Xu Hướng 4/2023 # Dương Soái Và “Gửi Em Ở Cuối Sông Hồng”… # Top 10 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Dương Soái Và “Gửi Em Ở Cuối Sông Hồng”… # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Dương Soái Và “Gửi Em Ở Cuối Sông Hồng”… được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

TP – Dương Soái vừa tự hào lại vừa chạnh lòng với cái việc lúc nào người ta cũng chỉ biết tới anh như là tác giả có duy nhất một bài thơ hay Gửi em ở cuối sông Hồng.

Dương Soái (phải) và tác giả bài viết

Dẫu cái tên Dương Soái rất… tướng soái, lại thêm việc anh làm thơ với hình ảnh anh lính trận mạc nhớ người yêu ở đầu ngọn sông Hồng, thế cho nên ai cũng tưởng Dương Soái một đời là lính chiến.

Thật ra thì Dương Soái – hiện là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Yên Bái – vốn là công nhân địa chất, 11 năm mưa đi tìm quặng ở Hoàng Liên Sơn (cũ). 11 năm ấy, anh “cũng kiếm được khoảng 30 bài thơ”.

Sau 11 năm trò chuyện với từng vỉa tầng quả đất vừa già nua vừa tươi mới, Dương Soái làm phóng viên chiến trường trên mặt trận biên giới Lào Cai, hồi tháng 2/1979. Anh đi gần như trọn vẹn cuộc chiến tranh biên giới vùng Lào Cai, tận mắt nhìn thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Bài thơ Gửi em ở cuối sông Hồng đã bật ra từ hoàn cảnh đó.

Giữa hai trận đánh, anh ngồi trong căn nhà lá ở Phố Lu (là nhà khách của huyện) và làm… thơ. Anh viết trong tâm trạng của một người mong manh sinh tử ngoài mặt trận, muốn gửi tình yêu thương tha thiết ấy về với người hậu phương.

Trong tâm trạng của một người yêu gửi một người yêu (thực tế, lúc bấy giờ, người vợ trẻ và gia đình Dương Soái cũng đang ở Duy Tiên, Hà Nam – cuối sông Hồng). Anh viết, khi anh nhớ tới những lá thư viết vội, viết dở, hoặc không kịp viết gì của những người lính trẻ ngoài mặt trận bỏng rát kia.

Dương Soái trăn trở nhiều với thơ. Cho nên, cái buổi sáng nghe cô bạn bên trường Sư phạm nói: “Bài thơ Gửi em ở cuối sông Hồng của anh được nhạc sỹ Thuận Yến phổ nhạc, Đài Tiếng nói Việt Nam vừa phát hay lắm”, Dương Soái rất phấn chấn. Đó là vào năm 1980.

Từ đó, tên Dương Soái đã thêm một lần đóng đinh với Gửi em ở cuối sông Hồng, nhất là trong cái góc làng văn nghệ vốn vẫn lặng lặng với mây núi Hoàng Liên Sơn, nơi anh sống và công tác. Độ ấy, liên tục thính giả yêu cầu nhà đài phát lại bài Gửi em ở cuối sông Hồng.

Không ngờ khoảng một năm sau, anh Sum – Người Mường, Giám đốc Nhà máy Thủy điện Thác Bà (Yên Bái)  gọi điện mời Dương Soái tới nhà uống rượu.  Dương Soái đến, mới ngã ngửa ra, khách là vợ chồng nhạc sỹ Thuận Yến.

Vừa lên nghỉ mát ở hồ Thác Bà, nhạc sỹ Thuận Yến nóng lòng hỏi ngay địa chỉ thi sĩ Dương Soái để cảm ơn và nói lời tri kỷ. Lần đầu tiên hai tác giả Gửi em ở cuối sông Hồng gặp nhau và uống rượu. Nhạc sỹ trân trọng và chu đáo vô cùng với tác giả bài thơ Gửi em ở cuối sông Hồng.

Bây giờ ngồi bàn lại câu chuyện Gửi em ở cuối sông Hồng, Dương Soái thầm cảm ơn nhạc sỹ Thuận Yến, người đã nhuận sắc cho bài thơ được đi vào lòng người yêu thơ, yêu nhạc.

Rằng, thơ Dương Soái viết “Anh ở Lào Cai, nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt”, đấy là cái tình rất cụ thể của người chiến sỹ ở mặt trận Lào Cai bỏng lửa năm 1979, nhưng khi ông Thuận Yến phổ nhạc: “Anh ở biên cương, nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt”, tự dưng bài thơ phổ quát hơn, thơ bay rộng hơn trên khắp dải biên cương từ địa đầu Lũng Cú tới cực mũi Cà Mau.

Hình như có những nhiều “hạt sạn” vui vui, và tính cục bộ trong một cuộc chiến ở một vùng phên giậu trong bài thơ đã được Thuận Yến “sửa sang” rất kỹ.

Đến những đoạn như sau trong bài hát thì hoàn toàn không phải là của Dương Soái: “Em ở phương xa/ nơi con sông Hồng chảy về với biển/ ở trên anh đầu nguồn biên giới/ Cuối dòng sông nơi ấy em chờ./ Em ở phương xa/ cách mười sông ba núi bốn đèo”.

Nhưng, cũng có những câu thơ hay nguyên bản của Dương Soái mà những người chỉ nghe nhạc thôi sẽ chưa có dịp được thưởng thức, khi người lính từ trên chốt chiến đấu xuống mặt nước nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt, chàng ước ao: “Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng…/ Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy/ Em ra sông chắc là em sẽ thấy/ Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông”.

