Xu Hướng 3/2023 # Hiện Tượng “Lẩn Tránh Pháp Luật” Trong Tư Pháp Quốc Tế # Top 5 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Hiện Tượng “Lẩn Tránh Pháp Luật” Trong Tư Pháp Quốc Tế # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Hiện Tượng “Lẩn Tránh Pháp Luật” Trong Tư Pháp Quốc Tế được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1. Khái niệm “lẩn tránh pháp luật”

Tư pháp quốc tế là một bộ phận của pháp luật quốc tế có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Đặc điểm cơ bản và đặc thù của đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là luôn xuất hiện yếu tố nước ngoài trong quan hệ pháp luật, chính đặc điểm này của đối tượng điều chỉnh mà tư pháp quốc tế có một phương pháp điều chỉnh đặc biệt: phương pháp xung đột. Phương pháp xung đột được xây dựng trên nền tảng của một hệ thống tổng thể các quy phạm xung đột chứa đựng trong văn bản pháp luật quốc gia (quy phạm xung đột quốc nội) và trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên (quy phạm xung đột quốc tế), là các quy phạm không trực tiếp giải quyết quan hệ pháp luật mà chỉ dẫn chiếu tới luật thực chất của quốc gia mà ở đó có các quy định thực tế phân định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ. Hệ thống pháp luật được quy phạm xung đột chỉ định áp dụng có thể có lợi, cũng có thể bất lợi cho một trong các bên tham gia quan hệ tranh chấp. Nguyên nhân của hiện tượng này là vì mỗi quốc gia trên thế giới đều có hệ thống quy phạm xung đột riêng của mình. Chính vì vậy, cùng một vụ việc nhưng cách giải quyết ở các quốc gia khác nhau sẽ rất khác nhau. Đây chính là cơ sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong tư pháp quốc tế.

Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh đều luôn chú trọng đến vấn đề quan hệ đó sẽ được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật thực chất của nước nào, vì đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ và như vậy, quyết định đến mức độ lợi ích hoặc mục đích mong muốn đạt được khi tham gia quan hệ của các bên. Tuy nhiên, việc luật thực chất của quốc gia nào sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ lại do quy phạm xung đột đã được áp dụng quyết định. Vì vậy, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi quy phạm xung đột của hệ thống pháp luật nào là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.

Khi nhận thấy hệ thống pháp luật thực chất do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến có khả năng sẽ gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ sẽ tìm cách tránh để không phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật đó và hướng đến một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn trên cơ sở vận dụng các quy phạm xung đột sao cho có lợi nhất. Như vậy, lẩn tránh là hiện tượng đương sự dùng những biện pháp cũng như thủ đoạn để tránh việc áp dụng hệ thống pháp luật đáng lẽ phải được áp dụng điều chỉnh các quan hệ của họ và nhắm tới hệ thống pháp luật khác có lợi hơn. Trong việc lẩn tránh này, quy phạm xung đột đóng vai trò rất quan trọng.

2. Thủ đoạn “lẩn tránh pháp luật”

Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ sử dụng một số thủ đoạn để áp dụng hệ thống pháp luật có lợi cho mình, tránh áp dụng hệ thống pháp luật lẽ ra phải được áp dụng vì nó bất lợi cho mình. Để áp dụng hệ thống pháp luật có lợi cho mình và tránh áp dụng hệ thống pháp luật bất lợi, chủ thể của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có thể áp dụng các thủ đoạn sau:

Loại thủ đoạn thứ nhất, lợi dụng sự khác nhau của các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật các nước. Các quy phạm xung đột của các nước khác nhau sẽ dẫn đến việc lựa chọn luật thực chất khác nhau khi cùng giải quyết một vấn đề. Nói rộng hơn, đây là thủ đoạn lợi dụng sự khác nhau giữa tư pháp quốc tế các nước.

Ví dụ: Khoản 1 Điều 104 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam quy định: “Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của luật này”. Vậy, theo tư pháp quốc tế Việt Nam, pháp luật điều chỉnh ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo luật của Việt Nam. Căn cứ để lựa chọn luật thực chất áp dụng ở đây là nơi cư trú của các bên.

