Xu Hướng 12/2023 # Hải Phòng Cần Chú Trọng Phát Triển Ba Trụ Cột Chiến Lược # Top 20 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Hải Phòng Cần Chú Trọng Phát Triển Ba Trụ Cột Chiến Lược được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

(Chinhphu.vn) - Để thực hiện thành công Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong thời gian tới, Thành phố Hải Phòng cần chú trọng phát triển kinh tế biển, công nghiệp công nghệ cao và du lịch là ba trụ cột chiến lược của Hải Phòng từ nay đến năm 2045.

Một góc thành phố Hải Phòng

Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Hải Phòng. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng đánh giá cao, biểu dương nỗ lực của các cấp ủy Đảng, chính quyền, quân và nhân dân thành phố Hải Phòng đã thực hiện xuất sắc “mục tiêu kép”: vừa quyết liệt, chủ động, với nhiều cách làm hay, sáng tạo trong phòng chống dịch COVID-19; vừa nỗ lực phát triển kinh tế xã hội, trở thành địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhóm đầu trong cả nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong Quý I năm 2023 đạt 14,9% (gấp 3,92 lần mức trung bình cả nước); tỷ lệ hộ nghèo còn 0,72%.

Để thực hiện thành công Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong thời gian tới, Thành phố Hải Phòng cần chú trọng phát triển kinh tế biển, công nghiệp công nghệ cao và du lịch là ba trụ cột chiến lược của Hải Phòng từ nay đến năm 2045.

Cụ thể, kinh tế biển trên cơ sở tận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế đưa Hải Phòng trở thành địa phương mạnh về biển, giàu từ biển, là trọng điểm phát triển kinh tế biển cả nước.

Xây dựng Hải Phòng trở thành một thành phố cảng quan trọng thu hút nhiều tập đoàn lớn trên thế giới đến đầu tư, kinh doanh; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có chọn lọc; hình thành và phát triển các khu công nghiệp sinh thái đảm bảo hài hòa giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ và bảo vệ môi trường; có cơ chế, chính sách đột phá, tạo điều kiện cho một số lĩnh vực công nghiệp mang tính đặc thù, thế mạnh.

Định hướng phát triển du lịch – một lĩnh vực phát triển quan trọng của thành phố kết nối giữa Đồ Sơn – Cát Bà – Hạ Long, liên kết vùng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh trong phát triển du lịch, dịch vụ. Trong tương lai, Hải Phòng phải trở thành trung tâm du lịch chất lượng cao tầm quốc tế với dịch vụ chất lượng cao, mua sắm, giải trí, điểm đến của du khách trên thế giới.

Hải Phòng phải là trung tâm giáo dục – đào tạo, y tế và khoa học – công nghệ của vùng duyên hải Bắc Bộ; là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, cửa chính ra biển của các địa phương phía Bắc; nơi hội tụ tinh hoa văn hóa Việt Nam kết hợp hài hòa với những giá trị văn hóa nhân loại tiến bộ; người Hải Phòng văn minh, thanh lịch, năng động, thông minh, tiêu biểu cho trí tuệ và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Tăng cường phát triển đô thị và liên kết vùng, xây dựng Hải Phòng trở thành đô thị thông minh, hiện đại, một thành phố đáng sống gắn với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Quy hoạch không gian đô thị đi trước một bước trên cơ sở tích hợp các yêu cầu phát triển bền vững theo hướng tránh tập trung quá nhiều vào lõi đô thị. Hoàn thành việc di chuyển trung tâm hành chính sang phía Bắc sông Cấm; phát triển đô thị vệ tinh có quy mô hợp lý, phù hợp với trình độ quản lý và khả năng huy động các nguồn lực xã hội với phương châm Nhà nước quy hoạch, doanh nghiệp thực hiện, người dân cùng tham gia và thụ hưởng như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng Hải Phòng trở thành “Thành phố gương mẫu của nước ta”.

Phấn đấu đến năm 2030, Hải Phòng đạt các tiêu chí của đô thị loại đặc biệt

Kết luận cũng nêu rõ cần phân kỳ phát triển thành phố một cách khoa học, theo từng giai đoạn phù hợp với quy hoạch phát triển. Phấn đấu đến năm 2030, Hải Phòng đạt các tiêu chí của đô thị loại đặc biệt. Nghiên cứu xây dựng hệ thống tàu điện ngầm trong thành phố. Phấn đấu đến năm 2045, Hải Phòng phải có trình độ phát triển cao trong nhóm thành phố hàng đầu Châu Á. Không chỉ trở thành đầu tàu về phát triển kinh tế, Hải Phòng cần quan tâm mạnh mẽ, tập trung nguồn lực đầu tư tương xứng các lĩnh vực văn hóa xã hội, bảo đảm môi trường sống an ninh, an toàn, văn minh.

Nhiệm vụ đối với Hải Phòng trong 08 tháng còn lại của năm 2023 rất quan trọng và là một cực tăng trưởng cho phát triển của đất nước. Do vậy cần triển khai đồng bộ các biện pháp như thúc đẩy giải ngân đầu tư công, phát triển doanh nghiệp, bán lẻ, dịch vụ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn nữa thúc đẩy kinh tế tư nhân, xây dựng nông thôn mới, hỗ trợ người dân… cùng cả nước phấn đấu hoàn thành cao nhất mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Hải Phòng không được thỏa mãn với thành quả bước đầu mà cần thấy rõ nhiệm vụ nặng nề trước mắt và lâu dài để các cấp, các ngành, người dân và doanh nghiệp trên địa bàn thành phố triển khai tốt hơn.

Tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, người dân. Phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ. Đẩy mạnh cải cách hành chính (phấn đấu chỉ số PCI của Hải Phòng phải thuộc nhóm dẫn đầu cả nước); xây dựng một chính quyền liêm chính, hành động, phục vụ trên nền tảng chính quyền điện tử công khai, minh bạch, hiện đại, chuyên nghiệp.

Làm tốt hơn nữa công tác quản lý đô thị, đặc biệt là quản lý trật tự xây dựng, an toàn giao thông, kỷ cương và văn minh đô thị. Chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, cấp thoát nước, xử lý nước thải, rác thải, quản lý dân cư; môi trường nước, môi trường không khí, đặc biệt là xung quanh các khu công nghiệp, bảo đảm chất lượng cuộc sống của người dân và phát triển bền vững. Tập trung giải quyết tốt các vấn đề về nhà ở đô thị; xây dựng thiết chế văn hóa cho công nhân trong các khu công nghiệp, nhất là nhà ở cho công nhân.

Bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Tuyệt đối không để các đối tượng lợi dụng tình hình dịch bệnh gây mất an ninh trật tự. Tăng cường phòng, chống cháy nổ, cứu hộ, cứu nạn. Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, nhất là tội phạm có tổ chức, ma túy, tín dụng đen, xâm hại phụ nữ, trẻ em…

Bên cạnh đó, thành phố Hải Phòng tập trung chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2023 – 2025, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Chí Kiên

Nghị Quyết Về Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế Biển Việt Nam

Những kết quả đáng khích lệ

Một là, về phát triển kinh tế biển trong mười năm qua, nhờ những định hướng hỗ trợ ngư nghiệp và ngư dân nêu trong Nghị quyết số 09-NQ/TW, nghề cá của Đà Nẵng đã dần hồi sinh sau thảm nạn Chanchu năm 2006. Tiếp tục vượt qua rất nhiều khó nhọc và hiểm nguy, ngư dân Đà Nẵng vẫn vừa kiên trì trụ bám trên ngư trường truyền thống Hoàng Sa, vừa lao động để mưu sinh kiếm sống, vừa góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, dõi theo từng hòn đảo lớn nhỏ thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của quê nhà tạm thời chưa thể đặt chân lên đó. Có nhiều lĩnh vực đã kịp thời hỗ trợ ngư nghiệp và ngư dân với tư cách là một bộ phận hợp thành cốt lõi của kinh tế biển, nhưng có thể nói tích cực nhất, chuyển biến rõ nét nhất là lĩnh vực khí tượng thủy văn – mười năm nay đã hình thành một tư duy báo bão khác hẳn so với khi xảy ra thảm nạn Chanchu, thời gian dự báo hiện giờ tăng lên gấp ba lần so với mười năm trước…

Nói đến kinh tế biển, không thể không nói đến đóng góp của cảng biển – ở đây là Cảng Tiên Sa được xem là cảng biển lớn nhất miền Trung hiện nay, đồng thời là một mắt xích quan trọng trên tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây kết nối 13 tỉnh, thành phố của bốn nước Mi-an-ma, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Sau mười năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, có thể thấy con số tám triệu tấn hàng hóa thông qua Cảng Tiên Sa trong năm 2023 là một con số đầy ấn tượng, mở ra triển vọng phát triển cao hơn cho các năm tiếp theo. Chính sự lớn mạnh không ngừng của Cảng Tiên Sa là tiền đề quan trọng để trong buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Đà Nẵng hồi cuối tháng 9-2023 vừa qua. Thủ tướng Chính phủ khẳng định việc đầu tư xây dựng Cảng Liên Chiểu là cần thiết và cấp bách.

Những kết quả của thành phố cảng biển Đà Nẵng trong mười năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW đã góp phần khẳng định đánh giá của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII: Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững; công tác tìm kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải cơ bản được bảo đảm; công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển được triển khai chủ động, toàn diện. Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất nước; hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển được cải thiện.

Những yếu kém, bất cập và những vấn đề đặt ra

Nhìn lại mười năm Đà Nẵng tích cực thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, không nên chỉ thấy những chuyển biến đáng kể và đáng mừng về phát triển kinh tế biển và về đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, mà còn phải thấy những trì trệ, bất cập so với yêu cầu của Nghị quyết đặt ra và với đòi hỏi của thực tiễn, đúng như nhận định của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII: “việc thực hiện nghị quyết vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức trong phát triển bền vững kinh tế biển” nêu trong Nghị quyết số 36-NQ/TW. Chỉ nói riêng ngành du lịch, so với toàn quốc, các tỉnh duyên hải miền Trung có tiềm năng rất lớn về du lịch sinh thái biển với những vịnh biển, bãi biển nổi danh không chỉ trong nước. Tuy nhiên, có thể đánh giá chung mười năm qua, tiềm năng này chưa được khai thác ngang tầm đòi hỏi của Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2023, cụ thể chỉ mới được khai thác trong phạm vi từng tỉnh, chưa có sự liên kết đúng mức và thực sự chân thành giữa các tỉnh duyên hải miền Trung, kể cả giữa năm tỉnh thuộc Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung. Vì thế, tiếp cận tiềm năng du lịch sinh thái biển dọc các tỉnh duyên hải miền Trung bao gồm cả việc đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực trong tư duy và nhãn quan liên kết kinh tế vùng là hết sức cấp thiết.

Việc đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế biển trên địa bàn Đà Nẵng trong tư duy và nhãn quan liên kết kinh tế vùng không phải là điều gì hoàn toàn mới đối với các tỉnh duyên hải miền Trung nói chung và đối với Đà Nẵng nói riêng. Chẳng hạn, từ nhiều năm nay, Đại học Thủy sản Nha Trang đã có nhiều đóng góp trong việc đào tạo cán bộ ngành thủy sản cho các tỉnh duyên hải miền Trung, trong đó có Đà Nẵng. Ngay cả lực lượng lao động lành nghề nhưng chưa qua đào tạo dài hạn đang lao động trên các phương tiện đánh bắt xa bờ của Đà Nẵng hầu hết cũng là nhân lực ở tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên… Có điều tất cả những thực tế ấy chưa nằm trong một giải pháp mang tính liên kết kinh tế vùng được chủ động hoạch định theo tầm nhìn chiến lược sao cho từng tỉnh duyên hải miền Trung có thể phát huy tối đa lợi thế riêng có trong quá trình phân công và hợp tác đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế biển của tỉnh mình và của toàn khu vực. Trong quá trình ấy, Đà Nẵng có thể làm những gì cho các tỉnh duyên hải miền Trung và ngược lại có thể thừa hưởng những gì từ các tỉnh duyên hải miền Trung?

Nghị quyết số 36-NQ/TW “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đang mở ra cách nghĩ cách làm mới về kinh tế biển, cũng là mở ra triển vọng mới cho kinh tế biển của thành phố cảng biển Đà Nẵng

Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã có quyết định phê duyệt Đề án “Phát triển ngành kinh tế biển thành phố Đà Nẵng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030” với mục tiêu tăng trưởng dịch vụ kinh tế biển từ 12% – 15%. Đề án này vừa là sự kế thừa kết quả của mười năm phát triển kinh tế biển theo tinh thần Nghị quyết số 09-NQ/TW, vừa là sự đón đầu bắt nhịp những quan điểm và mục tiêu nêu trong Nghị quyết số 36-NQ/TW. Đương nhiên mọi việc không hề đơn giản trong bối cảnh tình hình quốc tế tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tranh chấp chủ quyền ranh giới biển và sự bất đồng giữa các nước tại Biển Đông; ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu như dự báo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.