Những câu thơ ấy đẹp và da diết đến day dứt lòng.

Đỗ Doãn Hoàng

Gửi Em Ở Cuối Sông Hồng

Chùm ca khúc này là những ca khúc lãng mạn cách mạng viết về tình yêu của những người lính với đất nước, quê hương, với Bác Hồ kính yêu. Bài hát được nhạc sĩ viết trên nền bài thơ cùng tên của nhà thơ Dương Soái. Sinh thời, nhạc sĩ Thuận Yến có lần kể rằng, trong một chuyến công tác lên biên giới sau cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, năm 1980, ông đã gặp vợ chồng một chiến sĩ. Vợ quê Thái Bình, chồng đang chốt ở biên giới Bát Xát, thượng nguồn sông Hồng. Người con gái trẻ kể với nhạc sĩ rằng, anh chị vừa cưới nhau được ít ngày thì chiến tranh nổ ra, chồng chị lên đường chiến đấu… Và chị đã lặn lội lên biên giới gặp chồng. Nghe chuyện, nhạc sĩ Thuận Yến rất xúc động, ông bảo ông muốn viết một bài hát về chuyện tình của người lính trẻ này lắm nhưng chưa viết được. Phải đến khi gặp bài thơ Gửi em ở cuối sông Hồng của Dương Soái thì câu chuyện tình yêu trong chiến tranh kia mới ra đời.

Bài thơ Gửi em ở cuối sông Hồng được Dương Soái viết trong những ngày đầu chiến tranh biên giới phía Bắc. Khi ấy, ông là phóng viên của Đài Phát thanh Hoàng Liên Sơn (nay tách thành hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái), được cử lên mặt trận ngay trong tháng 2-1979. Vào một ngày, lúc tạm yên tiếng súng, dưới mái một ngôi nhà lá ở Phố Lu, trong tâm trạng của một người lính nơi chiến trận, Dương Soái đã viết bài thơ tràn đầy cảm xúc nhớ thương gửi người yêu ở hậu phương. Bài thơ được in trên tờ tạp chí của Hội Văn học-Nghệ thuật Hoàng Liên Sơn, sau đó Tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam in lại. Dương Soái sinh năm 1950 ở Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, nhưng sống nhiều năm ở vùng biên cương và “gắn bó máu thịt” với miền đất Lào Cai.

Bài thơ Gửi em ở cuối sông Hồng của Dương Soái không chỉ được nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc thành ca khúc, thành “Giai điệu tự hào” mà còn được các “giọng ca vàng” nổi tiếng như: Thu Hiền – Trung Đức, Trọng Tấn – Thanh Hoa, Trọng Tấn – Anh Thơ, Việt Hoàn – Anh Thơ… chắp cánh cho bay cao, bay xa. Bài hát gồm hai lời, với giọng ca nam nữ mang một âm hưởng vừa sâu lắng vừa trữ tình, nhưng cũng rất giàu chất chiến đấu:

Anh ở biên cương nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt. Ở nơi anh mùa này con nước, lắng phù sa in bóng đôi bờ. Anh ở biên cương, biết rằng em năm ngóng tháng chờ, Cứ chiều chiều ra sông mà gánh nước, Nên ngày ngày cùng bạn bè trên chốt Anh lại xuống sông Hồng cho thỏa lòng em mong. Em ở phương xa, nghe đài báo gió mùa Đông Bắc, Em thương anh nơi chiến hào gặp rét. Mà em thương anh… chiều nay đang đứng gác, Lo canh giữ đất trời, áo ấm có lạnh không, Hỡi anh yêu, người chiến sĩ biên thùy? Có gì đâu tấm lòng người chiến sĩ, Có tình yêu (bốn mùa sưởi ấm) (Dù gió mưa), (dù mùa đông), (Vì rằng em) luôn ở bên anh (2)

2. Em ở phương xa, nơi con sông Hồng chảy về với biển, Ở trên anh đầu nguồn biên giới, cuối dòng sông nơi ấy quê nhà. Em ở phương xa, cách mười sông ba núi bốn đèo, Cứ chiều chiều ra sông mà gánh nước Đem lòng mình gửi về miền biên giới. Sao chẳng nói nên lời nhưng nặng tình yêu thương. Anh ở biên cương sương lạnh giá biết mùa đông tới. Nơi quê hương em bước vào vụ mới. Rằng anh thương em, đồng quê chưa cấy hết, Tay em ngập dưới bùn, lúa cấy thẳng hàng không, Hỡi em yêu ở cuối sông Hồng? Thấy dòng sông sóng ngầu lên sắc đỏ Biết là anh nhớ về em đó (Là chiến công), (là niềm tin), Là tình yêu em gửi cho anh. Anh gửi cho em Em gửi cho anh Anh gửi cho em Là tình yêu… ta gửi… cho nhau…

Theo nhà thơ Dương Soái, mới đầu nhạc sĩ Thuận Yến viết Gửi em ở cuối sông Hồng đơn ca theo bài thơ gốc của Dương Soái. Nhưng NSƯT Thanh Hương, vợ nhạc sĩ Thuận Yến đã khuyên ông nên viết song ca cho ca sĩ có “đất” để giao lưu và Thuận Yến đã biến Gửi em ở cuối sông Hồng thành bài song ca nam nữ 2/3 gồm lời 1, lời 2 như hiện nay.

