Xu Hướng 3/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 53: Văn Học Chí Phèo Nam Cao (Phần Hai: Tác Phẩm) # Top 10 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 53: Văn Học Chí Phèo Nam Cao (Phần Hai: Tác Phẩm) # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 53: Văn Học Chí Phèo Nam Cao (Phần Hai: Tác Phẩm) được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

CHÍ PHÈO Nam Cao (Phần hai: Tác phẩm) A. Mục tiêu bài học: Giúp học sinh 1. Về kiến thức – Hiểu được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của tác phẩm qua việc phân tích nhân vật Chí Phèo. 2. Về kĩ năng – Rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. – Rèn luyện kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự. 3. Về thái độ – Phê phán xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với đầy rẫy những bất công, tàn bạo. – Bồi dưỡng tinh thần nhân đạo, biết yêu thương và trân trọng nhân vật Chí Phèo nói riêng và người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ nói chung. B. Phương tiện dạy học 1. Giáo viên – Bài soạn, sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn lớp 11, tập 1. – Trích đoạn phim, tranh ảnh trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy 2. Học sinh – Vở soạn, sách giáo khoa, vở ghi và bảng phụ. – Chuẩn bị tư liệu cho bài học. C. Tiến trình lên lớp 1. Ổn định lớp 2. Kiểm tra bài cũ – Giáo viên hỏi: Trình bày ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Nam Cao? – Học sinh trả lời – GV nhận xét, cho điểm HS. 3. Bài mới * Lời vào bài Mặc dù có những sáng tác đăng báo từ 1936 nhưng phải đến Chí Phèo Nam Cao mới thực sự nổi tiếng trên văn đàn. Trước Nam Cao đã có những nhà văn thành công khi viết về đề tài nông dân như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và cũng có những tác phẩm hấp dẫn viết về đề tài lưu manh hóa như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, đây thực sự là thử thách lớn với những cây bút đến sau, trong đó có Nam Cao. Bằng ý thức “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” và bằng tài năng nghệ thật độc đáo của mình của mình, Nam Cao đã vượt qua thử thách và khiến cho Chí Phèo trở thành kiệt tác trong văn xuôi việt Nam hiện đại. * Nội dung bài mới HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ NỘI DUNG CẦN ĐẠT Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu thông tin về ngữ cảnh của văn bản – Truyện ngắn Chí Phèo được Nam Cao sáng tác trong hoàn cảnh nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – Văn bản Chí Phèo thuộc thể loại nào? Nêu những hiểu biết của em về thể loại đó? – Học sinh hoạt động độc lập trả lời – Giáo viên giảng I. Đọc – hiểu ngữ cảnh 1. Hoàn cảnh sáng tác – Hoàn cảnh xã hội: Đó là giai đoạn xã hội Việt Nam nửa thực dân nửa phong kiến, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, xã hội đầy rẫy những bất công. – Hoàn cảnh cảm hứng: Dựa vào những việc thật, người thật ở làng quê Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám. 2. Thể loại – Văn bản Chí Phèo thuộc loại tự sự, thể truyện ngắn. – Đặc trưng của thể loại truyện thể hiện qua ba yếu tố cơ bản là cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ. – Đọc – hiểu thể loại truyện có thể: + Đọc theo lời kể + Đọc theo cốt truyện + Đọc theo nhân vật Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu cấu trúc ngôn từ của văn bản – Giáo viên gọi hai học sinh đọc đoạn mở đầu và đoạn tâm trạng Chí vào buổi sáng sau khi gặp thị Nở. – HV đọc – GV gọi học sinh đọc phần chú thích cuối trang – HS đọc – Xuất xứ của truyện ngắn Chí Phèo? Truyện ngắn Chí Phèo là sáng tác trước Cách mạng tháng Tám. Nó viết về đề tài gì? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – Ngoài nhan đề là Chí Phèo truyện ngắn này còn có những nhan đề nào khác? Ý nghĩa của những nhan đề đó? – HS hoạt động độc lập trả lời – Gv chốt kiến thức – Văn bản Chí Phèo có thể chia ra thành bao nhiêu phần? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV nhận xét – GV hỏi: Xác định thế giới nhân vật trong truyện ngắn Chí Phèo? Chỉ ra nhân vật trung tâm, nhân vật chính, nhân vật phụ? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Hãy kể lại cốt truyện văn bản Chí Phèo? – HS kể lại – GV nhận xét – GV yêu cầu: Hãy xác định tình huống truyện trong Chí Phèo? – HS HĐĐL trả lời – GV chốt kiến thức II. Đọc – hiểu cấu trúc ngôn từ. 1. Đọc, nhan đề 1.1. Đọc văn bản 1.2. Đọc chú thích 1.3. Xuất xứ và đề tài – Xuất xứ: Chí Phèo được Nam Cao viết năm 1941. – Đề tài: người nông dân nghèo trước Cách mạng. 1.4. Nhan đề Bố cục Bố cục của văn bản Chí Phèo có thể chia thành 7 phần: + Đoạn mở đầu: Chí Phèo say rượu vừa đi vừa chửi. + Cuộc đời Chí Phèo từ khi sinh ra, lúc lớn lên và khi bị đẩy vào tù. + Chí Phèo ra tù và tới nhà bá Kiến gây sự nhưng bị hắn hóa giải + Chí Phèo thành tay sai của bá Kiến … tình cờ Chí gặp thị Nở trong một đêm trăng. + Tâm trạng của Chí sau khi tỉnh rượu, mấy ngày hạnh phúc ngắn ngủi của Chí Phèo và thị Nở. Bị thị Nở từ chối sống chung, Chí Phèo đau khổ, uống rượu và xách dao đi trả thù. + Chí Phèo đâm chết bá Kiến và tự sát + Đoạn kết: Thái độ của mọi người và thị Nở sau cái chết của bá Kiến và Chí Phèo. Nhân vật + Nhân vật trung tâm: Chí Phèo + Nhân vật chính: Chí Phèo, bá Kiến + Nhân vật phụ: bà Ba, lý Cường, bà hàng rượu, bà cô thị Nở,… Cốt truyện, tình huống truyện 4.1. Cốt truyện – Câu chuyện kể về cuộc đời Chí Phèo. Hắn nguyên là một đứa con hoang bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ. – Lớn lên như một cây cỏ dại, hết đi ở cho nhà người này đến đi ở cho nhà khác. Đến năm 20 tuổi Chí làm tá điền cho nhà bá Kiến. Bị bá Kiến ghen và hảm hại Chí phải vào tù. Khi ra tù, Chí trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại, là tay sai đắc lực cho bá Kiến. – Một đêm trăng, Chí Phèo say khướt thì gặp thị Nở. Được sự chăm sóc tận tình của thị Nở, Chí Phèo khao khát muốn làm người lương thiện. Bị bà cô thị Nở ngăn cản, Chí Phèo rơi vào tuyệt vọng, uất ức. Chí đến nhà bá Kiến đòi quyền làm người. Chí Phèo đâm chết bá Kiến rồi tự sát. 4.2. Tình huống * Trong cuộc đời Chí Phèo có ba bước ngoặt – Tình huống đi ở tù (từ người lương thiện thành “con quỷ dữ”) – Tình huống gặp thị Nở (từ “con quỷ dữ” đến sự khát khao trở thành người lương thiện) – Tình huống bị cự tuyệt (sự đau khổ, phẫn uất dẫn đến tự sát) Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu cấu trúc nội dung và nghệ thuật của văn bản – Giáo viên dẫn: Toàn bộ câu chuyện diễn ra ở làng Vũ Đại, đây là không gian nghệ thuật của tác phẩm. – Hình ảnh làng Vũ Đại được miêu tả trong văn bản như thế nào? Trong làng tồn tại những mâu thuẫn gì? – Học sinh độc lập trả lời – Giáo viên chốt kiến thức – GV hỏi: Hình ảnh làng Vũ Đại có ý nghĩa như thế nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV dẫn: Nạn nhân đau khổ nhất ở làng Vũ Đại, nhân vật kết tinh các giá trị đặc sắc trong truyện ngắn là Chí Phèo – GV hỏi: Cuộc đời Chí Phèo có thể chia làm mấy giai đoạn? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức lên bảng phụ – Giáo viên hỏi: Dựa vào phần lược bỏ trong sách giáo khoa và những hồi ức của Chí Phèo khi tỉnh rượu, Nam Cao đã giới thiệu Chí Phèo như thế nào trước khi vào tù? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – Giáo viên đặt câu hỏi: Trước khi vào tù Chí Phèo là con người như thế nào? Tìm các chi tiết thể hiện bản tính của Chí? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV cho HS xem ảnh và chốt kiến thức – GV hỏi: Nguyên nhân nào khiến Chí Phèo phải vào tù? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV gợi dẫn: Mở đầu văn bản, Nam Cao đã cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện thật ấn tượng, như chạm như khắc một con người bằng xương bằng thịt. Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra khỏi trang sách của Nam Cao bằng những tiếng chửi. Giáo viên có thể hỏi học sinh: Vậy Chí Phèo đã chửi những ai? Tiếng chửi ấy cho thấy điều gì ở nhân vật này? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV xem tranh và chốt kiến thức – Nhận xét ngôn ngữ kể truyện của Nam Cao trong đoạn mở đầu? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – Giáo viên có thể dẫn: Sau bảy, tám năm ở nhà tù thực dân, Chí Phèo đã khác trước rất nhiều. – GV hỏi: Ngoại hình của Chí Phèo đã bị biến đổi như thế nào? Các chi tiết nào thể hiện sự biến đổi ấy? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV cho học sinh xem ảnh và chốt kiến thức – Giáo viên hỏi: Sau khi ra tù, Chí Phèo luôn ở trong trạng thái nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – Giáo viên dẫn: Cuộc đời Chí Phèo triền miên trong những cơn say dài, say mãi. Trong cơn say hắn ngật ngưỡng đến nhà bá Kiến. – Giáo viên hỏi: Ngay sau khi ra tù, Chí Phèo tới nhà bá Kiến nhằm mục đích gì? Để thực hiện mục đích đó hắn đã có những hành động gì? – HS HĐĐL trả lời – GV chốt kiến thức – GV giới thiệu qua cho học sinh đoạn này. Giáo viên hỏi: Nếu lần đến đầu tiên Chí Phèo chỉ là tự phát thì lần thứ hai dường như là tự giác. Như vậy Chí Phèo đã trở thành người như thế nào? – HS HĐĐL trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Với dân làng Chí Phèo đã có những hành động nào? Trong con mắt của người dân thì Chí Phèo là ai? – HS HĐĐL trả lời – GV cho xem video trích đoạn phim khi Chí ở quán bà hàng rượu rồi chốt kiến thức – Giáo viên hỏi: Sau khi ra tù, Chí Phèo bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính. Nguyên nhân nào khiến Chí Phèo bị tha hóa như vậy? GV yêu cầu HS hoạt động nhóm trả lời. Hình thức viết lên bảng phụ, thời gian 5 phút. – GV chốt kiến thức – GV đưa ra vấn đề: Có ý kiến cho rằng ; sự tha hóa của Chí Phèo là hiện tượng mang tính quy luật. Ý kiến của em? – HS HĐĐL trả lời – GV diễn giảng III. Đọc – hiểu cấu trúc nội dung và nghệ thuật 1. Nội dung 1.1. Hình ảnh làng Vũ Đại + Dân không quá hai nghìn, xa phủ, xa tỉnh. + Trong làng tồn tại nhiều mâu thuẫn . Mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị, tranh giành quyền lực với nhau. . Tuy nhiên, chúng lại cấu kết với nhau để nhằm bóc lột, vơ vét tận cùng xương máu của nhân dân lao khổ. 1.2. Nhân vật Chí Phèo Có thể chia cuộc đời Chí thành ba giai đoạn + Giai đoạn thứ nhất: Từ khi Chí Phèo ra đời đến lúc bị đẩy vào tù + Giai đoạn hai: Từ khi Chí Phèo ra tù tới khi gặp thị Nở + Giai đoạn ba: Từ khi bị thị Nở khước từ tới khi Chí đâm chết bá Kiến và tự sát. 1.2.1. Quá trình tha hóa * Trước khi vào tù – Lai lịch: Là một đứa trẻ vô thừa nhận, không biết cha mẹ “Một người đi thả ống lươn nhặt được Chí Phèo trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”. – Tuổi thơ bơ vơ, bất hạnh, hết đi ở cho nhà này đến nhà khác. “Trời run rủi, Chí được một anh thả ống lươn nhặt về nhưng anh ta không nuôi mà cho một bà góa mù. Bà góa mù nuôi không nổi nên bác phó cối. Tuổi thơ bơ vơ, hết đi ở nhà này lại đến nhà khác.” – Lớn lên: Làm canh điền cho nhà bá Kiến – Bản tính: hiền lành, … m qua việc phân tích nhân vật Chí Phèo và bá Kiến. – Thấy được một số nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm 2. Về kĩ năng – Rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại. – Rèn luyện kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm truyện ngắn 3. Về thái độ – Phê phán xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với đầy rẫy những bất công, tàn bạo. – Bồi dưỡng tinh thần nhân đạo, biết yêu thương và trân trọng nhân vật Chí Phèo nói riêng và người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ nói chung. B. Phương tiện dạy học 1. Giáo viên – Bài soạn, sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn lớp 11, tập 1, tranh ảnh, video trích trong bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy 2. Học sinh – Vở soạn, sách giáo khoa, vở ghi và bảng phụ. – Chuẩn bị tư liệu cho bài học. C. Tiến trình lên lớp 1. Ổn định lớp 2. Kiểm tra bài cũ Câu hỏi: Sau khi ra tù, Chí Phèo đã bị tha hóa cả về nhân hình và nhân tính như thế nào? – Hình thức: Gọi học sinh trả lời – GV nhận xét. 2. Bài mới * Lời vào bài Chí Phèo là hình tượng nhân vật khái quát cho hiện tượng tha hóa, lưu manh hóa của một bộ phận nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Bị xã hội đương thời băm vằm bộ mặt người, hủy hoại nhân cách, cứ tưởng Chí Phèo mãi sống kiếp sống của “quỷ dữ” rồi sẽ vùi xác ở đâu đó. Nhưng không, bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để cho Chí về với kiếp sống con người một cách thật tự nhiên. Chí Phèo đã gặp thị Nở, đó là bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí. * Nội dung bài mới HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ NỘI DUNG CẦN ĐẠT Hoạt động 1: Tiếp tục hướng dẫn học sinh đọc – hiểu cấu trúc nội dung và nghệ thuật của văn bản – GV cho xem tranh rồi diễn giảng về thị Nở và cuộc gặp gỡ của Chí Phèo – thị Nở – HS nghe – GV hỏi: Tỉnh dậy sau đêm gặp thị Nở, Chí Phèo có trạng thái, tâm lí như thế nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Sự quan tâm, chia sẻ của thị Nở thể hiện qua chi tiết nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV cho học sinh xem ảnh và chốt kiến thức – GV hỏi: Khi thị Nở mang bát cháo hành đến, tâm trạng của Chí Phèo được miêu tả như thế nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Bát cháo hành giúp con người Chí thay đổi như thế nào từ sinh lí đến tâm lí? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Chi tiết bát cháo hành có ý nghĩa như thế nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Chí Phèo thiết tha với tình yêu, khát khao được sống lương thiện nhưng ý định ấy lại không thể thực hiện được vì sao? – HS HĐĐL trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Sau khi thị Nở từ chối sống chung, Chí Phèo có trạng thái và hành động nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Vì sao Chí Phèo đến giết bá Kiến mà không đến nhà thị Nở như ý định ban đầu? – HS HĐĐL trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Em có suy nghĩ gì về tiếng thét “Ai cho tao lương thiện?” của Chí Phèo? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa như thế nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức – GV rút ra nhận xét – GV hỏi: Nhân vật bá Kiến được Nam Cao miêu tả như thế nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – Gv cho xem ảnh và giới thiệu – GV hỏi: Ý nghĩa hình tượng nhân vật bá Kiến? – Học sinh HĐĐL trả lời – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Viết về hiện tượng người nông dân bị lưu manh hóa, truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao đạt những giá trị nào? Hình thức hoạt động nhóm, thời gian 5 phút – GV chốt kiến thức – GV hỏi: Nêu một số nét nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn Chí Phèo? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức III. Đọc – hiểu cấu trúc nội dung và nghệ thuật 1.2.2. Quá trình thức tỉnh * Cuộc gặp gỡ với thị Nở Thị Nở là người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng. Chí Phèo say rượu đi về gặp thị Nở gánh nước rồi ngủ quên ngoài bờ sông. Chúng ngủ với nhau dưới một đêm trăng. * Diễn biến tâm trạng sau đêm gặp thị Nở – Cơ thể có sự thay đổi: Miệng đắng, người bủn rủn, thấy sợ rượu. – Tâm lí có sự thay đổi: bâng khuâng, mơ hồ buồn + Chí cảm nhận được âm vang cuộc sống chung quanh mình (Tr.149) + Chí hồi tưởng về quá khứ và hi vọng trong tương lai. (Tr.149) – Chi tiết bát cháo hành: Đó là bát cháo hành do người đàn bà xấu xí dở hơi nấu, bát cháo hành của thời kỳ nghèo đói mang đến cho Chí vì lòng thương người ốm, vì sự rung động mới lạ trong lòng người đàn bà lần đầu tiên thấy mình có được một người đàn ông. – Tâm trạng: Hắn ngạc nhiên xúc động, hắn thấy mắt mình ươn ướt, bâng khuâng trong lòng, cảm giác ăn năn và hối lỗi về những tội ác mà mình đã làm. – Bát cháo hành giúp hắn giải cảm, toát đầm đìa mồ hôi, tỉnh hẳn người. Và rồi tâm hồn Chí cứ thế thực sự hồi sinh: + Hắn nhớ lại bà Ba bắt hắn bóp chân, hắn chỉ thấy nhục, hắn nhận rõ sự xấu xa của mụ. + Hắn lại lo lắng cho tương lai “không thể sống bằng liều lĩnh”. Nghĩa là hắn bắt đầu ý thức cần phải thay đổi cuộc sống của mình. + Và hắn bỗng khát khao được làm lương thiện. ” Trời ơi hắn thèm làm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao” – Chi tiết bát cháo hành vừa là chi tiết hiện thực thúc đẩy biến cố tâm hồn Chí vừa là chi tiết thấm đẫm triết lí trữ tình, giàu giá trị nhân văn sâu sắc. * Bi kịch bị cự tuyệt – Nguyên nhân: + Bị bà cô thị Nở phản đối, tượng trưng cho những định kiến xã hội. + Thị Nở từ chối sống chung. “Thị trút vào mặt hắn tất cả những lời của bà cô, giúi cho Chí thêm một cái” – Trạng thái, hành động: Ngẩn người, kêu la, uống rượu và tính đi giết cô cháu thị Nở. Trong cơn phẫn uất, tuyệt vọng, Chí đã giết chết bá Kiến rồi tự sát. – Chí đến nhà bá Kiến bởi vì dù say nhưng trong tiềm thức lúc này hắn thấm thía hơn bao giờ hết ai đã tước quyền được làm người lương thiện của hắn. – Tiếng thét “Ai cho tao lương thiện?” là tiếng thét bàng hoàng đau đớn, đầy phẫn uất Nó thể hiện khát vọng lương thiện mạnh mẽ ở Chí vừa là tiếng nói tuyệt vọng và kết tội xã hội vô nhận đạo đã chối bỏ quyền làm người lương thiện của Chí Phèo. – Cái chết của Chí Phèo cũng chứa đựng nhiều ý nghĩa. Chí chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống của kẻ đã ý thức được nhân phẩm. Chí đã nhận ra cuộc sống mới nhưng không thể trở về được và đó cũng là lúc Chí nhận thấy mình cũng không thể quay về sống kiếp sống thú vật nữa. Miêu tả cái chết của Chí Phèo, Nam Cao đã cho thấy ẩn sâu trong tâm hồn những người nông dân tưởng chừng đã hoàn toàn bị tha hoá vẫn là ý thức về giá trị làm người là khát khao lương thiện điều ấy còn mạnh hơn cả cái chết. 1.3. Nhân vật bá Kiến – Giọng nói ngọt nhạt, tiếng quát rất sang, cái cười Tào Tháo – Bản chất xảo quyệt, độc ác: Từng bước biến Chí Phèo thành tay sai – Cách cai trị khôn ngoan, lọc lõi + Ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn + Nắm thằng có tóc, không ai nắm thằng trọc đầu + Dùng thằng đầu bò trị thàng đầu bò + Hãy đập bàn, đập ghế, đòi cho được 5 đồng, nhưng lại vứt trả 5 hào vì thương anh túng quá – So sánh: Bá Kiến vừa mang bản chất chung của bọn cường hào thống trị vừa có những nét riêng biệt. Nghị Quế thô lỗ, dốt nát còn bá Kiến xảo quyệt, đa mưu. 1.4. Giá trị của tác phẩm * Giá trị hiện thực + Phản ánh tình trạng một bộ phận nông dân bị tha hóa. + Phản ánh mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ, giữa các thế lực ác bá ở địa phương * Giá trị nhân đạo + Cảm thương sâu sắc trước cảnh người nông dân cố cùng bị lăng nhục + Phát hiện và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi tưởng họ bị biến thành quỷ dữ + Niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. 2. Nghệ thuật – Xây dựng những nhân vật điển hình vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa sống động, có cá tính độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. – Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, logic – Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính. – Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại gần gũi tự nhiên: Giọng điệu đan xen biến hóa, trần thuật linh hoạt. Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu ý nghĩa văn bản – GV hỏi: Theo em văn bản Chí Phèo có ý nghĩa như thế nào? – HS hoạt động độc lập trả lời – GV chốt kiến thức IV. Đọc – hiểu ý nghĩa văn bản Chí Phèo tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc địa phong kiến tàn bạo đã cướp đi cả nhân hình và nhân tính của người nông dân lương thiện. Đồng thời nhà văn phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng như họ đã bị biến thành quỷ dữ. Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh tổng kết, đọc hiểu ghi nhớ – GV yêu cầu học sinh khái quát lại nội dung và nghệ thuật – HS hoạt động độc lập trả lời – GV nhận xét – GV gọi HS đọc chậm phần Ghi nhớ (SGK) – HS đọc V. Tổng kết 1. Nội dung Có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. 2. Nghệ thuật Văn bản có nghệ thuật rất độc đáo: + Xây dựng nhân vật điển hình + Kết cấu mới mẻ + Cốt truyện hấp dẫn, ngôn ngữ điêu luyện Giọng điệu đan xen biến hóa linh hoạt. * Ghi nhớ (SGK) 4. Củng cố, luyện tập – GV hỏi: Vì sao nói Chí Phèo là kiệt tác của nền văn học Việt Nam? – Giáo viên hướng dẫn học sinh theo định hướng: Tác phẩm Chí Phèo có giá trị tư tưởng (hiện thực, nhân đạo) sâu sắc, mới mẻ và được thể hiện bằng nghệ thuật bậc thầy (trong xây dựng ngôn ngữ, lối kết cấu, xây dựng cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ) – HS HĐĐL trả lời 5. Dặn dò – Tìm đọc trọn vẹn truyện ngắn Chí Phèo. – Phân tích nhân vật bá Kiến. – Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở cho đến lúc tự sát. – Nên xem những phim chuyển thể từ truyện ngắn này. 1. Làng Vũ Đại ngày ấy Là tên của một bộ phim truyện chuyển thể do Xí nghiệp Phim truyện Việt Nam sản xuất năm 1982, thời lượng: 90 phút; Tác giả Kịch bản: Đoàn Lê; Đạo diễn: Phạm Văn Khoa. Làng Vũ Đại ngày ấy là câu chuyện tổng hợp dựa theo các tác phẩm nổi tiếng Chí Phèo, Sống mòn, Lão Hạc của nhà văn Nam Cao. 2. Giấc mơ của Chí Phèo Vào đầu năm 2009, Công ty nghe nhìn Thăng Long cũng sản xuất một bộ phim có tên Giấc mơ của Chí Phèo với nội dung tương tự, kịch bản có ghép thêm một vài chi tiết hiện đại. Vai Chí Phèo được đóng bởi NSƯT Trung Hiếu. – Soạn bài: Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu.