Thứ nhất, đối với Đà Nẵng, mặc dù tỷ trọng nông nghiệp – bao gồm cả ngư nghiệp – trong cơ cấu kinh tế của thành phố là rất thấp, nhưng ngư dân Đà Nẵng vẫn kiên trì bám biển, ngày đêm khai thác hải sản ở ngư trường truyền thống Hoàng Sa và các vùng biển xa bờ khác không chỉ để nâng cao giá trị kinh tế, cũng không chỉ để kiếm sống mưu sinh mà còn quan trọng hơn là để thay mặt cả nước khẳng định chủ quyền của đất nước trên Biển Đông. Chính vì thế, Đà Nẵng cần quán triệt và tập trung thực hiện có hiệu quả chủ trương lớn nêu trong Nghị quyết số 36-NQ/TW: Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ và viễn dương phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển (…) hiện đại hóa công tác quản lý nghề cá trên biển; đẩy mạnh liên kết sản xuất theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; xây dựng một số doanh nghiệp mạnh tham gia khai thác hải sản xa bờ và hợp tác khai thác viễn dương; đầu tư nâng cấp các cảng cá, bến cá, khu neo đậu tàu thuyền, tổ chức tốt dịch vụ hậu cần nghề cá (…), tăng cường năng lực tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn (…), nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên tai (…), bảo đảm năng lực xử lý tốt các tình huống trên biển, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển.

Có như vậy mới có thể phát triển nghề cá truyền thống, mới có thể duy trì đội ngũ ngư dân thực hiện “nhiệm vụ kép” giữa sóng gió biển khơi; đồng thời mới có thể ngăn ngừa không để một lần nữa xảy ra thảm nạn Chanchu năm 2006 khiến 250 ngư dân bỏ mình trên biển do không được báo bão kịp thời, không để một lần nữa xảy ra sự cố tàu đánh cá ĐNA 90152 TS bị đâm chìm năm 2014…

Thứ hai, đẩy mạnh giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, Đà Nẵng cũng cần quán triệt và thực hiện có hiệu quả chủ trương lớn nêu trong Nghị quyết số 36-NQ/TW. Từ năm học 2023 – 2023, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng đã biên soạn hai tập tài liệu – một dành cho cấp trung học cơ sở và một dành cho cấp trung học phổ thông để tuyên truyền, giáo dục về quần đảo Hoàng Sa trong các trường học, nay cần tích hợp một số nội dung nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức, hiểu biết về biển, đại dương, kỹ năng sinh tồn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, tránh thiên tai cho học sinh, sinh viên trong tất cả các bậc học, cấp học. Cũng cần rút kinh nghiệm về việc đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế biển trên địa bàn Đà Nẵng trong tư duy và nhãn quan liên kết kinh tế vùng mười năm qua, chẳng hạn nếu như có sự hợp tác và phân công hợp lý cùng có lợi giữa các cơ sở đào tạo đang ngày càng phát triển trên địa bàn từng tỉnh sao cho “không đụng hàng” – cũng là đào tạo bác sĩ nhưng Đà Nẵng sẽ “không đụng hàng” với Huế nếu chọn đi vào lĩnh vực chuyên sâu của y học biển – thì nhất định sẽ có thêm nguồn lực nhằm đáp ứng yêu cầu hết sức đa dạng về nhân lực cho các ngành kinh tế biển và góp thần thực hiện hiệu quả yêu cầu: “Phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao phù hợp với nhu cầu thị trường; có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút nhân tài, từng bước hình thành đội ngũ các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia đạt trình độ quốc tế, có chuyên môn sâu về biển và đại dương”.

Thứ ba, phát triển kinh tế hàng hải, trọng tâm là khai thác có hiệu quả các cảng biển và dịch vụ vận tải biển. Quy hoạch, xây dựng, tổ chức khai thác đồng bộ, có hiệu quả các cảng biển tổng hợp, cảng trung chuyển quốc tế, cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trợ; xây dựng hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông các cảng biển với các vùng, miền, địa phương trong nước và quốc tế. Muốn vậy, Đà Nẵng phải nỗ lực vượt bậc để nhanh chóng hình thành Cảng Liên Chiểu với tư cách là điểm cuối của Hành lang kinh tế Đông Tây II vừa để giảm tải cho Cảng Tiên Sa vừa để có thể sớm chuyển Cảng Tiên Sa thành một cảng hành khách phục vụ du lịch biển, góp phần “kết nối với các tuyến du lịch quốc tế để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của thế giới” như tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW./.

Nguồn Tapchicongsan.org.vn

Nghị Quyết Trung Ương 8 Về Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế Biển

Ngày 22-10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW). Báo Người Lao Động trân trọng giới thiệu toàn văn nghị quyết:

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2023, nhận thức của toàn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững; công tác tìm kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải cơ bản được bảo đảm; công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển được triển khai chủ động, toàn diện. Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất nước; hệ thống kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng biển được cải thiện. Nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực về biển đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được chú trọng. Hệ thống chính sách, pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước về biển, đảo từng bước được hoàn thiện và phát huy hiệu lực, hiệu quả.

Tuy nhiên, việc thực hiện nghị quyết vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức trong phát triển bền vững kinh tế biển. Phát triển kinh tế biển chưa gắn kết hài hoà với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Công tác bảo vệ an ninh, an toàn, phối hợp tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, ứng phó với sự cố môi trường trên biển còn nhiều bất cập. Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra chưa đạt được; lợi thế, tiềm năng là cửa ngõ vươn ra thế giới chưa được phát huy đầy đủ; việc thực hiện chủ trương phát triển một số ngành kinh tế biển mũi nhọn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Sự liên kết giữa các vùng biển, ven biển; vùng ven biển với vùng nội địa; địa phương có biển với địa phương không có biển và giữa các ngành, lĩnh vực còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả. Ô nhiễm môi trường biển ở nhiều nơi còn diễn ra nghiêm trọng, ô nhiễm rác thải nhựa đã trở thành vấn đề cấp bách; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm; một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức; công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực còn nhiều hạn chế, bất cập. Khoa học và công nghệ, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực biển chưa trở thành nhân tố then chốt trong phát triển bền vững kinh tế biển. Hợp tác quốc tế về biển chưa hiệu quả. Khoảng cách giàu – nghèo của người dân ven biển có xu hướng ngày càng tăng. Việc giữ gìn giá trị, phát huy bản sắc văn hoá biển chưa được quan tâm đúng mức.

II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU

1. Bối cảnh, tình hình

Dự báo trong thời gian tới, tình hình quốc tế tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tranh chấp chủ quyền ranh giới biển và sự bất đồng giữa các nước tại biển Đông. Ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu. Phát triển bền vững, hài hoà giữa phát triển với bảo tồn biển trở thành xu thế chủ đạo. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học – công nghệ tạo ra nhiều cơ hội và thách thức. Ở trong nước, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững; thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; an ninh, trật tự, an toàn xã hội vẫn là những khó khăn, thách thức lớn.