Năm 1999, nhân kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam, ca khúc Gửi em ở cuối sông Hồng đã được Bộ tư lệnh Biên phòng trao giải thưởng Bài hát được các chiến sĩ bộ đội biên phòng bình chọn là hay nhất. Trước đó, năm 1994, bài hát đã được tặng Giải thưởng Bộ Quốc phòng.

Nhạc sĩ – Đại tá Thuận Yến tên thật là Đoàn Hữu Công, sinh ngày 15-8-1932, tại Quảng Nam, mất ngày 24-5-2014 tại Hà Nội. Ông nhập ngũ năm 1953, tham gia chiến đấu tại mặt trận Bắc Tây Nguyên. Tại đây, ông đã viết những ca khúc đầu tay như “Hò dân công” hay “Thi đua sản xuất”. Năm 1961, ông được cử ra Bắc học tại Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Năm 1965, ông xung phong đi chiến trường B cùng với Đoàn Văn công Quân Giải phóng Trị Thiên. Ông quyết định chọn bút danh Thuận Yên, ghép từ các chữ Duy Thuận (quê cha) và Duy Yên (quê mẹ). Khi gửi tác phẩm về Hà Nội, phát thanh viên của Đài Tiếng nói Việt Nam đọc là Thuận Yến. Thế là thành bút danh Thuận Yến! Ông từng giữ cương vị Trưởng đoàn Văn công Quân khu 2, Trưởng đoàn Văn công Tổng cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng), Trưởng ban Âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam…

Nhạc sĩ Thuận Yến đã sáng tác chừng 500 bài hát, trong đó có nhiều ca khúc nổi tiếng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước; đặc biệt là những ca khúc viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về những người mẹ, về những người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam như: Vầng trăng Ba Đình (Giải nhất ca khúc của Bộ Văn hóa năm 1987), Gửi em ở cuối sông Hồng, Màu hoa đỏ (Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm 1994), Chia tay hoàng hôn (Giải bài hát được nhiều người ưa thích năm 1992-1993 của Đài Tiếng nói Việt Nam); Bác Hồ một tình yêu bao la, Người về thăm quê, Miền Trung nhớ Bác, Con gái mẹ đã thành chiến sĩ… (Giải thưởng Nhà nước về Văn học-Nghệ thuật năm 2001).

Với những ca khúc vượt thời gian và “đi cùng năm tháng” cùng những cống hiến lớn trong hoạt động âm nhạc suốt cả cuộc đời, nhạc sĩ-Đại tá Thuận Yến đã vinh dự được Chủ tịch nước truy tặng phần thưởng cao quý: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học-Nghệ thuật đợt 5 (2016).

NGÔ VĨNH BÌNH

Cuối Cùng , Dương Văn Hiếu Lên Tiếng

Sự tịnh khẩu từ 1963 cho đến nay của ông Dương Văn Hiếu, nguyên Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung thời Đệ nhứt Cộng hoà Việt Nam, là một cuộc hành trình xuyên sa mạc dài trên bốn thập niên. Tác giả bài này đã liên lạc lại được với ông Hiếu hiện định cư tại San Jose, California. ” Con người biết quá nhiều, L’homme qui en savait trop ” và từng bị gán biệt danh “Hùm Xám của Chế độ” đã chấp nhận trả lời nhiều câu hỏi của chúng tôi liên hệ đến một giai đoạn chính trị cực kỳ sôi động trong cuộc chiến tranh tình báo chống Bắc Việt từ 1954 cho đến tháng 11.1963. Sau vụ đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông Hiếu bị Hội đồng Quân Dân Cách mạng điều tra, đưa ra Côn đảo với một số nhân vật khác của Chính phủ củ và được trả tự do năm 1964.

Đêm 28.4.1975, ông rời Việt Nam với đứa con trai đầu lòng trên một chiếc tàu Hải quân VN cùng với Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám đốc Công An. Năm 1989, gia đình gồm có vợ và tám người con sau qua đoàn tụ với ông tại Hoa kỳ.

LLT: Xin ông vui lòng cho biết sơ lược, nếu được, những năm niên thiếu của ông và trường hợp nào ông tham gia ngành công an và được bổ nhiệm vào chức vụ Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐMT). Chức vụ chót của ông trước trước cuộc đảo chính 1.11.1963 là gì ? DVH : Tôi sanh ra tại Hà Nam, Bắc Việt, trong một gia đình trung lưu làm ăn thành công. Tôi học tại trường trung học Louis Pasteur và Thăng Long, Hà Nội. Vừa lấy xong bằng diplôme d’Eùtudes primaires supérieures vào năm 1944-1945 thì Nhựt đảo chính Pháp. Tôi lập gia đình năm 1948, bố vợ tôi là bác sĩ Nguyễn Văn Tam từng phục vụ trong Liên khu 5 và cộng tác với Đức cha Lê Hữu Từ ở Phát Diệm. Sau Hiệp định Genève năm 1954, tôi được cụ Võ Như Nguyện, Giám đốc Công an Trung Phần, để ý trong một buổi học tập chính trị mà tôi là thuyết trình viên (về đề tài Điện Biên Phủ). Ông tuyển tôi vào ngành công an. Giữa 1957, tôi giữ chức Trưởng ban Khai thác Nha CA-CS Trung nguyên Trung phần. Khi ông Nguyễn Chữ, một lãnh tụ Quốc Dân Đảng, thay thế cụ Nguyện, tôi trở thành Trưởng ty Công an Tỉnh Thừa Thiên và Đô thị Huế. Nhờ phá vỡ được trong vòng hai năm hệ thống điệp báo Cộng sản Khu 5 và mở rộng hoạt động ra đến các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngải, Bình Thuận, Qui Nhơn..v..v.., tôi được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đình Cẩn và Đại biểu Chính phủ Miền Trung Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt tình với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Giữa 1957, tôi được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐBMT) để làm việc tại Sàigòn vào đầu năm 1958. Chủ đích của Đoàn là thi hành chính sách của Cố vấn Ngô Đình Cẩn mệnh danh ” Chiêu mời (sau đổi thành Cải tạo) và Xử dụng các cán bộ cựu kháng chiến “. Lúc đó tôi đã gia nhập đảng Cần Lao. Sau vụ đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Quang Đán ngày 11.11.1960, tôi làm Phụ tá cho Tổng Giám đốc Công an Nguyễn Văn Y, còn ông Nguyễn Văn Hay thì giữ chức Phó Tổng giám đốc Công an.(Vợ ông Hay là một người em bà con của tướng Dương Văn Minh)