Nghị Luận Văn Học: Phân Tích Tác Phẩm Chí Phèo Của Nam Cao

Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Chí Phèo có lẽ là tác phẩm thành công hơn cả trong việc đem lại cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm ghét cái xã hội vạn ác đã chà đạp lên nhân phẩm con người, thương xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa trong chế độ cũ.

Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45. Tuy nhiên, trong tác phẩm Chí Phèo,Nam Cao đã khám phá hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người: con người không được là chính mình, thậm chí, không còn được là con người mà trở thành một con “quỉ dữ”, bởi âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một guồng máy thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lý giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn đương thời.

Đọc xong tác phẩm Chí Phèo ta thấy gì? Mở đầu tác phẩm là cảnh Chí Phèo ngật ngưởng trên đường đi vừa chửi, từ trời đến người, tiếng chửi hằn học, cay độc và chua xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi. Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt, giết chóc, ăn vạ, gây gổ… trong đó Chí Phèo hiện lên như một biếm họa tiêu biểu. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Bây giờ thì hắn trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi. Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người: nó là mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành một con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở đời. Có lẽ hắn cũng biết rằng hắn là quỉ dữ của làng Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua…”

Đoạn văn chất chứa bao nhiêu nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn được cuộc sống của một con người. Những năng lực vốn có của một con người – năng lực cảm xúc, nhận thức – hầu như bị phá hủy, chỉ còn lại năng lực đâm chém, phá phách. Chí Phèo bị phá hủy nhân tính lẫn nhân hình như thế bởi đâu? Nhà văn không tập trung miêu tả dông dài quá trình tha hóa ấy. Ông thiên về lí giải phân tích cái cội nguồn sâu xa dẫn đến kết cục bi thảm của nó, chỉ bằng một số phác thảo đơn sơ về Bá Kiến, về nhà tù, về bà cô Thị Nở, về dư luận xã hội nói chung… Trong hàng loạt mối liên kết ấy, người đọc dễ dàng nhận ra: sở dĩ Chí Phèo (và không chỉ Chí Phèo mà cả những Năm Thọ, những Binh Chức – cả một tầng lớp được nhà văn cá thể hóa qua nhân vật Chí Phèo) từ một thanh niên lành như cục đất hoá thành con quỉ dữ là bởi vì Chí, ngay từ thuở lọt lòng đã thiếu hẳn tình ấp ủ yêu thương, và đặc biệt khi lớn lên, chỉ được đối xử bằng rẻ khinh, thô bạo và tàn nhẫn. Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến được nhà văn miêu tả là một con cáo già “khôn róc đời”, “ném đá giấu tay”, “già đời trong nghề đục khoét”, biết thế nào là “mềm nắn rắn buông”, “Hay ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hay đập bàn đập ghế đòi cho được 5 đồng, nhưng được rồi lại vứt trả lại 5 hào vì thương anh túng quá!”. Chính hắn đã lập mưu đẩy Chí Phèo vào chỗ tù tội oan uổng và sau đó sử dụng Chí Phèo như một tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá Kiến thì không có Chí Phèo, nhưng Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm chí là phương tiện tối ưu để thống trị: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị mấy thằng đầu bò”. Chính Bá Kiến đã rút ra cái kết luận mà theo hắn rất chí lí ấy. Là một tội nhân, nham hiểm, nhẫn tâm, nhưng Bá Kiến lại hiện ra bề ngoài như một kẻ ôn hòa, xởi lởi, biết điều, khiến người đời phải nhìn bằng cặp mắt “kính cẩn”… Vì thế mà hắn đã lường gạt được bao nhiêu dân chất phác lương thiện. Chí Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn; thật sự biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù của mình mà không tự biết. Bá Kiến hiện ra trong tác phẩm Chí Phèo như một nhân vật điển hình, sống động và cá biệt, tiêu biểu cho một bộ phận của giai cấp thống trị, được miêu tả, khám phá dưới một ngòi bút bậc thầy. Cùng với hắn là Lý Cường, là chánh Tổng, là đội Tảo… Chính bọn chúng đem lại không khí ngột ngạt khó thở cho nông thôn Việt Nam thành cái thế “Quần ngư tranh thực” (bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi, chỉ trực rình rập tiêu diệt nhau). Chính chúng là thủ phạm gây ra bi kịch của những Chí Phèo… Số phận của Năm Thọ, Binh Chức, tuy chỉ được nhắc qua tác phẩm, nhưng cũng góp phần chỉ ra tính hệ thống và phổ biến của phương cách tha hóa người dân trong sự thống trị của chúng. Đằng sau những Bá Kiến, Lý Cường, Chánh Tổng… như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là hệ thống nhà tù dã man, bẩn thỉu – cả một điều kiện môi trường bất hảo. Quá trình Chí Phèo ở tù không được miêu tả trực tiếp, chỉ biết rằng khi vào tù Chí Phèo là người hiền lành lương thiện. Ra khỏi tù, hắn trở về với cái vẻ hung đồ, cái thói du côn ương ngạnh học được từ đấy. Nhà văn chỉ nói có thế. Nhưng như thế với bạn đọc thông minh cũng đã quá đủ!

Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ – Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo…

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ… đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút ít hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”. (Tạp chí Văn học số 3-1990)

Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!

Đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.

Cảm Nhận Về Nhân Vật Chí Phèo Trong Tác Phẩm Chí Phèo (Nam Cao)

Cảm nhận về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là tốt hay không tốt? Nêu lên những cảm nhận của mình để làm sáng tỏ lên hình ảnh người cố nông hiền lành, lương thiện bị đầy vào con đường lưu manh nhưng vẫn luôn khao khát được hạnh phúc, khao khát được lương thiện. Qua đó phản ánh nỗi khổ, nỗi bất hạnh của người lao động khi phải sống trong một xã hội phong kiến thối nát.

Hướng dẫn làm văn cảm nhận về nhân vật Chí Phèo

Đề bài: Viết bài văn nêu cảm nhận của em về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.

1. Phân tích đề

– Yêu cầu: nêu cảm nhận về nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.

– Phương pháp lập luận chính: Phân tích, cảm nhận.

2. Hệ thống luận điểm

– Luận điểm 1: Chí Phèo bản chất là một người nông dân lương thiện

– Luận điểm 2: Chí Phèo là một người cô độc

– Luận điểm 3: Chí Phèo phải chịu số phận với nhiều bi kịch

– Luận điểm 4: Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

3. Lập dàn ý chi tiết

a) Mở bài:

– Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm

+ Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà báo kháng chiến, một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20.

+ Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo của Nam Cao viết về một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội.

– Giới thiệu về hình tượng nhân vật Chí Phèo – một nhân vật điển hình cho con người và số phận người nông dân trong xã hội phong kiến.

: Nam Cao rất nổi tiếng với những tác phẩm truyện, những tác phẩm nổi tiếng được nhiều người biết đến là Lão Hạc, Chí Phèo, Một bữa no, Nửa đêm, Mua danh, Một đám cưới... trong đó tác phẩm nổi tiếng nhất là Lão Hạc. Tác phẩm Lão Hạc nói về sự tha hóa của số phận của một con người, sự thay đổi của con người về tính tình và tình cảm qua sự thay đổi về xã hội. Nổi bật nhất trong truyện là hình tượng Chí Phèo, một nhân vật điển hình cho con người và số phận người nông dân, chúng ta cùng đi tìm hiểu về nhân vật này.

b) Thân bài: Cảm nhận về nhân vật Chí Phèo

* Chí Phèo bản chất là một người nông dân lương thiện

– Chí Phèo xuất thân là một người nông dân nghèo, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dùi.

– Mặc dù vậy, Chí vẫn có những phẩm chất tốt đẹp:

– Sau này, khi gặp Thị Nở, sự lương thiện lại một lần nữa quay lại trong Chí:

+ Nhận biết được âm thanh cuộc sống: Tiếng chim hót, tiếng cười nói của người đi chợ

* Chí Phèo là một người cô độc

– Ngay từ khi sinh ra đã phải gắn với số phận không cha, không mẹ

– Qua tiếng chửi, ta thấy nhân vật hiện lên:

+ Là một kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi

+ Là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường

* Chí Phèo phải chịu số phận với nhiều bi kịch

– Bi kịch bị tha hóa:

+ Bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau khi ra tù:

– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở

+ Sau khi hiểu ra mọi việc: Chí tuyệt vọng, uống rượu rồi xách dao đến nhà Bá Kiến đâm chết hắn và tự sát.

– Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:

+ Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.

+ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.

* Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật

– Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

– Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị.

c) Kết bài:

– Khái quát chung chân dung nhân vật Chí Phèo

– Nêu cảm nhận của em về hình tượng nhân vật Chí Phèo.

Chí Phèo là hiện thân của một tầng lớp trong xã hội, đồng thời Chí Phèo là một trong những hình tượng tác giả khắc họa để thể hiện được sự xấu xa của xã hội.

4. Sơ đồ tư duy cảm nhận nhân vật Chí Phèo

Những bài văn mẫu hay cảm nhận về nhân vật Chí Phèo của Nam Cao

Chí Phèo – nhân vật hội tụ đầy đủ những đặc sắc của thiên truyện

Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nói lên hình tượng trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.

Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn để Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bởi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ẩn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hẳn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu để hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.

Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khổ đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khổ và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.

Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đến cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỉ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thể quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình. Ở Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỉ dữ.

Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỉ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là để khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thể đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.

Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với cường hào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.

Song, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thể bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chẳng khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lợn”.

Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?”. Những âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.

Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thể làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có để nâng niu và thấy trân trọng nó hơn.

Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Chí Phèo hay nhất

Với tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo“, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 cùng với những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Có thể nói cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của nhà văn Nam Cao, đặc biệt là trong thể loại truyện ngắn thì “Chí Phèo” đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Có thể nói rằng Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.

Nhân vật Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là một đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Hoàn cảnh éo le không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Trong khoảng thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Và cũng như biết bao nông dân nghèo khác, Chí đã từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Nếu làm ăn khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một con người rất lành rồi cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được nữa.

Có ai ngờ đâu một anh canh điền chất phác đến thật thà ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy anh Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng có thể nói nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.

Khi ra tù, Chí như đã biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Có thể nói chính nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.

Khi mà Chí Phèo trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm rõ được quy luật khắt khe của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Hắn dường như đã hiểu và biết rằng phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay cường hào, thâm độc.

Và với nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã bị sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa mà không thể nào gượng đứng lên được, càng lúc càng lún sâu xuống đáy. Cũng có lẽ rằng hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp của mọi người, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Và vô tình hắn cũng đã đập nát tất cả những gì thuộc về tư cách của một con người trong hắn. Tất cả dân làng Vũ Đại đều quay lung lại với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta rất sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt của một con thú dữ, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.

Có thể nói sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.

Dường như đã đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo luôn luôn bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn như vẫn còn le lói đâu đó ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Có thể nói đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say triền miên, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi, và sau đó lại cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Cho đến cuối cùng thì chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại mà thôi, ai cũng đều xa lánh và sợ hãi.

Những khi hắn tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt và bất ngờ với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã làm hồi sinh lại cho Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn – một tên Chí Phèo tha hóa kia lại sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài đằng đẵng, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.

Nhưng lúc này đây thì cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng hạnh phúc, thì giờ đây Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn đã thực sự muốn làm người trở lại, muốn làm người lương thiện nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.

Có thể nói để giành lại sự sống cho tâm hồn, thì Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?

Với truyện ngắn đặc sắc “Chí Phèo’, Nam Cao đã thực sự đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.

Văn mẫu 11 cảm nhận của em về nhân vật Chí phèo trong tác phẩm cùng tên

Nhà văn Nam Cao là một nhà văn tên tuổi có vị trí quan trọng trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Việc xây dựng nhân vật vô cùng đặc sắc điển hình tạo nên sự thành công trong sự nghiệp của Nam Cao đó chính là nhân vật Chí Phèo.

Với tác phẩm “Chí Phèo” tác giả Nam Cao xứng đáng với tên tuổi nổi bật của mình trong nền văn học nước nhà. Bởi nói tới nỗi khổ của người nông dân thì nhiều nhà văn đã thành công với nhiều tác phẩm nổi tiếng như tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố.

Chí Phèo là một thanh niên bản tính hiền lành, lương thiện, nhưng chính xã hội phong kiến, tầng lớp bóc lột của xã hội cũ đã chà đạp, xô đẩy cuộc đời Chí Phèo tới chân tường, không lối thoát, đánh mất giá trị con người mình, mất đi tính lương thiện vốn có của người nông dân hiền lành chất phác.

Nhân vật Chí Phèo khổ từ khi mới sinh ra, bởi anh là đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong chiếc lò gạch cũ. Rồi may mắn được bác phó cối nhặt về nuôi dưỡng thương yêu như con của mình. Nhưng chỉ được vài năm thì bác phó cối chết đi, Chí Phèo lang thang đi ở đợ cho hết nhà này tới nhà khác kiếm miếng ăn.

Năm mười mấy tuổi Chí Phèo đi làm canh điền cho gia đình giàu có quyền lực nhất làng Vũ Đại chính là nhà Bá Kiến. Chí Phèo được tiếng là hiền lành chăm chỉ như cục đất suốt ngày chỉ biết làm việc mà thôi. Dù không được học hành nhiều nhưng Chí Phèo hiểu thế nào là đúng sai, phải trái. Trong nhà Bá Kiến có bà Ba thường xuyên bắt Chí Phèo lên hầu hạ bóp chân, đấm lưng, bà ba còn trẻ nên có nhiều mong muốn trong vấn đề tình cảm, nhưng lão Bá Kiến thì già rồi nên không thể chiều bà thường xuyên được. Bà ba vợ lão Bá Kiến để mắt tới Chí Phèo, Chí Phèo biết và lão Bá Kiến biết.

Những lúc như vậy, Chí Phèo cảm thấy nhục chứ chẳng vui vẻ gì. Lão Bá Kiến thì sinh ghen tuông vô cớ với Chí Phèo rồi lão âm mưu vu vạ, cho Chí Phèo tội ăn cắp đẩy anh vào tù chừng bảy, tám năm gì đó tưởng đâu Chí Phèo đã chết mất mạng trong tù rồi chẳng ai còn nhớ tới anh nữa.