Tuy nhiên, tư pháp quốc tế một số nước lại quy định pháp luật điều chỉnh ly hôn có yếu tố nước ngoài là luật của nước mà người chồng có quốc tịch vào thời điểm ly hôn, nghĩa là áp dụng căn cứ Luật Quốc tịch của đương sự. Giả sử anh A là công dân của nước X mà ở đó tư pháp quốc tế quy định pháp luật thực chất điều chỉnh ly hôn có yếu tố nước ngoài là luật thực chất của nước mà người chồng có quốc tịch vào thời điểm ly hôn. Vợ chồng anh A và chị B, trong đó anh A là công dân nước X, chị B là công dân của nước Y, cả hai đang thường trú tại Việt Nam, có tài sản ở Việt Nam. Do mâu thuẫn, họ quyết định ly hôn. Theo quy định của tư pháp quốc tế Việt Nam, vụ việc phải do pháp luật thực chất của Việt Nam giải quyết. Nhưng khi tìm hiểu pháp luật Việt Nam, A nhận thấy mình bị bất lợi hơn trong vấn đề phân chia tài sản nếu ly hôn ở Việt Nam so với ly hôn ở nước X. Vì vậy, A rời Việt Nam trở về nước X rồi nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án nước X, vụ việc được giải quyết theo pháp luật của nước X (pháp luật của nước người chồng mang quốc tịch). Sau khi có bản án, A xin công nhận và thi hành tại Việt Nam.

Đây là thủ đoạn lẩn tránh pháp luật dựa vào sự khác nhau của quy phạm xung đột của pháp luật nước X và quy phạm xung đột của pháp luật Việt Nam trong vấn đề ly hôn, dẫn đến pháp luật thực chất của nước X được áp dụng thay vì pháp luật được áp dụng là pháp luật thực chất của Việt Nam.

Loại thủ đoạn thứ hai, lợi dụng sự khác nhau trong quy phạm xung đột của chính nước có quy phạm xung đột được áp dụng để chọn luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Hệ thống tư pháp quốc tế Việt Nam chứa đựng một số quy phạm xung đột cho phép pháp luật Việt Nam hay pháp luật nước ngoài điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài. Chủ thể của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có thể sử dụng một số thủ đoạn để áp dụng pháp luật nước ngoài có lợi cho mình và tránh áp dụng pháp luật của nước bất lợi cho mình (kể cả luật của Việt Nam) mà không cần sử dụng hệ thống tư pháp quốc tế nước ngoài. Họ có thể sử dụng quy phạm xung đột của hệ thống tư pháp quốc tế Việt Nam để tránh áp dụng pháp luật mà hệ thống tư pháp quốc tế Việt Nam chỉ định để điều chỉnh vì pháp luật được chỉ định bất lợi cho họ. Ví dụ:

3. Quan điểm của tư pháp quốc tế các nước về hiện tượng “lẩn tránh pháp luật”

Hầu hết các nước trên thế giới đều xem đây là hiện tượng không bình thường và đều hạn chế hoặc ngăn cấm. Biện pháp để ngăn cấm, hạn chế ở các nước cũng khác nhau.

Thực tiễn tư pháp ở Pháp cho thấy, Tòa án không chấp nhận việc “lẩn tránh pháp luật” của Pháp và ở Pháp đã hình thành nguyên tắc pháp luật là mọi hành vi, mọi hợp đồng ký kết mà “lẩn tránh pháp luật” đều bị coi là bất hợp pháp.

Ở Anh – Mỹ, nếu các hợp đồng giữa các bên ký kết mà “lẩn tránh pháp luật” của các nước này, sẽ bị Tòa án hủy bỏ.

Ở Nga, Điều 48 BLDS Cộng hòa liên bang Nga quy định: “Các hợp đồng ký kết nhằm lẩn tránh pháp luật bị coi là vô hiệu”.