LLT: Có phải cùng một lúc, ba sĩ quan Cần Lao Nguyễn Văn Châu, Phạm Thư Đường và Lê Quang Tung cũng được đưa vào Nam. Châu trong chức Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý, Bộ Quốc phòng; Đường, Phụ tá cho Trần Kim Tuyến, Sở Nghiên Cứu Xã hội Chính trị (SNCCTXH); và Tung, cầm đầu Lực lượng Đặc biệt? Ngoài ra, còn có Phan Ngọc Các, hoạt động cho cánh Cần Lao Ngô Đình Cẩn. Đoàn CTĐBMT đặt trụ sở tại đâu? có bao nhiêu nhân viên? chi phí họat động do cơ quan nào trang trải?

DVH: ĐCTĐBMT có trách vụ lo về tình báo chiến lược và phản gián, không liên hệ đến ba sĩ quan vừa kể và Phan Ngọc Các. Trụ sở của Đoàn đặt tại trại Lê Văn Duyệt, Sàigòn, gần Quân khu Thủ đô. Dưới quyền tôi, có tám nhân viên và hai thơ ký đánh máy. Chi phí hoạt động (lương bổng, đồ ăn, feuille de route.v.v…) do Phòng Hành Chính của Phụ tá Nguyễn Thành tại Tổng Nha Công an cấp vì trên giấy tờ, tôi và các nhân viên được coi như vẫn thuộc Ty Công an Thừa Thiên. Đôi khi Đoàn cũng nhận được sự trợ giúp của Chánh Văn Phòng Đặc Biệt Võ Văn Hải, với tiền lấy từ Quỹ đen của Tổng thống. Số tiền này không hệ trọng, chỉ có tính cách nâng đỡ tinh thần. Riêng cá nhân tôi không được cấp một nhà chức vụ. Tôi có mua một công xá gần nhà bí thơ Trần Sử ở khu Công Lý, Sàigòn. Đoàn không nhận một ngân khoản nào đến từ ông Ngô Đình Cẩn.

LLT: Xin ông cho biết vài chi tiết hệ trọng trong hồ sơ Vũ Ngọc Nha (từng tự xưng là cố vấn của TT Diệm) và Huỳnh Văn Trọng (cố vấn của Tổng thống Thiệu)

DVH : Nhạ không bao giờ làm cố vấn cho TT Diệm. ĐCTĐBMT đã bắt y thời Đệ nhứt Cộng Hòa như một cán bộ CS tép riu, một tiểu công chức tại Bộ Công Chánh. Nhạ mang nhiều tên khác: Vũ Đình Long, Hai Long, Ông Giáo, Thầy Bốn..v..v.. Còn Trọng thì bị dính trong vu mệnh danh ” Gián điệp Pháp ở Nhà hàng Morin Huế “. Y đã trốn thoát qua Nam Vang. Sau 1963,trở về Sàigòn, y được Nhạ bố trí vào Dinh Độc lập. Chính Tổng trưởng Nội vụ Hà Thúc Ký đã thả Nhạ sau 1963. Nhạ tái hoạt động với cụm tình báo A 22 trong đó có Trọng và Lê Hữu Thúy tự Thắng. Linh mục Hoàng Quỳnh giới thiệu Nhạ cho Trần Ngọc Nhuận, cha sở nhà thờ Phú Nhuận, bạn thân của vợ chồng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

LLT: ĐCTĐBMT có xử dụng “hầm” P42 – được báo giới ngoại quốc mô tả là ” địa ngục trần gian”- để tra vấn các tù nhân hay không ?

DVH: P42 là một biệt thự thuộc Bộ Canh nông nằm bên trong Sở Thú, Jardin botanique Sàigòn, dùng để nhốt một số can phạm chính trị đặc biệt. Đoàn chúng tôi không xử dụng vì có trại Lê Văn Duyệt rồi.

LLT: Trong công tác, ông phúc trình cho ai? Tổng thống? Ông Nhu hay ông Cẩn? Ông có trao đổi tin tức, tài liệu gì với cơ quan CIA hay không? Mối giao hảo công vụ giữa ĐCTĐBMT và Tổng Nha Công An, Sở NCXHCT của Trần Kim Tuyến, Tổng Nha An ninh Bộ Quốc phòng (Đỗ Mậu) và Lê Quang Tung ra sao?