Chính những thời gian bị ngồi tù oan đã biến Chí Phèo từ con người hiền lành lương thiện trở một kẻ bị lưu manh hóa, đánh mất tính lương thiện trong mình. Khi mãn hạn tù trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã biến thành một người hoàn toàn khác với trước kia, một tên giang hồ thật sự, răng cạo trắng ởn, đầu trọc lốc, ai nhìn thấy hắn cũng lảng tránh. Hắn đã trở thành tay sai cho Bá Kiến trong những việc đánh đấm đòi nợ thuê. Cuộc đời Chí Phèo từ khi ra tù về hắn triền miên trong những cơn say rượu, hết rượu, hết tiền hắn cướp để có tiền tiếp tục mua rượu uống. Hắn thật sự đã biến chất trở thành nỗi khiếp sợ của những người dân hiền lành lương thiện.

Khi xây dựng nhân vật Chí Phèo có lẽ Nam Cao đã phản ánh vô cùng sống động, chân thực cuộc sống của xã hội cũ, những người nông dân bị bần cùng, hủy hoại về tâm hồn vì sự nghèo khổ áp bức, tới cùng quẫn. Nhân vật Chí Phèo bị sa lầy trong vũng bùn của sự xuống cấp đạo đức, tha hóa lòng nhân hậu sự lương thiện. Nhưng chính Bá Kiến và xã hội lúc đó là nguyên nhân xô đẩy Chí Phèo tới bước đường đó. Sự tha hóa của Chí Phèo đã tố cáo tội ác dã man của xã hội phong kiến đã chà đạp lên nhân cách số phận của người nông dân, khiến cho người nông dân đánh mất nhân cách, tính thiện lương trong con người mình.

Càng đi sâu vào những bi kịch của người nông dân trước khi cách mạng tháng Tám xảy ra Nam Cao càng nhận ra những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong vẻ ngoài xù xì gai góc của họ. Mỗi người nông dân đều có nội tâm phong phú sâu sắc. Chí Phèo là một con người lương thiện, bản chất hiền lành nhưng chính xã hội đó đã tước đi quyền làm người lương thiện của Chí Phèo.

Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở là một cuộc gặp gỡ định mệnh, chính bát cháo hành của Thị Nở khi Chí Phèo ốm đã cứu vớt linh hồn con người của anh. Chí Phèo cảm thấy một cảm giác khó tả anh mong ước mơ hồ nhớ về nguyện vọng ước mơ của mình ngày xưa. Khi muốn có một mái ấm gia đình, vợ làm việc vợ, chồng làm việc chồng cùng nhau sum vầy sớm tối bên nhau.

Lần đầu tiên sau nhiều năm Chí Phèo tỉnh rượu hắn mơ hồ nhận thấy sự cô đơn của cuộc đời mình. Chí Phèo muốn có gia đình nhưng cánh cửa trở về làm người lương thiện đang mở ra bỗng đóng sầm trước mắt Chí Phèo. Khi bà cô ruột của Thị Nở không cho Thị Nở qua lại với anh, chê anh là thằng không cha không mẹ, thằng chuyên làm nghề rạch mặt ăn vạ…

Chí Phèo hận lắm, anh cảm thấy mình chẳng còn gì để mất cả anh muốn trả thù. Anh sẽ tìm tới bà cô Thị Nở cho bà ta một bài học, nhưng bàn chân của Chí Phèo lại đưa anh tới nhà lão Bá Kiến bởi trong tiềm thức Chí Phèo hiểu rằng mình trở nên mất lương thiện, mất tính người đi tới bước đường này đều do lão Bá Kiến gây ra. Câu hỏi Chí Phèo hỏi lão Bá Kiến khiến người đọc vô cùng xúc động “Ai cho tao lương thiện?” đó là câu hỏi thấm thía sâu sắc thể hiện sự đồng cảm của tác giả Nam Cao với đứa con tinh thần của mình.

Câu chuyện khép lại để lại trong lòng bạn đọc nhiều ám ảnh day dứt trong lòng người đọc về cuộc đời số phận của nhân vật Chí Phèo một con người đáng thương hơn đáng giận, một số phận bị bần cùng lưu manh hóa nhưng thực chất trong con người anh ta sự lương thiện vẫn luôn tồn tại, chỉ có điều nó bị xã hội phong kiến chà đạp lên mà thôi.

Truyện ngắn “Chí Phèo” với cốt truyện độc đáo, thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của Nam Cao khi đi sâu khai thác nội tâm bên trong con người lao động thể hiện một cây bút lão luyện thiên tài của nền văn học hiện thực. Chí Phèo thật sự là một tác phẩm kinh điển của nền văn học hiện thực nước ta cho chúng ta một cái nhìn mới mẻ độc đáo hơn.

-/-

Giangdh (Tổng hợp)

Tìm Hiểu Chi Tiết Văn Bản: Chí Phèo – Nam Cao

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

– Nam Cao (1917 – 1951) tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. Là một nhà văn hiện thực lớn (trước Cách Mạng), một nhà báo kháng chiến (sau Cách Mạng), một trong những văn sĩ tiêu biểu nhất thế kỷ 20 của Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.

– Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải.

– Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định). Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.

– Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác “tìm đường” của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.

– Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, rồi ông được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương.

– Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sỹ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới.

– Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành.

– Trên đường đi công tác, ông bị quân Pháp phục kích và bắn chết vào ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 tháng Mười âm lịch), tại Hoàng Đan (Ninh Bình).

– Năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật ngay trong đợt 1.

– Tác phẩm: Chí Phèo (1941), Truyện người hàng xóm (1944), Sống mòn (1956), Đôi mắt (1948), Đời thừa (1943),…

2. Hoàn cảnh sáng tác

Truyện ngắn Chí Phèo, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ; khi in thành sách lần đầu năm 1941, Nhà xuất bản Đời mới – Hà Nội tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (do Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đã đặt lại là Chí Phèo.

3. Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao

Truyện ngắn Chí Phèo là câu chuyện về nhân vật cùng tên Chí Phèo – một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ. Hắn được người làng chuyền tay nhau nuôi. Lớn lên, Chí Phèo đi ở hết nhà này tới nhà nọ và làm canh điền cho Lý Kiến. Vì ghen tuông vô lí, Lý Kiến đẩy Chí Phèo vào tù. Bảy năm sau Chí Phèo trở về làng trong một bộ dạng khác hẳn của một tay anh chị. Hắn bị Bá Kiến lợi dụng và biến thành tay sai. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chuyên rạch mặt ăn vạ và gây tai họa cho người trong làng.

Mối tình với Thị Nở đã làm Chí Phèo hồi sinh, hắn khao khát làm hòa với mọi người và sống lương thiện. Nhưng bà cô Thị Nở và cái xã hội đương thời đã chặn đứng con đường trở về làm người lương thiện của Chí. Tuyệt vọng, hắn tìm giết Bá Kiến và tự sát. Nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn xuống bụng và thầm nghĩ đến một cái lò gạch bỏ không, xa đường cái và vắng người qua lại.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Chí Phèo và con đường tha hóa:  của người nông dân trước Cách mạng

– Chí Phèo có tuổi thơ bất hạnh: Chí Phèo vốn mồ côi, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ, được người làng chuyền tay nhau nuôi: Anh thả ống lươn nhặt được mang về cho bà góa mù nuôi; rồi bà ấy cho bác phó cối không con, rồi bác ấy chết, Chí Phèo trở thành đứa trẻ lang thang, không nhà cửa, không một tấc đất cắm dùi.

– Chí Phèo là người nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự trọng.