2. Quan điểm

(1) Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển. Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và người dân Việt Nam.

(2) Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.

(3) Giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá biển đi đôi với xây dựng xã hội gắn kết, thân thiện với biển; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở công bằng, bình đẳng, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

(4) Tăng cường quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển tự nhiên; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đẩy mạnh đầu tư vào bảo tồn và phát triển giá trị đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển; bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái từ đất liền ra biển. Gắn bảo vệ môi trường biển với phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, sự cố môi trường, tăng cường hợp tác khu vực và toàn cầu.

(5) Lấy khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản, đào tạo nguồn nhân lực về biển; kết hợp huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập, hợp tác quốc tế, ưu tiên thu hút các nhà đầu tư chiến lược hàng đầu thế giới có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

3. Mục tiêu đến năm 2030

a) Mục tiêu tổng quát

Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.

b) Mục tiêu cụ thể

– Về kinh tế biển: Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 – 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển.

– Về xã hội: Chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước; thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế – xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục…

– Về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển: Tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và thuộc nhóm nước dẫn đầu trong ASEAN, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ biển đạt trình độ tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ biển có năng lực, trình độ cao.

– Về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng:

Đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng. Tối thiểu 50% diện tích vùng biển Việt Nam được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỉ lệ bản đồ 1: 500.000 và điều tra tỉ lệ lớn ở một số vùng trọng điểm. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hoá về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật.

Ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương. Ở các tỉnh, thành phố ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường.

Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.

Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bao gồm cả thông qua việc ứng dụng công nghệ vũ trụ và trí tuệ nhân tạo, đạt trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực. Có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển.

4. Tầm nhìn đến năm 2045

Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.

III- MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG LỚN VÀ KHÂU ĐỘT PHÁ

1. Một số chủ trương lớn

(1) Phát triển kinh tế biển và ven biển

a) Phát triển các ngành kinh tế biển

Đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới. Cụ thể:

– Du lịch và dịch vụ biển: Chú trọng đầu tư hạ tầng du lịch; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm khoa học, du lịch cộng đồng, các khu du lịch nghỉ dưỡng biển chất lượng cao tại các vùng ven biển; xây dựng, phát triển, đa dạng hoá các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển đẳng cấp quốc tế trên cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị di sản thiên nhiên, văn hoá, lịch sử đặc sắc của các vùng, miền, kết nối với các tuyến du lịch quốc tế để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của thế giới. Nghiên cứu thí điểm phát triển du lịch ra các đảo, vùng biển xa bờ. Tăng cường năng lực tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; đẩy mạnh các hoạt động thám hiểm khoa học; chú trọng công tác giáo dục, y tế biển… Hỗ trợ, tạo điều kiện để người dân ven biển chuyển đổi nghề từ các hoạt động có nguy cơ xâm hại, tác động tiêu cực đến biển sang bảo vệ, bảo tồn, tạo sinh kế bền vững, việc làm mới ổn định, nâng cao thu nhập cho người dân.

– Kinh tế hàng hải: Trọng tâm là khai thác có hiệu quả các cảng biển và dịch vụ vận tải biển. Quy hoạch, xây dựng, tổ chức khai thác đồng bộ, có hiệu quả các cảng biển tổng hợp, cảng trung chuyển quốc tế, cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trợ; xây dựng hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông các cảng biển với các vùng, miền, địa phương trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh phát triển đội tàu vận tải biển với cơ cấu hợp lý, ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường vận tải nội địa, tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng vận tải, từng bước gia tăng, chiếm lĩnh thị phần quốc tế.

– Khai thác dầu khí và các tài nguyên, khoáng sản biển khác: Nâng cao năng lực của ngành dầu khí và các ngành tài nguyên, khoáng sản biển khác; từng bước làm chủ công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong thời kỳ mới. Đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng dầu khí; nghiên cứu, thăm dò các bể trầm tích mới, các dạng hydrocarbon phi truyền thống; gắn việc tìm kiếm, thăm dò dầu khí với điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng các tài nguyên, khoáng sản biển khác, khoáng sản biển sâu, đặc biệt là các khoáng sản có trữ lượng lớn, giá trị cao, có ý nghĩa chiến lược. Nâng cao hiệu quả khai thác các tài nguyên khoáng sản biển gắn với chế biến sâu; kết hợp hài hoà giữa khai thác, chế biến với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển.

– Nuôi trồng và khai thác hải sản: Chuyển từ nuôi trồng, khai thác hải sản theo phương thức truyền thống sang công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ và viễn dương phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển đi đôi với thực hiện đồng bộ, có hiệu quả công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho ngư dân. Thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính tận diệt. Hiện đại hoá công tác quản lý nghề cá trên biển; đẩy mạnh liên kết sản xuất theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; xây dựng một số doanh nghiệp mạnh tham gia khai thác hải sản xa bờ và hợp tác khai thác viễn dương. Đầu tư nâng cấp các cảng cá, bến cá, khu neo đậu tàu thuyền, tổ chức tốt dịch vụ hậu cần nghề cá. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, khai thác, bảo quản, chế biến hải sản, tạo ra các sản phẩm chủ lực, có chất lượng, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường.

– Công nghiệp ven biển: Phải dựa trên cơ sở quy hoạch, cân nhắc lợi thế về điều kiện tự nhiên của từng vùng, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao thân thiện với môi trường, công nghiệp nền tảng, công nghệ nguồn. Phát triển hợp lý các ngành sửa chữa và đóng tàu, lọc hoá dầu, năng lượng, cơ khí chế tạo, công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ.

– Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới: Thúc đẩy đầu tư xây dựng, khai thác điện gió, điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác. Phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, tiến tới làm chủ một số công nghệ, thiết kế, chế tạo và sản xuất thiết bị; ưu tiên đầu tư phát triển năng lượng tái tạo trên các đảo phục vụ sản xuất, sinh hoạt, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Quan tâm phát triển một số ngành kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đa dạng sinh học biển như dược liệu biển, nuôi trồng và chế biến rong, tảo, cỏ biển…

b) Phát triển đồng bộ, từng bước hình thành khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển

Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Khu kinh tế ven biển phải đóng vai trò chủ đạo trong phát triển vùng và gắn kết liên vùng. Đổi mới tư duy trong xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống đô thị ven biển có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại theo mô hình, tiêu chí tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. Đẩy nhanh xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển theo hướng tiếp cận mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; giải quyết tốt vấn đề môi trường, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

(2) Phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hoà giữa bảo tồn và phát triển

Quy hoạch không gian biển theo các vùng bảo vệ – bảo tồn, vùng đệm và vùng phát triển kinh tế – xã hội để phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hoá, tính đa dạng của hệ sinh thái, bảo đảm tính liên kết vùng, giữa địa phương có biển và không có biển.