DVH: Tôi làm việc gần ông Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng cần hỏi thêm, Tổng thống gọi tôi vào Dinh. Tôi chỉ gởi bản sao một vài phúc trình cho ông Cẩn. Trong những ngày cuối cùng trước đảo chính 1963, tôi bị ông Cẩn hiểu lầm “nhức đầu”. Ông Nguyễn Văn Minh, bí thơ ông Cẩn, và Trung tá Phạm Thư Đường, chánh văn phòng Cố vấn Nhu cũng ở trong hoàn cảnh đó. Tôi không bao giờ liên lạc với CIA. Tuy nhiên, sau vụ đảo chính 1.11.1963, bị Cách Mạng giam tại Chí Hoà, tôi mới được biết rằng tên Phan Khanh, phụ tá cho tôi, chiụ trách nhiệm về operations, được CIA móc nối. Khanh do ông Cẩn giới thiệu với tôi “vì biết võ”. Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám đốc Công An cũng như Trần Kim Tuyến (SNCCTXH), Lê Quang Tung (Lực lượng Đặc biệt) và Đổ Mậu (An ninh Quân đội) không ưa tôi. Vợ ông Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và bà Thiếu tướng Nguyễn Văn Là (tiền nhiệm ông Y tại Công An) đều không thích bà Tuyến vì tranh dành địa vị bên cạnh bà Nhu nên ảnh hưởng đến các ông chồng. Tôi tránh xen vào mê hồn trận này. Riêng về Đỗ Mậu, ông hận tôi vì ĐCTĐBMT đã phát hiện và bắt Thiếu úy Lê Hữu Thúy, một điệp viên VC được ông đặt làm Trưởng phòng An ninh tại Nha An ninh Quân đội.

LLT: Phương pháp làm việc của ĐCTĐBMT có gì mới lạ? Hiệu quả công tác của Đoàn ra sao? Phản ứng của phiá CS Bắc Việt như thế nào?

LLT: Vì sao (Nha sĩ dỏm và Play boy) Phan Ngọc Các, đại diện Cần Lao cho ông N Đ Cẩn tại Miền Nam, bị bắt? Ai bắt?

DVH: Cố vấn Nhu ra lệnh cho Lê Quang Tung bắt vì Các làm tiền thương gia Hoa kiều Chợ Lớn, Các tuyển nạp đảng viên Cần Lao lung tung. Ông Cẩn rất bất mãn về chuyện Các bị bắt và bảo tôi thưa lại với ông Nhu phóng thích Các. Tung là người của ông Cẩn.Tôi có cảm nghĩ Tung và Tuyến theo dõi tôi còn (Nguyễn Văn Y) thì đố kỵ tôi.

LLT: Thái Trắng (tức Lê Văn Thái, qua đời tại San Diego) và Thái Đen (tức Nguyễn Như Thái, biệt danh Đại tá Thanh Tùng) có làm việc cho ông hay không?

DVH: Chỉ có Thái Đen cộng tác với tôi. Thái Trắng làm việc với Tuyến, y là bà con vợ trước (Đặng Tuyết Mai) của Nguyễn Cao Kỳ. Không biết tại sao Thái Đen lại mang biêt danh “Đại tá Thanh Tùng” vì y không bao giờ có chân trong Quân đôi hay đồng hoá sĩ quan. Y phụ tá cho tôi về mặt hành chính, bị Toà lên án khổ sai chung thân, bị đưa ra Côn đảo về tội “bắt người trái phép” và được thả ra trước tôi. Thời Đệ nhị Cộng Hoà, hình như Nguyễn Ngọc Loan có xử dụng đương sự.

LLT: Ông có thể cho biết tên và chức vụ của vài cán bộ cao cấp Việt Cộng bị ĐCTĐBMT bắt giữ?

DVH: Có thể cho biết hai tên: A -Trần Quốc Hương tự Mười Hương, Ủy viên Trung ương Đảng, người chỉ huy màng lưới Tình báo Chiến lược của Hà Nội tại Miền Nam. Y bị bắt lối năm 1958. Chính tôi đã đưa Hương ra Huế gặp bí mật hai ông Nhu và Cẩn ở Thuận An, trên một chuyến máy bay đặc biệt do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ lái. Hương được Hội đồng Cách Mạng trả tự do tháng 5.1964. b- Đại tá Cộng Sản Lê Câu đã giúp tôi khám phá ra Phạm Bá Lương, Công cán Uûy viên của Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẩu. Lương ăn trộm và chuyển cho Hà Nội toàn bản chính kế hoạch kinh tế Staley-Vũ Quốc Thúc.Tôi gài bẫy bắt Lương khi y lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhứt để đi Thái Lan vì công vụ. Ông Mẩu không hay biết lý do.

LLT: Ông biết gì về đại tá Phạm Ngọc Thảo?

DVH: Trong phạm vi trách nhiệm phản gián, tôi có theo dõi Phạm Ngọc Thảo. Tôi biết Thảo được Đức cha Thục giới thiệu vào Bảo An và Thảo có liên hệ chính trị với bác sỉ Tuyến trong những năm tháng chót trước cuộc binh biến 1.11.1963. Hình như Thảo có trình với Tổng thống Diệm rằng Đoàn Công tác của chúng tôi bám sát y. Tôi có dịp thưa với Tổng thống nên lưu ý đến Thảo vì Thảo có bà con làm việc cho Bắc Việt trong chức vụ hệ trọng. Tổng thống có vẻ suy tư và nói: tại sao không khai thác kinh nghiệm của Thảo trong lãnh vực ấp chiến lược và khu trù mật?