+ Năm hai mươi tuổi, Chí làm canh điền cho nhà Lí Kiến. Chí cũng có ước mơ, hy vọng bình dị về mái ấm gia đình, ở đó có chồng cày thuê, vợ dệt vải,… Chí không những chăm chỉ, hiền lành mà hắn còn giàu lòng tự trọng, có ý thức về danh dự. Khi bị vợ ba của Lí Kiến sai bóp chân, Chí cảm thấy xấu hổ, nhục nhã.

– Chí Phèo trở thành tay sai cho bá Kiến, con quỷ của làng Vũ Đại: Chỉ vì ghen tuông vu vơ, Bá Kiến nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Nhà tù thực dân tiếp tay cho bọn cường hào nên chỉ sau 7,8 năm ở tù, Chí đã hoàn toàn bị tha hóa. Ra tù, Chí bị tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành một người khác, với cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ, trông hắn thật gớm chết. Hắn cũng luôn trong trạng thái say triền miên, ăn ngủ, rạch mặt, chửi bới trong lúc say. Không những thế, tính cách hắn cũng thay đổi. Chí không còn là anh canh điền ngày xưa mà trở thành một thằng liều mạng, có thể làm mọi việc vì tiền như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, ăn vạ, đập phá, đâm chém,…

– Quá trình tha hóa của Chí diễn ra khá nhanh chóng:

+ Lần thứ nhất sau khi ra tù, Chí tìm đến nhà bá Kiến để trả thù nhưng khi được vỗ về bằng những lời ngọt ngào, được thiết đãi bằng rượu thịt và còn được biếu hẳn một đồng bạc để uống rượu, Chí đã không còn nhớ đến mối thù nữa.

+ Lần thứ hai, Chí đến nhà bá Kiến để xin tiền uống rượu và trở thành tay sai ho bá Kiến, nhận đòi nợ Đội Tảo 50 đồng. Hắn được trả công 5 đồng và 5 sào vườn ở bãi sông.

– Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo: Lúc say, bao giờ hắn vừa đi, vừa chửi. Hắn chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn. Nhưng không ai lên tiếng, không ai đáp lại, không ai để ý. Hắn đã bị khai trừ ra khỏi cộng đồng loài người, giờ đây Chí sống tăm tối như thú vật, xa lại với mọi người, với xã hội loài người.

– Nỗi đau khổ của Chí gói trọn trong tiếng chửi tưởng như vô thức ấy. Đó là bi kịch của con người bần cùng hóa đến lưu manh hóa, không chỉ bị hủy hoại hình hài, nhân tính mà còn là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Sức mạnh tố cáo, giá trị hiện thực của tác phẩm là ở chỗ đó.

– Chí phèo hoàn lương – Bị kịch của con người bị cự tuyệt quyền làm người: Mỗi tình với Thị Nở:

+ Thị Nở là một người phụ nữ xấu xí ma chê quỷ hờn, lại ngẩn ngơ, dở hơi, có mả hủi, nghèo lại ế chồng, ngoài ba mươi tuổi mà chưa có chồng.

+ Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Chí Phèo và Thị Nở là sự kiện có tính bước ngoặt cuộc đời hắn. Thị Nở ra bờ sông kín nước, ngồi nghỉ rồi ngủ quên trong vườn chuối nhà Chí Phèo. Chi say rượu trở về thấy Thị và họ đã ăn nằm với nhau. Nửa đêm, hắn đau bụng, nôn mửa và được thị dìu vào lều chăm sóc.

– Tâm trạng Chí Phèo khi tỉnh dậy:

+ Lần đầu tiên từ lúc ra từ, Chí tỉnh rượu. Hắn thấy bâng khuâng, lòng mơ hồ buồn. Hắn nhận ra âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh: tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng trò chuyện của những người đàn bà đi buôn vải,… Đó là tiếng gọi tha thiết mà rất đỗi bình dị, thân thương của cuộc sống.

+ Hắn nhìn lại đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Hắn nhớ về quá khứ với ước mơ nhỏ bé, giản bị về hạnh phúc gia đình. Khát vọng bình dị ấy vọng về làm hắn cảm thấy tiếc nuối và lòng nao nao buồn. Quay lại hiện tại, hắn thấy hắn đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời, cơ thể đã hư nhiều, thế mà hắn vẫn còn cô độc. Chí nhận ra cuộc đời hắn thật đáng buồn, hắn cay đắng vì tình trạng tuyệt vọng của đời mình. Còn tương lai, hắn nhìn thấy đói rét, ốm đau và nhất là cô độc. Hắn sợ cô độc.

– Ý nghĩa chi tiết bát cháo hành của Thị Nở:

+ Khi tỉnh dậy sau cơn say và trận ốm, hắn được Thị Nở mang cho một bát cháo hành. Bát cháo hành vừa là hình ảnh thực, vừa là hình ảnh tượng trưng mang ý nghĩa biểu tượng.

+ Với Thị Nở, đó là bát cháo của tình thương, tình nghĩa của thị dành cho Chí Phèo.

+ Còn với Chí, bát cháo hành có ý nghĩa đặc biệt. Lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà cho nên hắn từ ngạc nhiên, xúc động: mắt ươn ướt, bâng khuâng, vừa vui lại vừa buồn. Hắn cảm nhận được tình yêu thương, khát khao hạnh phúc lứa đôi. Hắn cảm thấy cháo hành rất ngon. Bát cháo hành bình dị nhưng làm hồi sinh bản chất hiền lành, lương thiện vốn có trong con người Chí. Hắn cảm thấy ăn năn, lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với thị. Hắn thấy thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người. Chí phèo đã trở lại là anh canh điền ngày xưa hiền lành, chất phác. Đó là bản chất đẹp đẽ vốn có trong con người Chí bị lấp đi, nay có cơ hội hồi sinh. Chí Phèo hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, hòa nhập với mọi người, chấm dứt đoạn đời thú vật. Khát vọng làm người lương thiện này thật đáng trân trọng.

2. Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người

– Bị cự tuyệt quyền làm người người của Chí Phèo được thể hiện qua những tiếng chửi từ đầu truyện. Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm lần đầu tiên không phải bằng xương, bằng thịt mà thông qua tiếng chửi, hắn vừa đi vừa chửi để đối thoại với cuộc đời. Nhưng điều đau đớn ở đây là: cho dù gắn đã tìm mọi cách để giao tiếp với đời, với dân làng Vũ Đại nhưng chẳng ai quan tâm, đáp lại. Nhà văn đã thành công trong việc sử dụng tiếng chửi để mở đầu cho bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.

– Bi kịch bị cự tuyệt làm người của Chí Phèo được nhà văn tiếp tục hé lộ qua việc giới thiệu hoàn cảnh xuất thân. Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi ngay từ khi mới sinh ra, trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên ngoài cái lò gạch bỏ không. Hắn đã được người làng chuyền tay nhau nuôi lớn. Bị chính những người thân của mình bỏ rơi và chưa một lần được gặp họ, nhưng Chí Phèo đã cố gắng rất nhiều trong cuộc sống. Hắn cũng đã từng có ước mơ về mái gia đình yên ấm, hạnh phúc. Chỉ vì một cơn ghen tuông vô cớ của Lí Kiến đã đẩy Chí Phèo vào cảnh tù tội. Sau đó, nhà thực dân phong kiến đã tiếp tục đầy Chí Phèo thành kẻ lưu  manh hóa.

– Bi kịch tha hóa, lưu manh hóa là con đường dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt làm người của Chí Phèo. Chí Phèo đã thay đổi cả nhân tình và nhấn tính, thành con quỷ dữ, là nỗi ám ảnh của dân làng Vũ Đại. Hắn bị mọi người xa lánh và khiếp sợ.

– Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo là khi bị Thị Nở từ chối tình yêu:

+ Cuộc đời Chí Phèo đã thay đổi rất nhiều từ khi gặp Thị Nở. Mặc dù nhà văn đã miêu tả Thị Nở là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn nhưng tình yêu thương của Thị Nở đã cứu vớt cuộc đời Chí Phèo. Hắn khao khát thành người lương thiện và ước mơ một mái ấm gia đình. Nhưng chính Thị Nở cũng là người đóng cánh cửa trở về với lương thiện của Chí Phèo. Thị Nở đã cắt đứt với Chí Phèo vì bị bà cô cấm đoán; cả làng Vũ Đại, cả xã hội không ai đón nhận linh hồn người vừa trở về của Chí. Định kiến của bà cô cũng là định kiến của xã hội đương thời, làm cho Chí đau đớn và tuyệt vọng.

+ Hắn uống rượu cho thật say, nhưng càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hắn ôm mặt khóc rưng rức hắn càng thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con khọm già, con đĩ Nở nhưng sự thức tỉnh về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí Phèo dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này, Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến.

+ Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu nay trong con người của Chí càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người: Tao muốn làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện?. Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.

+ Chí giết Bá Kiến và tự sát. Cái chết của Chí Phèo là bản án tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến, một cuộc sống mà trong đó con người muốn sống lương thiện cũng không được.

3. Nhân vật Thị Nở

– Thị Nở là một người đàn bà có ngoại hình xấu xí, vừa xấu vừa ngớ ngẩn. Cái xấu của Thị Nở được Nam Cao gói gọn trong bốn từ: Ma chê quỷ hờn. Chỉ bốn chữ đó đã cso thể khiến người đọc hình dung ra dung mạo người phụ nữ làng Vũ Đại này. Người ta vẫn bảo ở đời ít người vừa xấu xí, vừa nghèo, vừa ngớ ngẩn. Nhưng thực ra Thị Nở lại mang trong mình cả ba điều đó. Chỉ có như thế Thị Nở mới có thể sánh với Chí Phèo, những người cùng cảnh ngộ.

– Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị, vì ngoại hình thô kệch và nghèo. Thị đi gánh nước thuê để kiếm sống qua ngày. Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương. Có lẽ đây chính là dụng ý của Nam Cao khi để Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau. Những kẻ cùng đường trong xã hội đến với nhau, yêu thương nhau, có thể chỉ trong phút chốc nhưng cũng gọi là có được tình yêu.

– Thị Nở là người đàn bà nghèo, xấu xí, tính tình ngớ ngẩn nhưng lại có một tấm lòng rất sáng, là tình yêu thương người. Có lẽ đây chính là điều mà Nam Cao muốn gửi gắm, nhắn nhủ đến mọi người.

– Nhân vật Thị Nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dàn cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn thấm đẫm tình yêu, đoạn văn đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội.

– Thị Nở thương Chí Phèo, một tình thương xuất phát từ trái tim, lòng cảm thông sâu sắc, không vu lợi, không cá nhân. Chỉ đơn thuần đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Hắn cần Thị, cả cuộc đời hắn cần thị như thế. Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau trong cái đêm hôm ấy, đêm Chí Phèo say rượu, họ sống như vợ chồng suốt mấy ngày. Bát cháo hành là động lực, là sợi dây kết nối tình cảm giữa Thị Nở và Chí Phèo. Có thể nói Thị Nở và bát cháo hành là cứu cánh cho cuộc đời Chí Phèo về sau.

4. Giá trị nhân đạo của truyện

– Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở đây trước hết được biểu hiện ở chỗ đã khám phá ra nỗi khổ bị đày đọa, lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người của người lao động lương thiện. Nam Cao bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đó. Qua tấn bi kịch và số phận bi thảm của Chí Phèo, Nam Cao đã cất lên tiếng kêu cứu thảm thiết và đầy phẫn uất cho người lao động lương thiện: Làm thế nào để cho con người được sống một cuộc sống xứng đáng trong cái xã hội vùi dập nhân tính ấy; hãy tiêu diệt hoàn cảnh phi nhân tính, hãy làm cho hoàn cảnh nhân đạo hơn.

– Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo còn thể hiện qua thái độ lên án gay gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên tấn bi kịch đau thương cho người lao động (bọn thống trị độc ác; nhà tù thực dân; những thành kiến, định kiến vô nhân đạo).

– Tư tưởng nhân đạo đặc sắc, độc đáo của Nam Cao ở đây còn được thể hiện ở thái độ trân trọng, nâng niu những nét đẹp người nông dân. Cao hơn nữa, nhà văn còn khám phá ra những phẩm chất lương thiện của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như u mê, cằn cỗi.

* Những vẻ đẹp ở Chí Phèo

– Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện, giàu lòng tự trọng, biết “không thích cái gì người ta khinh”; biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và cảm giác nhục dục thấp hèn. Những lần “bà ba, cái con quỷ cái” bắt hắn làm những việc không chính đáng “hắn thấy nhục, chứ yêu đương gì”.

– Hắn đã từng mơ ước rất bình dị: “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi một con lợn để làm vốn liếng. “Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.

– Bị nhà tù xã hội thực dân phong kiến biến Chí thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, nhưng dưới đáy sâu tâm hồn hắn vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm.

– Khát khao tình yêu hạnh phúc lứa đôi: biết yêu thương, biết “say sưa”, “rưng rưng” và “bẽn lẽn” nhận ra hương vị cháo hành “Trời ơi mới thơm làm sao!”. Đó là hương vị của tình người, của tình yêu chân thành, của hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng. Chí Phèo muốn được sống với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Và khi bị “cắt đứt mối tình”, Chí biết tiếc, biết buồn, biết khóc vầ uất ức, giận dữ.

– Khát khao được làm người lương thiện. Chí Phèo “muốn được làm người lương thiện”! “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. “Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lai không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng… của những người lương thiện”. Điều đó đã có lúc khiến Chí Phèo hồi hộp hi vọng.

+ Có tinh thần phản kháng: Khi bị Thị Nở cự tuyệt và nhận ra mọi ngỏe đường trở lại xã hội loài người bị chặn đứng, Chí Phèo đã đến thẳng nhà Bá Kiến, vung lưỡi dao căm hờn lên giết chết Bá Kiến – kẻ thù khủng khiếp đã cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính của Chí để đòi quyền làm người lương thiện của mình. Sau đó Chí Phèo đã tự sát vì tuyệt vọng, vì Chí không muốn sống tăm tối, tủi nhục như kiếp sống thú vật nữa.

* Những vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở

– Tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” còn được biểu hiện ở việc phát hiện ra vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở.

– Dưới ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành người phụ nữa rất giàu tình thương. Đằng sau cái bề ngoài xấu xí và tính khí “dở hơi” còn ẩn chứa một trái tim nhân hậu. Khi Chí Phèo bị ốm, Thị Nở đã chăm sóc tận tình… Với bàn tay dịu dàng, ấm nóng nhân tình của người phụ nữa, Thị đã mang đến cho Chí một bát cháo hành còn “bốc khói”. Chính bát cháo hành ấm nóng tình người ấy đã đánh thức dậy nhân tính của Chí Phèo.

– Cũng như những người phụ nữ khác, Thị Nở rất khao khát tình yêu và hạnh phúc. Cuộc gặp gỡ của hai kẻ khốn khổ đã tạo nên sự đồng cảm và Thị Nở đã yêu Chí Phèo, ước ao được sống chung với Chí. Tình yêu đã làm cho người đàn bà “xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn” ấy biến đổi một cách kì diệu: “Trông thị thế mà có duyệt. Tình yêu làm cho có duyên”. Phát hiện ra điều đó chứng tỏ cái nhìn nhân đạo của Nam Cao có chiều sâu hiếm có.

III. Tổng kết

Chí Phèo đã khái quát một hiện tương xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 11 Tiết 53: Văn Học Chí Phèo Nam Cao (Phần Hai: Tác Phẩm) trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!