Điều 21 BLDS Bồ Đào Nha quy định: “Trong quá trình áp dụng quy phạm xung đột pháp luật, coi như không có giá trị pháp lý những hoàn cảnh pháp lý được thiết lập với mục đích tránh áp dụng pháp luật thông thường được chỉ định để điều chỉnh”.

Điểm b Điều 8 Luật Rumani ngày 22/9/1992 về quan hệ có yếu tố nước ngoài, “áp dụng pháp luật nước ngoài bị gạt bỏ khi nó được chỉ dẫn do lẩn tránh pháp luật. Khi pháp luật nước ngoài bị gạt bỏ, pháp luật Rumani được áp dụng”.

Ở nước ta, hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong tư pháp quốc tế hầu như chưa có, nhưng trong các văn bản pháp luật đã ban hành từng có những quy định cấm các trường hợp lẩn tránh. Ví dụ: Theo Khoản 4 Điều 6 Pháp lệnh về Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài năm 1993, thì “Việc kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài được tiến hành ở nước ngoài và tuân theo pháp luật nước đó về nghi thức kết hôn thì được công nhận tại Việt Nam, trừ trường hợp việc kết hôn đó có ý định rõ ràng là để lẩn tránh các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn”. Phân tích quy định này chúng ta thấy, Nhà nước Việt Nam thừa nhận giá trị pháp lý của việc kết hôn tiến hành ở nước ngoài, nếu như việc kết hôn đó tiến hành đúng theo các quy định của pháp luật, không lẩn tránh pháp luật Việt Nam để hướng đến một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn. Như vậy, pháp luật Việt Nam cũng đã thể hiện rõ quan điểm không chấp nhận hiện tượng lẩn tránh pháp luật.

Tuy nhiên, quy định này chỉ giới hạn ở lĩnh vực kết hôn có yếu tố nước ngoài. Thêm vào đó, nó cũng chưa nói rõ hậu quả của việc “lẩn tránh” sẽ như thế nào và việc xử lý sẽ tiến hành theo pháp luật nước nào. Đến nay, điều khoản cũng không còn hiệu lực (Pháp lệnh này đã bị thay thế bởi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, có hiệu lực từ ngày 01/01/2001). Vì vậy, có thể kết luận đến thời điểm này, chúng ta chưa có một cơ sở pháp lý chung để xử lý hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong quan hệ có yếu tố nước ngoài.

4. Hoàn thiện pháp luật để khắc phục hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong tư pháp quốc tế Việt Nam

“Lẩn tránh pháp luật” là một hiện tượng không lành mạnh trong đời sống pháp lý quốc tế. Việc “lẩn tránh pháp luật” dẫn đến những quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài diễn ra một cách “bất thường”, hoạt động áp dụng pháp luật quốc tế sẽ không diễn ra theo đúng trật tự vốn có của nó, bởi đối tượng trong quan hệ cố gắng hướng đến một hệ thống pháp luật có lợi cho mình tất yếu sẽ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của chủ thể khác mà lẽ ra, nó đã được bảo vệ nếu áp dụng hệ thống pháp luật được quy phạm xung đột dẫn chiếu tới. Lợi ích hợp pháp bị xâm phạm này đôi khi là lợi ích của quốc gia. Nếu “lẩn tránh pháp luật” không được ngăn chặn và có giải pháp xử lý đúng đắn thì mối quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại giữa các quốc gia có thể xảy ra những bất đồng, tổn thương. Đặc biệt là đối với Việt Nam, một nền kinh tế đang từng bước hội nhập vào hoạt động kinh tế chung của toàn cầu, cơ sở pháp lý cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hoàn thiện, nền kinh tế rất dễ bị tác động bởi những hiện tượng bất thường của đời sống pháp lý quốc tế, thì vấn đề này càng phải được quan tâm ngăn chặn. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Việt Nam chưa điều chỉnh hiện tượng “lẩn tránh pháp luật”, đặc biệt là trong những văn bản pháp luật có vị trí pháp lý cao điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như BLDS, Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS)… Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật để xử lý hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” là rất cần thiết.