LLT: Khi xảy ra những biến động Phật giáo tại Huế năm 1963 thì ông ở đâu? Có trách vụ gì? Xin cho biết vài ý kiến về cuộc khủng hoảng Phật giáo.

DVH: Lúc đó tôi công tác ở Sàigòn, tôi không liên hệ trực tiếp đến vụ Phật giáo. Tôi nhớ: Một hôm tôi vào trình việc trong Dinh (Độc Lập), Tổng thống than phiên rằng cụ vưà kinh lý khu Dinh điền Vị Thanh về, đi ngang một ngôi chùa, thấy cờ Phật giáo treo trên cột cao giữa sân chuà, còn Quốc kỳ thì bắng giấy, nhỏ cở bàn tay, dán trên trụ cột ngoài cổng, không ra thể thống gì cả. Khi về, Tổng thống có mời Đức Khâm Mạng Toà Thánh và ông Mai Thọ Truyền (một trong hai Phó Hội chủ Tổng Hội Phất giáo) vô cho biết tình trạng và yêu cầu lưu ý các giáo dân phải tôn trọng Quốc kỳ theo thể thức được Chính phủ quy định. Hai vị vừa kể hứa lưu ý giáo dân. Sau đó Tổng thống có ra lệnh miệng cho ông Đổng lý Văn phòng Quách Tòng Đức gởi công điện nhắc các Tỉnh. Không biết vì sao ông Đức để đến ngày chót trước Lễ Phật Đản 8.5.1963 mới gởi công điện. Tổng thống có kêu ông Đức vô hỏi, ông Đức xin từ chức, Tổng thống nói: công chuyện đổ bể như thế, xin thôi có ích chi? Ngoài ra, lúc bị giam chung với tôi sau ngày 1.11.1963, Thiếu tá Đặng Sĩ, Tiểu khu trưởng kiêm Phó Tỉnh trưởng Thưà Thiên, nói với tôi rằng ông bị oan vì được Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đoàn 1, Vùng 1 Chiến thuật, cho phép ông chiều ngày 8.5.1963, trước Đài Phát thanh Huế, dùng lưụ đạn hơi để giải tán biểu tình. Không biết “bàn tay bí mật” nào đã vung một trái lưu đạn chiến đấu gây thiệt mạng cho 8 em bé và thương tích cho nhiều người khác. Sĩ bị Toà phạt khổ sai chung thân. Thượng tọa Trí Quang, làm việc cho CS, đóng vai trò hàng đầu trong vụ Phật giáo, lợi dụng mối giao hảo tốt với Cố vấn Cẩn. Sau 1975, tướng Nghiêm không bị làm khó vì đi đêm với Bắc Việt từ trước. Cũng như bác sĩ Lê Khắc Quyến, giám đốc Bênh viện Huế. Tổng giám mục Ngô Đình Thục hành động nóng nảy, Cố vấn Cẩn bị bó tay.

LLT:Chuyện gì đã xảy ra cho Ông sau ngày đảo chính 1.11.1963 ?

DVH: Tôi bị bắt cùng với hai phụ tá là Nguyễn Tư Thái (tức Thái Đen} và Phan Khanh. Ủy ban Điều tra tội ác – do một chính khách Hoà Hảo chủ tọa – thẩm vấn tôi về những tố cáo làm tiền, bắt người và thủ tiêu đối lập. Tôi còn nhớ bà góa phụ Đinh Xuân Quảng, vợ của một cựu Bộ trưởng thời Bảo Đại, thưa tôi đã tra khảo bà. Không có bằng chứng cụ thể. Tại Tổng Nha Công an, Tống Đình Bắc thay tôi. Y và Trần Bá Thành nắm trong tay nhật ký memories của tôi. Thành nằm vùng cho CS. Nếu tôi có giết bất cứ ai thì chắc chắn Tướng (Mai Hữu) Xuân đã “làm thịt” tôi rồi. Chính y cũng đã nói với tôi như vậy. Tuy nhiên, Toà án Cách mạng, do một Thẩm phán dân sự chủ toạ, (trong đó đại tá Dương Hiếu Nghĩa là một thành viên), đã xử tôi khổ sai chung thân về tội “bắt người trái phép”. Trong vụ tảo thanh các chùa Phật ở Sàigòn, chính Cảnh sát Đô thành của Giám đốc Trần Văn Tư đã bắt các sư sải. Đoàn CTĐBMT đâu có nhân viên để làm chuyện đó. Trong các phiên xử khác, Tòa phạt từ tù đến khổ sai các ông Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y, Trần Văn Tư, Hà Như Chi, Nguyễn Lương, Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỹ, Bùi Dzinh…v…v… Vợ tôi đã phải bán đôi bông tai 80.000 đồng và vay một số tiền khác để trả thù lao 100.000 đồng cho luật sư Vương Văn Bắc.

LLT: Trong trường hợp nào ông và các nhân vật chế độ cũ được tự do? Vì sao? Riêng về ông, sau đó, có bị nhà chức trách làm khó dễ gì hay không?

LLT: Một số nhân vật đối kháng như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp và Vũ Tam Anh bị Đệ nhứt Cộng hoà thủ tiêu. Ông có thể cho biết cơ quan nào chiụ trách nhiệm? Do lệnh của ai?