– Vùng biển và ven biển phía Bắc (Quảng Ninh – Ninh Bình): Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển; là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gắn với cảng quốc tế Lạch Huyện; phát triển Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới.

– Vùng biển và ven biển Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ (Thanh Hoá – Bình Thuận): Phát triển các cảng biển nước sâu trung chuyển quốc tế, cảng biển chuyên dụng gắn với các khu liên hợp công nghiệp, dầu khí, điện, năng lượng tái tạo, công nghiệp sạch; phát triển các trung tâm du lịch lớn; nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần và hạ tầng nghề cá.

– Vùng biển và ven biển Đông Nam Bộ (Bà Rịa – Vũng Tàu – TP HCM): Phát triển cảng biển container quốc tế, dịch vụ hậu cần cảng biển, dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải, công nghiệp khai thác, chế biến dầu khí, công nghiệp hỗ trợ và các dịch vụ ngành dầu khí.

– Vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ (Tiền Giang – Cà Mau – Kiên Giang): Tập trung xây dựng phát triển Phú Quốc thành trung tâm dịch vụ, du lịch sinh thái biển mạnh mang tầm quốc tế; phát triển công nghiệp khí, chế biến khí, điện khí, năng lượng tái tạo, nuôi trồng, khai thác hải sản, dịch vụ hậu cần, hạ tầng nghề cá; kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới.

(3) Bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai

Mở rộng diện tích, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển trên cơ sở quy hoạch không gian biển quốc gia; chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển; bảo đảm tính toàn vẹn và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển.

Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt theo chuẩn quốc tế về môi trường đối với các dự án đầu tư có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao khu vực ven biển, bảo đảm phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra các sự cố gây ô nhiễm môi trường, giảm thiểu và xử lý hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm. Đầu tư xây dựng, củng cố lực lượng, trang thiết bị giám sát, cảnh báo tự động về chất lượng môi trường, ứng phó với sự cố môi trường, hoá chất độc hại trên biển; quản lý rác thải biển, nhất là rác thải nhựa; cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường biển.

Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên tai, động đất, sóng thần, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng trên cơ sở ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, đặc biệt là áp dụng các mô hình thông minh có khả năng thích ứng, chống chịu với thiên tai và tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống biển xâm thực, xói lở bờ biển, ngập lụt, xâm nhập mặn…

(4) Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hoá biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển

Nâng cao đời sống, bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư vùng ven biển, trên đảo và những người lao động trên biển. Chú trọng phát triển các thiết chế văn hoá cho cộng đồng dân cư biển và ven biển; phát huy bản sắc, giá trị lịch sử và văn hoá dân tộc, tri thức tốt đẹp trong ứng xử với biển, coi đây là nền tảng quan trọng để xây dựng văn hoá biển. Bảo tồn không gian văn hoá, kiến trúc và di sản thiên nhiên. Nâng cao nhận thức về biển và đại dương, xây dựng xã hội, ý thức, lối sống, hành vi văn hoá gắn bó, thân thiện với biển. Phát huy tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng dân cư vùng biển, ven biển. Bảo đảm quyền tiếp cận, tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với biển một cách công bằng, bình đẳng.

(5) Bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế

Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ theo hướng hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển; không ngừng củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân khu vực biển; bảo đảm năng lực xử lý tốt các tình huống trên biển, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển. Nâng cao năng lực ứng phó với các mối đe doạ an ninh truyền thống và phi truyền thống, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng các vấn đề về biển, đảo để chống phá. Kiên trì xây dựng và duy trì môi trường hoà bình, ổn định và trật tự pháp lý trên biển, tạo cơ sở cho việc khai thác và sử dụng biển an toàn, hiệu quả. Tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc bảo tồn, sử dụng bền vững biển và đại dương; tranh thủ tối đa các nguồn lực, sự hỗ trợ quốc tế để nâng cao năng lực quản lý và khai thác biển, trong đó chú trọng các lĩnh vực khoa học, công nghệ, tri thức và đào tạo nguồn nhân lực.

2. Một số khâu đột phá

(2) Phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, khoa học, công nghệ mới, thu hút chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, nhân lực chất lượng cao.

(3) Phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ, mạng lưới giao thông kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các khu công nghiệp, khu đô thị, các vùng biển với các cảng biển dựa trên hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, kết nối chiến lược Bắc – Nam, Đông – Tây giữa các vùng trong nước và với quốc tế.

IV- CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn xã hội

Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức Đảng, chính quyền trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các chủ trương, giải pháp về phát triển bền vững kinh tế biển. Nâng cao hiệu quả, đa dạng hoá các hình thức, nội dung tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về biển, đảo, chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong toàn hệ thống chính trị, trong nhân dân, đồng bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế; khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam là duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tôn trọng luật pháp quốc tế trên biển. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức đoàn thể các cấp trong công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân giám sát và phản biện xã hội việc thực hiện nghị quyết.

2. Hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển

Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển từ Trung ương đến địa phương bảo đảm hiện đại, đồng bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, chuyên môn cao. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, giữa Trung ương với địa phương về công tác biển, đảo. Kiện toàn cơ quan điều phối liên ngành chỉ đạo thống nhất việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu; tăng cường năng lực cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là cơ quan thường trực giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, đảo.

Kiện toàn mô hình tổ chức, nâng cao năng lực quản lý các đảo, quần đảo và vùng ven biển. Thực hiện bố trí dân cư trên các đảo gắn với chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất theo hướng thân thiện với biển và môi trường biển.

3. Phát triển khoa học, công nghệ và tăng cường điều tra cơ bản biển

Thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến; đẩy mạnh nghiên cứu, xác lập luận cứ khoa học cho việc hoạch định, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển bền vững kinh tế biển.

Ưu tiên đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực biển; hình thành các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học biển, khai thác đáy biển sâu, công nghệ vũ trụ trong giám sát biển đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Đánh giá tiềm năng và lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, hệ sinh thái và các ngành, lĩnh vực kinh tế biển như hàng hải, khai thác, nuôi trồng, chế biến thuỷ, hải sản, năng lượng tái tạo, thông tin và công nghệ số, sinh dược học biển, thiết bị tự vận hành ngầm… Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; mở rộng nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong điều tra, nghiên cứu ở các vùng biển quốc tế. Đầu tư đội tàu nghiên cứu biển tiên tiến, thiết bị ngầm dưới biển có khả năng nghiên cứu ở các vùng biển sâu.

4. Đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển

Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, kiến thức, hiểu biết về biển, đại dương, kỹ năng sinh tồn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, tránh thiên tai cho học sinh, sinh viên trong tất cả các bậc học, cấp học. Phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao phù hợp với nhu cầu thị trường; có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút nhân tài, từng bước hình thành đội ngũ các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia đạt trình độ quốc tế, có chuyên môn sâu về biển và đại dương.

Có cơ chế hỗ trợ, nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nguồn nhân lực biển đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu lao động của các ngành kinh tế biển và việc chuyển đổi nghề của người dân.

5. Tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển

Hoàn thiện tổ chức các lực lượng bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển. Đầu tư trang thiết bị hiện đại, chú trọng đào tạo nhân lực, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và tăng cường khả năng hiệp đồng, tác chiến của các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đất nước. Xây dựng lực lượng công an khu vực ven biển, đảo, các khu đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển vững mạnh, làm nòng cốt bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vùng biển, đảo. Nâng cao năng lực hoạt động của các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ phòng, tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên tai, cứu nạn, cứu hộ, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng khu vực biển, đảo; bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư, người lao động và các hoạt động kinh tế khu vực biển; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vùng biển, đảo.

6. Chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá; chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển, đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên biển Đông bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển. Tăng cường quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các nước bạn bè truyền thống, các nước có tiềm lực về biển, các nước có chung lợi ích trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là các hoạt động hợp tác biển trong khuôn khổ ASEAN; phối hợp với các nước thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC), thúc đẩy ký Bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC).

Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế về quản lý, sử dụng, bảo tồn bền vững biển, đại dương; thực hiện nghiêm túc các điều ước, thoả thuận khu vực và quốc tế về biển, đại dương mà Việt Nam đã tham gia; nghiên cứu tham gia các điều ước quốc tế quan trọng về biển, trước mắt ưu tiên các lĩnh vực về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển; đẩy mạnh tham gia nghiên cứu khoa học, khảo sát, thăm dò, khai thác tài nguyên tại các vùng biển quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác, các tổ chức quốc tế và khu vực để phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng vùng biển, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào các ngành kinh tế biển, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

7. Huy động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh

Đẩy mạnh thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ động thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến từ các nước phát triển. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển các huyện đảo, xã đảo tiền tiêu, xa bờ; xã hội hoá đầu tư kết cấu hạ tầng biển, đảo, các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tập đoàn kinh tế biển mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trên biển, đặc biệt là ở các vùng biển xa bờ, viễn dương. Tiếp tục cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành kinh tế biển, bảo đảm nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh.

V- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban Đảng, ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc nội dung Nghị quyết; xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch hành động với các mục tiêu, tiêu chí, nhiệm vụ, giải pháp, nguồn lực, cơ chế kiểm tra, giám sát, cơ quan chịu trách nhiệm và lộ trình chi tiết để cụ thể hoá, thể chế hoá nghị quyết trong phạm vi trách nhiệm của cơ quan, tổ chức mình; tăng cường lãnh đạo, tạo sự thống nhất cả về nhận thức và hành động trong việc triển khai thực hiện nghị quyết.

2. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo công tác xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp phục vụ triển khai thực hiện nghị quyết; tăng cường giám sát của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội đối với phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.

5. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia, giám sát việc thực hiện nghị quyết.

Sau 10 Năm Thực Hiện Chiến Lược Phát Triển Năng Lượng Quốc Gia

Bất cập của Quy hoạch điện lực quốc gia và kiến nghị khắc phục

KỲ 1: THÀNH TỰU 10 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG QUỐC GIA

 

PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM – TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Chiến lược đã đề ra các mục tiêu cụ thể là:

1/ Phấn đấu đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, trong đó năng lượng sơ cấp năm 2010 đạt khoảng 47,5 – 49,5 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2023 đạt khoảng 100 – 110 triệu TOE, đến năm 2025 khoảng 110 – 120 triệu TOE và đến năm 2050 khoảng 310 – 320 triệu TOE.

2/ Nâng cao độ chính xác trong việc đánh giá trữ lượng các nguồn năng lượng sơ cấp (than, dầu khí, thuỷ điện và u-ra-ni-um). Mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới trong việc tìm kiếm, thăm dò, khai thác than, dầu khí và các dạng năng lượng khác ở nước ngoài bổ sung nguồn năng lượng thiếu hụt trong nước.

3/ Phát triển nguồn, lưới điện, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế – xã hội, đến năm 2010 độ tin cậy cung cấp của nguồn điện là 99,7%; lưới điện bảo đảm tiêu chuẩn n-1.

4/ Phát triển các nhà máy lọc dầu, từng bước đáp ứng đủ nhu cầu về các sản phẩm dầu trong nước, đưa tổng công suất các nhà máy lọc dầu lên khoảng 25 đến 30 triệu tấn dầu thô vào năm 2023.

5/ Bảo đảm mức dự trữ chiến lược xăng dầu quốc gia đạt 45 ngày tiêu thụ bình quân vào năm 2010, đạt 60 ngày vào năm 2023 và đạt 90 ngày vào năm 2025.

6/ Phấn đấu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 3% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010; khoảng 5% vào năm 2023, và khoảng 11% vào năm 2050.

7/ Hoàn thành chương trình năng lượng nông thôn, miền núi. Đưa số hộ nông thôn sử dụng năng lượng thương mại để đun nấu lên 50% vào năm 2010 và 80% vào năm 2023. Đến năm 2010 đạt 95% số hộ dân nông thôn có điện, đến năm 2023 hầu hết số hộ dân nông thôn có điện.  

8/ Xây dựng các mục tiêu, tiêu chuẩn dài hạn về môi trường theo hướng thống nhất với tiêu chuẩn môi trường khu vực và thế giới, phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước. Kiểm soát và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động năng lượng; đến năm 2023 tất cả các công trình năng lượng phải đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường.

9/ Chuyển mạnh các ngành điện, than, dầu khí sang hoạt động theo cơ chế thị trường cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước. Hình thành thị trường bán lẻ điện cạnh tranh giai đoạn sau năm 2023; hình thành thị trường kinh doanh than, dầu khí trong giai đoạn từ nay đến năm 2023.

10/ Tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết và đồng bộ để đưa tổ máy điện hạt nhân đầu tiên vận hành vào năm 2023, sau đó tăng nhanh tỷ trọng điện hạt nhân trong cơ cấu năng lượng quốc gia. Đến năm 2050, năng lượng điện hạt nhân chiếm khoảng 15 – 20% tổng tiêu thụ năng lượng thương mại toàn quốc.