Chúng tôi cho rằng, các quy định của pháp luật Việt Nam về “lẩn tránh pháp luật” trong tư pháp quốc tế phải đảm bảo:

– BLTTDS là đạo luật quan trọng nhất của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, chứa đựng những quy định mang tính chất nguyên tắc có hiệu lực áp dụng chung cho tất cả các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực tố tụng dân sự, kể cả tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài, mà xử lý hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” không phải là luật nội dung của tư pháp quốc tế Việt Nam. Vì vậy, việc đưa các quy định xử lý “lẩn tránh pháp luật” vào BLTTDS sẽ đảm bảo hiệu lực pháp lý cao nhất của quy phạm pháp luật cũng như trao cho các quy định này hiệu lực chung để áp dụng trong thực tiễn đối với mọi loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

– Việc tập trung trong một đạo luật sẽ góp phần nâng cao tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Nếu vấn đề này được quy định trong nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý khác nhau sẽ dẫn đến tình trạng tản mát, chồng chéo, mâu thuẫn của hệ thống pháp luật. Tình trạng này đã xảy ra đối với pháp luật nội dung của tư pháp quốc tế Việt Nam (quy phạm pháp luật giải quyết xung đột pháp luật, ngoài BLDS còn được điều chỉnh trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau). Chính vì vậy, các quy định của luật hình thức cần rút kinh nghiệm tránh mắc phải khuyết điểm này. Hơn nữa, quy định về luật hình thức thường đòi hỏi tính đồng bộ, thống nhất cao mới có thể áp dụng trên thực tế.

– Bên cạnh đó, việc ghi nhận các quy định về “lẩn tránh pháp luật” vào BLTTDS sẽ nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bởi cơ quan có thẩm quyền xử lý hiện tượng này (thường là Tòa án) cũng như những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ nhanh chóng tìm thấy quy định cần thiết mà không cần phải tốn thêm thời gian đối chiếu, kiểm tra, xem xét các văn bản pháp luật khác. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn khi thực tế tại Việt Nam, trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan thực thi pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Thứ hai, khi hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” đã xảy ra trên thực tế thì phải xử lý nhanh chóng, kịp thời và chính xác nhằm khôi phục lại trật tự pháp lý quốc tế. Chúng tôi cho rằng, các nguyên tắc xử lý hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trong BLTTDS cần bao gồm các nội dung sau:

– Nếu một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được áp dụng pháp luật mà việc áp dụng đó là kết quả thu được từ việc “lẩn tránh pháp luật” thì kết quả của quan hệ này (được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài nước ngoài) sẽ không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Ngược lại, nếu việc áp dụng pháp luật Việt Nam là kết quả của lẩn tránh thì kết quả đó cũng không được công nhận và cho thi hành tại quốc gia có hệ thống pháp luật lẽ ra phải áp dụng, dù nội dung vụ việc có quan hệ chặt chẽ với Việt Nam.

– Nếu pháp luật lẽ ra phải được áp dụng là pháp luật Việt Nam nhưng đã không được áp dụng do “lẩn tránh pháp luật” thì sau khi tuyên bố không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam kết quả của quan hệ đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cần xác định rõ luật áp dụng để giải quyết quan hệ là pháp luật Việt Nam. Điều này nhằm khôi phục lại trật tự pháp lý đã bị thay đổi do hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” trước đó gây ra.

– Nếu một nước công nhận kết quả của một quan hệ dân sự đã “lẩn tránh pháp luật” Việt Nam và đã áp dụng pháp luật nước đó thì Việt Nam có quyền áp dụng nguyên tắc có đi có lại, công nhận một quan hệ dân sự đã “lẩn tránh pháp luật” nước đó để áp dụng pháp luật Việt Nam. Trên thực tế, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới cũng áp dụng nguyên tắc này. Điều đó sẽ đảm bảo nguyên tắc có đi có lại và bình đẳng trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, một trong những yêu cầu cơ bản của đời sống pháp lý quốc tế.