DVH: ĐCTĐBMT không liên hệ. Chúng tôi không có trách nhiệm truy nã các phần tử đối lập. Sau 1975, một số sử liệu cho biết chính thẩm sát viên Khưu Văn Hai và đồng bọn trong Ban Cảnh sát Đặc biệt thuộc Tổng Nha Công An của đại tá Y đã giết N B Toàn và T C Diệp. Về Vũ Tam Anh, có thể là do tổ chức của Lê Quang Tung. Tôi không nghĩ Tổng thống Diệm đã ra lệnh vì ông đã từ chối đưa ra Toà Hà Minh Trí là người ám sát hụt ông ở Ban Mê Thuột và ông cũng đã nhẹ tay với phi công Phạm Phú Quốc, người dội bom Dinh Độc Lập với Nguyễn Văn Cử.

LLT: Ông biết gì về sự bội phản của Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần và Trần Kim Tuyến.

DVH: Tôi nhớ có lần tôi phúc trình với Tổng thống tin đồn về Huê kiều Chợ Lớn mua licenses tại Bộ Kinh tế, Cụ nghe, trầm ngâm, không nói gì. Qua ông Thuần, CIA nắm hết tin tức về nội tình Chính phủ. Cụ có vẻ rất mến và tin tưởng ông Thuần. Về Bs Tuyến thì vào cuối 1962, ông Tuyến hoàn toàn thất sủng, không còn quyền gì, thay thế bởi đại tá Phạm Thư Đường. Bà Nhu rất ghét ông bà Tuyến.

LLT: Ông nghĩ sao về tin ông Nhu có qua Paris điều đình với De Gaulle về chuyện trung lập hoá Việt Nam và gặp Xứ ủy Miền Nam, Ủy viên Bộ chính trị Bắc Việt Phạm Hùng tại rừng Tánh Linh, Long Khánh, để thương thuyết?

DVH: Tôi có nghe những tin ấy. Cá nhân tôi nghĩ chỉ đó là tin đồn. Một người quốc gia quyết liệt như Tổng thống Diệm không thể bắt tay với Cộng sản bất luận dưới hình thức nào vì Hiến pháp VN công khai phủ nhận Xã hội Chủ nghĩa và đặc biệt, vì Cộng sản đã giết dã man anh và cháu của Tổng thống. Đòn hiệp thương Nam-Bắc do ông Cố vấn Nhu tung ra có thể là một cách bắt bí Hoa kỳ. Không ngờ CIA đã biết rỏ nội vụ.Ông Nhu đã chui vảo cái bẩy do chính ông giăng ra.

LLT: Nhìn lui lại, ông nghĩ rằng thời Đệ nhứt Cộng hoà, đảng Cần Lao có thực lực trong quần chúng hay không? Việc đem tổ chức Cần lao vào Quân đội có lợi hay hại? Ông Nhu và ông Cẩn có hoàn toàn đồng ý với nhau về cách tổ chức và lãnh đạo đảng Cần Lao hay không?

DVH: Về mặt lý thuyết, Cần Lao dựa vào chủ nghĩa Nhân vị được ông cố vấn Ngô Đình Nhu nghiên cứu kỷ. Đảng Cần Lao, tiếc thay, thiếu một chính sách tuyển lựa, huấn luyện và xử dụng cán bộ hữu hiệu. Ngoài ra, còn vấn đề kỷ luật. Đa số đảng viên được chọn trong thành phần công chức có quyền và địa vị. Đảng không đi sâu vào đại chúng ở thành thị, đặc biệt ở nông thôn. Các khoá tu nghiệp về chủ thuyết Nhân vị do Đức cha Ngô Đình Thục tổ chức tại Vĩnh Long không đào sâu và giải quyết vấn đề. Tôi có dịp thuyết trình về đề tài này trong một phiên học tập về Ấp Chiến lược ở Suối Lồ Ồ năm 1962. Sau đó, tôi có thỉnh cầu ông Nhu, với tư cách Tổng Bí thơ Cần Lao, ban huấn lệnh nhưng không thấy ông nói gì. Câu chuyện bỏ qua! Ông Cẩn ít nặng về lý thuyết hơn ông Nhu. Ông Cẩn có vẻ chú trọng hơn về vấn đề cán bộ, thực tế hơn. Trong nội bộ Cần Lao cũng có nhiều nhóm: nhóm Bắc, nhóm Trung (của ông Cẩn), nhóm Trần Quốc Bửu (Tổng Liên Đoàn Lao Công), nhóm Tinh Thần (Nguyễn Tăng Nguyên), nhóm Nam kỳ Bộ (Huỳnh Văn Lang), nhóm Hà Đức Minh-Trần Văn Trai.. Không thống nhứt. Ít khi thấy Tổng thống nhắc đến đảng Cần Lao. Tổng thống đểå ý đến Phong trào Cách Mạng Quốc gia. Cân Lao không có Ban Chấp hành Trung ương. Chỉ có Văn phòng Tổng Bí Thứ (ông Nhu) gồm có 5 Phòng trực thuộc. Tôi không nghĩ đem Cân Lao vào Quân đội hoàn toàn có lợi. Các tướng lãnh đóng vai trò cốt cán trong cuộc chính biến 1.11.1963 phần đông là đảng viên Cần Lao được Tổng thống tin dùng và bị Hoa kỳ mua chuộc.

