hình ảnh tu hú kêu: “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà. Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”.
Trong những năm tháng ấy, tiếng tu hú kêu thảm thiết là gợi lên sự đói kém, mất mát, là những tiếng khóc than thở: “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” mọi sự sống dường như bị triệt tiêu nhưng bà vẫn nhem nhóm lên những ngọn lửa như là tia hi vong, niềm tin dai dẳng: “Một ngon lửa lòng bà ủ sẵn. Môt ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Hình ảnh bà hiện lên mang tất cả các tình yêu dành cho cháu, hình ảnh bếp lửa gắn liền với bà, tác giả ca ngợi bà, nhớ đến bà và tình bà cháu thiêng liêng. Đến bây giờ đã đi xa nhưng tác giả không bao giờ quên ân tình của bà và không bao giờ quên những yêu thương mà bà đã dành cho tác giả đến suốt cuộc đời này: “Giờ cháu đã đi xa” tác giả đã đi đến một nơi có rất nhiều ngọn lửa có rất nhiều niềm vui nhưng: “chẳng có lúc nào quên nhắc nhở. Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” Câu kết đã cho chúng ta thấy được dù tác giả có đi đâu làm gì thì vẫn cứ nhớ đến bà của mình.
Kết luận Cảm nhận của em về tình bà cháu và bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
Qua bài Bếp lửa ta thấy được tình bà bao la của người bà dành cho cháu, và cháu thì luôn luôn không nguôi nhớ về bà, cháu rất thương bà. Bài thơ cho ta thấy tình cảm thiêng liêng của bà và cháu. Hình ảnh bà được gắn liền với hình ảnh bếp lửa, chính là sự nhem nhóm niềm tin của bà muốn gửi tới người cháu thân yêu của mình.
Cập nhật thông tin chi tiết về Đóng Vai Người Cháu Trong Văn Bản “Bếp Lửa” trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!