Thứ ba, BLTTDS nên quy định cơ quan có thẩm quyền xử lý hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” là Tòa án Việt Nam, bởi lẽ:

– Tòa án là thiết chế truyền thống trong bộ máy nhà nước được trao cho chức năng giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Việt Nam đang phấn đấu xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà ở đó pháp luật đứng ở vị trí cao nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong mô hình nhà nước pháp quyền, Tòa án luôn ở vị trí trung tâm để đảm bảo cho pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh. 

– Quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng về bản chất là những quan hệ tư. Ở đó, yếu tố bình đẳng là yêu cầu cơ bản chi phối tất cả các quan hệ, các bên chủ thể tham gia quan hệ bình đẳng với nhau và nguyên tắc tự nguyện, tự do thỏa thuận được quán triệt trong suốt quá trình hình thành, phát triển và kết thúc của quan hệ. Chính vì vậy, nếu giao cho bất cứ một cơ quan nào nằm trong hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước xử lý các mối quan hệ này đều không đảm bảo được nguyên tắc khách quan và bình đẳng. Trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì nguyên tắc bình đẳng càng cần phải được tôn trọng và đặt lên hàng đầu mới đảm bảo được uy tín của hệ thống pháp luật Việt Nam, tạo dựng niềm tin với các chủ thể nước ngoài, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thứ năm, chủ thể có quyền và nghĩa vụ yêu cầu Tòa án tuyên bố không công nhận một quan hệ là kết quả của hiện tượng “lẩn tránh pháp luật”. “Lẩn tránh pháp luật” nếu đã xảy ra trên thực tế sẽ có nguy cơ gây thiệt hại cho lợi ích của hai nhóm chủ thể: thứ nhất là Nhà nước có hệ thống pháp luật lẽ ra đã phải được áp dụng. Đây là nhóm lợi ích chung thuộc về trật tự xã hội hơn là lợi ích cá nhân; thứ hai là những chủ thể trong quan hệ dân sự đó có lợi ích đã bị thiệt hại do phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật lẽ ra không được áp dụng. Đây là nhóm lợi ích trực tiếp bị xâm hại bởi hiện tượng “lẩn tránh pháp luật”. Xuất phát từ cơ sở này, theo  chúng tôi, BLTTDS cần quy định có hai nhóm chủ thể có quyền và nghĩa vụ yêu cầu Tòa án tuyên bố không công nhận một quan hệ là kết quả của hiện tượng “lẩn tránh pháp luật”:

– Nhóm chủ thể có quyền: những chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật và có lợi ích trực tiếp bị xâm hại bởi việc “lẩn tránh pháp luật”. Nhóm chủ thể này có quyền nộp đơn ra trước Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam trong trường hợp họ nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã bị xâm hại. Và, đương nhiên, vì là quyền nên họ có quyền lựa chọn giữa khả năng nộp đơn hoặc không nộp đơn để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ sáu, xây dựng cơ chế đảm bảo thực hiện: bên cạnh những quy định cụ thể điều chỉnh nội dung của việc xử lý các quan hệ dân sự có hiện tượng “lẩn tránh pháp luật”, BLTTDS còn phải có những quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát để đảm bảo được rằng, khi hiện tượng “lẩn tránh pháp luật” xảy ra, nó sẽ được ngăn chặn kịp thời hoặc kết quả của nó sẽ nhanh chóng được xử lý, tránh phát sinh hậu quả xấu trên thực tế. Vai trò này thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền như là một nội dung hoạt động cụ thể trong chức năng quản lý nhà nước.

Xung Đột Pháp Luật Trong Tư Pháp Quốc Tế

Nhóm: Registered Gia nhập: 29-11-2016(UTC)Bài viết: 268Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 136 timesĐược cảm ơn: 81 lần trong 50 bài viết

Xung đột pháp luật là hiện tượng đặc thù của Tư pháp Quốc tế. Bài viết sẽ làm rõ Xung đột pháp luật là gì? Nguyên nhân và phạm vi của xung đột pháp luật?