LLT: Về mặt tình báo, ĐCTĐBMT của ông, SNGCTXH của Tuyến, LLĐB của Lê Quang Tung và Nha An ninh Quân đội của Đổ Mậu có dẩm chân với nhau hay không? Ông biết gì về giấc mơ của Trần Kim Tuyến – sau 1960 – cầm đầu một Bộ An Ninh thống nhất về một mối các cơ quan cảnh sát, tình báo chiến lược và phản gián quốc nộâi và quốc ngoại (gồm luôn Bộ Nội vụ)? Vì Tổng thống Diệm từ chối đề nghị này nên ông Tuyến bất mản và làm phản.

DVH: Tôi nghĩ: không trùng dụng, không dẫm chân. Đoàn Công tác của chúng tôi, thật vậy, lo về phản gián, chống Cộng. Sở ông Tuyến chú trọng đến vấn đề tình báo nội an, đối lập trong xứ. Cơ quan của Đổ Mậu phụ trách những gì liên hệ đến an ninh của Quân đội còn Lực lượng của Tung, gồm có một Trung đoàn, thì có trách vụ bảo vệ Tổng thống và các công thự. Tuy nhiên, trong những năm chót, Tung vượt quá quyền hạn của mình. Các cơ quan không phối hợp chặt chẻ. Tôi không biết gì về vấn đề Bộ An ninh nêu trên. Trong giai đọan chót, Tổng thống, Đức Cha và hai ông Nhu, Cẩn không đồng nhứt tư tưởng, đặc biệt trong vụ khủng hoảng Phật giáo. Tổng Giám mục Thục xen vào việc treo cờ càng làm tình hình thêm rối ben. Mỹ quyết tâm lật đổ ông Diệm, thủ tiêu ông Nhu. Vì thế cuộc binh biến thành công. Đất nước phiêu lưu vào hỗn loạn.

Em Hãy Tóm Tắt Và Soạn Thảo Văn Bản Chiếc Lá Cuối Cùng

+ Tóm tắt:

– Khi cụ Bơ-men và Xiu lên thăm thì Giôn-xi đang ngủ, hai người sợ sệt nhìn ra cây thường xuân. Nhưng sáng hôm sau, qua một đêm mưa gió phũ phàng, Giôn-xi vẫn nhìn thấy chiếc lá thường xuân bám trên tường gạch. Rồi sáng hôm sau nữa, chiếc lá vẫn còn đó, Giôn-xi thấy mình thật đáng trách khi nghĩ đến cái chết. Giôn-xi ngồi dậy xem cô nấu nướng và nghĩ rằng”muốn chết là có tội”. Ngày hôm sau nữa, khi Giôn-xi đã bình phục, Xiu mới cho cô biết cụ Bơ-men đã chết vì bệnh viêm phổi. Cụ đã bị nhiễm lạnh trong đêm vẽ chiếc lá thường xuân trên bức tường. Xiu nói: “chiếc lá đó là một kiệt tác của cụ Bơ-men”.

+ Câu hỏi

1: Tấm lòng yêu thươn và hành động cao cả của cụ Bơ-men.

– Nghe tin Giôn-xi chán nản, không muốn sống, cụ lặng lẽ lên phòng ngắm nhìn Gioon-xi rồi sợ sệt nhìn cây thường xuân bởi cụ nghĩ rằng, chiếc lá ấy sẽ không qua khỏi mùa đông khắc nghiệt.

– Cụ nghĩ phải vẽ một chiếc lá thường xuân thay cho chiếc lá sẽ rụng( yêu thương giôn-xi như con)

– Nếu nhà văn kể sự việc cụ đã vẽ chiếc lá trên tường thì truyện sẽ kém hấp dẫn

– Chiếc lá cuối cùng là một kiệt tác:

+ Chiếc lá được vẽ giống y như thật

+ Đã cứu sống một con người

+ Người nghệ sĩ vì mục đích cao cả mà sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời của chính mình.

+ Chiếc lá là kết tinh của tình yêu thương, của đức hy sinh.

2: Những chi tiết:

– Xiu kéo rèm lên một cách chán nản

– Khi thấy chiếc lá vẫn còn đó, không chỉ Giôn-xi mà Xiu cũng thấy bất ngờ

– Nếu xiu biết trước thì câu chuyện mất hay vì không tạo ra sự bất ngờ và thú vị cho người đọc

3,

– Chiếc lá cuối cùng đã đem lại niếm tin cho Giôn-xi bởi chính tình yêu thương và đức hy sinh của cụ Bơ-men. Điều đó đã khơi dậy trong Giôn-xi ngọn lửa tình đời đã gần vụt tắt. Nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là nghị lực tuyệt vời của Giôn-xi. Nghị lực ấy đã giúp cô chiến thắng bệnh tật.

– Nhà văn kết thúc chuyện bằng lời kể của Xiu mà không đẻ Giôn-xi phản ứng gì thêm tác giả muốn để lại dư âm, suy nghĩ cho người đọc

4, Kết thúc bất ngờ:

– Đảo ngược tình huống hai lần

+ Lần 1:

– Chiếc lá thường xuân cuối cùng không rụng, Giôn-xi tưởng không sống được mà lại bình phục

+ Lần 2

– Cụ Bơ-men đang sống thì cuối cùng lại chết

chúng tôi

Cập nhật thông tin chi tiết về Dương Soái Và “Gửi Em Ở Cuối Sông Hồng”… trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!