11/ Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng. Phấn đấu từ năm 2010-2023, thực hiện liên kết lưới điện khu vực (bằng cấp điện áp đến 500 kV), từ năm 2023 – 2023, thực hiện liên kết hệ thống khí thiên nhiên khu vực.

Kết quả đạt được sau 10 năm thực hiện Chiến lược

Các chỉ tiêu chính đạt được như sau:

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

2007

2010

2023

2023

2023

Năng lượng sơ cấp

 

 

 

 

 

 

Tổng tiêu thụ 

106toe

30,6

44,3

63,7

64,8

68,23

Chỉ số phát triển

%

100

144,8

143,8

101,7

105,2

Ngành điện

 

 

 

 

 

 

Công suất đặt

MW

13.512

21.542

38.523

42.340,96

46.049,56

Chỉ số phát triển

%

100

159,4

178,8

109,9

108,8

Điện cung cấp

GWh

67,8

97,3

160,3

178,4

192,9

Chỉ số phát triển

%

100

143,5

164,7

111,3

108,1

– Nhập khẩu

2.630

5.599

2.393

2.715

1.321

– Điện phát ra

Tỷ kWh

64,2

91,7

157,9

175,7

191,6

Chỉ số phát triển

%

100

142,8

172,2

111,3

109,0

Ngành than

 

 

 

 

 

 

Sản lượng than cung cấp

103T

43.268

46.006

48.391

51.726

52.497

Chỉ số phát triển

%

100

106,3

105,6

106,5

101,5

Sản lượng khai thác

 

42.483

44.835

41.464

38.527

37.9995

Chỉ số phát triển

%

100

105,5

92,9

92,5

98,6

Nhập khẩu 

785

1.171

6.927

13.199

14.498

Chỉ số phát triển

%

100

149,2

591,5

190,5

109,8

Xuất khẩu

106T

32,1

19,8

1,7

1,4

1,15

Ngành dầu khí

 

 

 

 

 

 

Dầu thô

103T

 

 

 

 

 

Tổng sản lượng

 

15.920

15.014

18.746

17.230

13.5675

Chỉ số phát triển

%

100

94,3

124,9

91,9

78,7

Khai thác trong nước

 

15.920

14.795

16.880

15.200

12.0003

Khai thác ở nước ngoài

 

217

1.866

2.030

1.5673

Xuất khẩu

 

15.062

7.977

9.181

6.848

6.806

Khí tự nhiên dạng khí

103m3

7.080

9.402

10.660

10.610

9.920

Chỉ số phát triển

%

100

132,8

113,4

99,5

93,5

Xuất khẩu xăng dầu

106USD

627

969

2.875

3.170

3.2855

Nhập khẩu xăng dầu

103T

13.195

9.853

10.415

11.753

6.9915

Nguồn: Thống kê Năng lượng Việt Nam 2013; 2023; Niên giám TKVN 2010 & 2023, Báo cáo của EVN 2023 & 2023 và  BP Statistical June 2023, Ước tính; Tổng cục Hải Quan; Thời báo KTVN 2023-2023.

Qua số liệu nêu trên cho thấy, từ năm 2007 đến năm 2023 sau 10 năm thực hiện Chiến lược đã đạt được các kết quả chủ yếu sau: 

Thứ nhất: Về năng lượng sơ cấp (NLSC): Tổng năng lượng sơ cấp tiêu thụ đã tăng từ 30,6 lên khoảng 68,2 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), tăng gần 2,23 lần.

Thứ hai: Về ngành điện: Tổng công suất các nguồn điện tăng từ 13.512 lên 46.050 MW, tăng 3,4 lần; tổng sản lượng điện phát ra tăng từ 64,2 lên 191,6 tỷ kWh, tăng gần 3 lần. Trong đó, thủy điện và điện từ các nguồn năng lượng tái tạo khác chiếm tới 44% tổng công suất nguồn điện và 46,5% tổng sản lượng điện phát ra; tổng lượng điện nhập khẩu giảm từ 2.630 xuống còn 1.321 triệu kWh, giảm một nửa; tỷ lệ hộ dân nông thôn có điện đến năm 2023 đạt 98,83%; đã liên kết lưới điện cấp 110kV với các nước: Trung Quốc, Cămpuchia và Lào (chủ yếu phục vụ cho nhập khẩu điện từ Trung Quốc, Lào và xuất khẩu điện cho Cămpuchia). Tỷ lệ tổn thất điện năng đã giảm từ mức khoảng 10% năm 2007 xuống còn hơn 7% năm 2023.

Thứ ba: Về ngành than: Sản lượng than sạch khai thác trong nước giảm từ 42,5 xuống còn 38 triệu tấn, giảm 10,6%; sản lượng xuất khẩu giảm từ 32,1 xuống còn 1,1 triệu tấn, giảm hơn 29 lần; sản lượng nhập khẩu tăng từ 0,8 lên 14,5 triệu tấn, tăng hơn 18,1 lần.

Tỷ lệ tổn thất than trong khai thác giảm mạnh từ năm 2007 đến năm 2023: trong khai thác hầm lò giảm từ 32,9% xuống còn khoảng 23% và trong khai thác lộ thiên giảm từ khoảng 8% xuống còn hơn 4,5%.

Đến nay các đơn vị trong ngành than đã lập và thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) được phê duyệt, đã đầu tư xây dựng hệ thống chống bụi, hệ thống xử lý nước thải đảm bảo nước thải ra môi trường đáp ứng yêu cầu theo quy chuẩn, trồng cây phục hồi môi trường tại các khu vực khai thác, các bãi thải đất đá sau khi kết thúc hoạt động.

Đặc biệt, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã hoàn thành hệ thống vận chuyển than bằng băng tải, với tổng công suất trên 20 triệu tấn/năm thay cho vận chuyển than bằng ô tô trên đường bộ tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh và đã đầu tư xây dựng một nhà máy xử lý chất thải nguy hại tại xã Dương Huy (TP. Cẩm Phả, Quảng Ninh) để xử lý các chất thải rắn, chất thải nguy hại của các đơn vị trong và ngoài Tập đoàn trên địa bàn các tỉnh phía Bắc.   