I. Xung đột pháp luật là gì?

Xung đột pháp luật là hiện tượng pháp lý trong đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia vào điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế mà nội dung điều chỉnh trong mỗi hệ thống pháp luật sự khác nhau.

II. Nguyên nhân của xung đột pháp luật:

Do mỗi nước có điều kiện cơ sở hạ tầng khác nhau, bởi vậy pháp luật của các nước được xây dựng trên các nền tảng đó cũng có sự khác nhau. Đối với mỗi quốc gia sự phát triển kinh tế là khác nhau chính vì vậy dẫn đến các yếu tố về hệ thống pháp luật, chính trị là khác nhau; các nước đều có những quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo… là khác nhau do đó cũng có sự khác biệt trong sự vận động của nền kinh tế

III. Phạm vi của xung đột pháp luật:

Xung đột pháp luật chỉ xảy ra trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Còn trong các lĩnh vực quan hệ pháp luật khác như hình sự, hành chính… không xảy ra xung đột pháp luật bởi vì theo Điều 678 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản như sau:

1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Tuy nhiên quyền sở hữu trí tuệ lại có ngoại lệ theo Điều 679 Bộ luật Dân sự 2015 về Quyền sở hữu trí tuệ quy định:

Quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu bảo hộ.

Nhóm: Registered Gia nhập: 01-03-2017(UTC)Bài viết: 207

Cảm ơn: 44 lầnĐược cảm ơn: 89 lần trong 63 bài viết

Để giải quyết xung đột pháp luật thì thông thường có hai phương pháp là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Tương ứng với đó là luật xung đột và luật thực chất. Tư pháp quốc tế tuy khó hiểu nhưng học thì rất hay.

1 người cảm ơn doantrinh cho bài viết.

Một Số Vấn Đề Về Pháp Nhân Trong Tư Pháp Quốc Tế

1. Pháp nhân trong tư pháp quốc tế là gì

Trong thực tiễn tư pháp quốc tế được thành lập teo pháp luật của một nước nhất định, nói cách khác thì việc công nhận một tổ chức có tư cách pháp nhân phải dựa trên, thông thường một tổ chức được công nhận có tư cách pháp nhân ở nước nó được thành lập thì nó được công nhận ở những nước khác.

Đối với Việt Nam, pháp nhân nước ngoài là tổ chức hưởng tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật nước ngoài và được công nhận là có quốc tịch nước ngoài

Theo quy định khoản 5 Điều 3 Nghị định 138/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành các quy định cụ Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, pháp nhân nước noài là pháp nhân được thành lập theo quy định theo pháp luật nước ngoài.

Quốc tịch của pháp nhân thể hiện môi quan hệ giữa pháp nhân và nhà nước là mối quan hệ pháp lý đặc biệt vững chắc giữa pháp nhân và nhà nước, đặc biệt ở chỗ hưởng tư cách pháp nhân ở một nước thì khi hoạt động ở nước ngoài thì pháp nhân sẽ được nhà nước mình bảo hộ về mặt ngoại giao. Việc hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể, chấm dứt pháp nhân và thanh lý tài sản, giải quyết cấc vấn đề về tài sản. Trong các vấn đê này phải tuân theo pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch.

Pháp luật của các nước đều có những nguyên tắc xác định tư cách pháp nhân, trong thực tiễn dựa vào một trong những dấu hiệu sau:

– Dựa theo trung tâm quản lý hành chính của pháp nhân. Ví dụ: Pháp, Đức, …

– Dựa theo nơi pháp nhân thành lập và đăng ký điều lệ của pháp nhân. Vi dụ: Anh, Mỹ, …

– Dựa vào nơi phân tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh,. Ví dụ: Ai Cập, Siria, …

Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 1, Điều 765 Bộ luật Dân sự năm 2005, quốc tịch của pháp nhân được xác định là nơi thành lập.

2. Quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài

Đặc điểm quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nươc ngoài.

Khi hoạt động ở nước ngòa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hai nước – mang tính song trùng pháp luật: pháp luật của nước pháp nhân mang quốc tịch và pháp luật của nươc sở tại nơi pháp nhân tiến hành các hoạt dộng sản xuất và kiinh doanh.