Thứ tư: Về ngành dầu – khí: Sản lượng dầu thô giảm từ 15,9 xuống còn 13,6 triệu tấn. Trong đó, khai thác trong nước giảm từ 15,9 xuống còn khoảng 12 triệu tấn; sản lượng khai thác ở nước ngoài từ chưa có đã đạt khoảng trên dưới 2 triệu tấn/năm; sản lượng dầu thô xuất khẩu giảm từ 15,1 xuống còn 6,8 triệu tấn; sản lượng khí tự nhiên ở dạng khí đã tăng từ 7 tỷ m3/năm lên khoảng 10 tỷ m3/năm. Đặc biệt, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất công suất 6,5 triệu tấn dầu thô/năm đã đi vào sản xuất từ năm 2009 và đến năm 2023 có thêm Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn công suất 10,0 triệu tấn bắt đầu đi vào hoạt động.

Thứ năm: Về năng lượng tái tạo: Sản lượng năng lượng tái tạo (không kể thủy điện các loại) đến năm 2023 đạt khoảng 0,1 triệu TOE, bằng 0,16% tổng NLSC; điện năng từ năng lượng mới và tái tạo đến năm 2023 đạt tổng công suất đặt 380MW (chiếm 0,83% tổng công suất nguồn điện) và sản lượng điện sản xuất 549 triệu kWh (chiếm 0,3% tổng sản lượng điện phát ra).

Thứ sáu: Về thị trường năng lượng: Đã bước đầu hình thành và vận hành thị trường phát điện cạnh tranh; sản xuất kinh doanh xăng dầu, khí đốt về cơ bản đã theo cơ chế thị trường, riêng sản xuất than còn nửa vời, lẫn lộn giữa theo thị trường và theo kế hoạch hóa.

Có thể nói ngành năng lượng thời gian qua đã có sự phát triển đáng kể, đặc biệt là ngành điện, về cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. Nếu tính cả thủy điện thì Việt Nam có tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng sơ cấp nói chung và tổng điện năng phát ra nói riêng vào nhóm các nước cao nhất thế giới.

Kỳ tới: Bất cập trong thực hiện các quy hoạch - tiềm ẩn rủi ro an ninh năng lượng

Lưu ý: Mọi trích dẫn và sử dụng bài viết này cần được sự đồng ý của tác giả thông qua Tạp chí Năng lượng Việt Nam.

Bộ Chính Trị Ban Hành Nghị Quyết Về Chiến Lược Phát Triển Năng Lượng

Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết (NQ) về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Sau 15 năm thực hiện Kết luận số 26-KL/TW, ngày 24.10.2003 của Bộ Chính trị khoá IX về Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện lực Việt Nam và 10 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25.10.2007 của Bộ Chính trị khoá X về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2050, ngành năng lượng nói chung và ngành điện lực nói riêng đã có bước phát triển nhanh, tương đối đồng bộ trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực; bám sát định hướng và đạt được nhiều mục tiêu cụ thể đề ra.

Tuy vậy, ngành năng lượng nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Việc phát triển năng lượng của Việt Nam trong những năm tới yêu cầu có tư duy mới. Nghị quyết định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 sẽ đáp ứng được những yêu cầu trong tình hình mới.

Nghị quyết đã tập trung vào các mục tiêu cụ thể như Cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2023 – 2030; Tỉ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 – 20% vào năm 2030; 25 – 30% vào năm 2045; Xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối khu vực; Giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045…

Nghị quyết cũng đã đưa ra 10 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cho định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 gồm:

Phát triển các nguồn cung năng lượng sơ cấp theo hướng tăng cường khả năng tự chủ, đa dạng hoá, bảo đảm tính hiệu quả, tin cậy và bền vững.

Phát triển nhanh và bền vững ngành điện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Cơ cấu lại các ngành và khu vực tiêu thụ năng lượng song song với thực hiện chính sách về sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả.

Phát triển hạ tầng năng lượng bền vững, kết nối khu vực; nâng cao nội lực ngành công nghiệp chế tạo, dịch vụ phục vụ ngành năng lượng.

Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng; khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia xã hội hoá phát triển năng lượng.

Đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông, hiện đại và hiệu quả, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phát triển khoa học – công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tích cực, chủ động xây dựng các đối tác chiến lược để thực hiện mục tiêu nhập khẩu năng lượng trong dài hạn và đầu tư tài nguyên năng lượng ở nước ngoài.

Thực thi chính sách bảo vệ môi trường ngành năng lượng gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội trong phát triển ngành năng lượng.

Hải Phòng: Xây Dựng Và Phát Triển Thành Phố Hải Phòng Đến Năm 2030 Tầm Nhìn Đến 2045

Đồng chí Nguyễn Văn Tùng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố quán triệt nội dung Chương trình hành động của Ban Thường vụ Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW. Đồng chí Đào Khánh Hà, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy triển khai Kế hoạch quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW và Chỉ thị số 35-CT/TW.

Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tuyến từ điểm cầu Trung tâm Hội nghị thành phố và các quận, huyện trên địa bàn thành phố.

Quán triệt Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, đồng chí Bí thư Thành ủy nhấn mạnh, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/01/2023 là kết quả của một quá trình chuẩn bị hết sức công phu, tổng kết sâu sắc cả về thực tiễn và lý luận. Trên cơ sở tổng kết sâu sắc 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, xem xét toàn diện các yếu tố trước mắt và lâu dài, các mối quan hệ giữa thành phố với các địa phương khác trong vùng và cả nước, với Trung ương,… từ đó xây dựng Nghị quyết mới về phát triển thành phố Hải Phòng.

Với 5 quan điểm chỉ đạo, các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể cùng các nhóm nhiệm, giải pháp có tính khả thi cao đã được xác định, Nghị quyết 45 tiếp tục khẳng định chủ trương đúng đắn, phù hợp, kịp thời, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với thành phố Hải Phòng – vùng đất có vị trí trọng yếu về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.

Đồng chí Bí thư Thành ủy cũng khẳng định, Nghị quyết số 45-NQ/TW chính là cơ hội vô cùng to lớn, là “điểm tựa” quan trọng, tạo động lực để thúc đẩy Hải Phòng cất cánh mạnh mẽ hơn nữa trong thời kỳ mới. Do vậy, hơn ai hết, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hải Phòng phải chủ động triển khai nghiêm túc và có hiệu quả Nghị quyết quan trọng này. Phát huy cao độ sự đồng thuận của xã hội, vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị nhằm sớm đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống.

Sau Hội nghị trực tuyến, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng yêu cầu các cấp ủy Đảng tiếp tục tổ chức hội nghị học tập và quán triệt nội dung Nghị quyết 45 và Chỉ thị 35 tới toàn thể cán bộ, đảng viên trong toàn thành phố. Việc học tập cấp cơ sở hoàn thành muộn nhất trong tháng 8/2023./.

Dương Thị Bích

Cập nhật thông tin chi tiết về Hải Phòng Cần Chú Trọng Phát Triển Ba Trụ Cột Chiến Lược trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!