Việc cho pháp nhân nước ngoài vào hoạt động hay không, cho phép vào để tiến hành hoạt động gì, trong lĩnh vực nào, cho pháp nhân đó đucợ hưởng thêm những quyền gì, có nghĩa vụ gì là quyền của nước sở tại. Những vấn đề này được quyết định trong văn bản pháp luật quốc gia và những điều ước quốc tế mà quốc gia tham gia ký kết.

Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài được xây dựng trên cở sở đãi ngộ quốc dân, chế độ tối huệ quốc và chê độ đãi ngộ đặc biệt, việc áp dụng chê độ nào trong từng lĩnh vực cụ thể tùy theo pháp luật của nước sở tại và tùy theo điều ước quốc tế mà nước đó tham gia.

Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài ở Việt Nam: xác định trên cơ sở pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế và Việt Nam tham gia. Theo khoản 1 Điều 765 Bộ luật Dân sự năm 2005, năng lực dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo nước nơi pháp nhân đó thành lập trừ trương hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.

Theo kết luận thì trường hợp pháp nhân xác lập thực hiện các giao dịch dân sự tại việt Nam thì năng lực dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của Việt Nam.

Hình thức hoạt động của pháp nhân nước ngoài ở Việt Nam:

– Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam theo Luật Đầu tư năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Các biện pháp bảo đảm đầu tư, các biện pháp khuyến khích đầu tư, ngoài ra, các quyết định về thuế, tài chính, …

– Quy định về đặt chi nhánh và văn phòng đại diện tại Việt Nam được quy định bởi luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành.

– Pháp nhân nước ngoài hoạt động tại Việ Nam dưới hình thức thương mại và dịch vụ. Ví dụ: bảo hiểm, ngân hàng, …

3. Quốc gia – chủ thể đặc biệt của tư pháp quốc tế.

Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự có nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, quốc gia là chủ thể không tham gia thường xuyên vào những quan hệ đó trong đó còn có một số quan hệ mà quốc gia không thể tham gia.

xuất phát từ yếu tố chủ quyền quốc gia và bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, khi tham gia vào các mối quan hệ của tư pháp quốc tế quốc gia không thể đứng ngang hàng giữa cá nhân và pháp nhân mà quóc gia phải được hưởng quyền miên trừ tư pháp:

– Quyền miễn trừ xét xử: Theo quyền này, nếu như không có sự đồng ý của quốc gia thì không có cơ quan tổ chức nào có quyền xét xử quốc gia ở nước ngoài.

– Quyền miễn trừ về tài sản của quốc gia ở nước ngoài: Theo quyền này, nếu như không có sự đồng ý của quốc gia thì không có cơ quan tổ chức nào có quyền bắt giữ tài sản của quốc gia để đảm bảo sơ bộ cho vụ kiện hoặc để đảm bảo cho việc thi hành án sau nay.

– Quyền miễn trừ thi hành án: T heo quyền này , nếu như không có sự đồng ý của quốc gia thì không có cơ quan tổ chức nào có quyền ép buộc quốc gia phải thi hành bản án bất lợi cho mình.

Việc quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ cả mình phả được ghi nhận một cách rõ ràng trong hợp đồng mà quốc gia quốc gia đại diện tham gia ký kết, trong pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế, trong điều ước quốc tế.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài 24/7, chi tiết xin lên hệ số: hoặc gửi qua email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận Tư vấn Pháp luật – Công ty luật MInh Khuê

Các Kiểu Hệ Thuộc Luật Cơ Bản Trong Tư Pháp Quốc Tế

Các kiểu hệ thuộc luật cơ bản trong tư pháp quốc tế. Hệ thuộc là bộ phận cấu thành của quy phạm xung đột, bộ phận này của quy phạm xung đột đưa ra nguyên tắc chọn luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Hệ thuộc là bộ phận cấu thành của quy phạm xung đột, bộ phận này của quy phạm xung đột đưa ra nguyên tắc chọn luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tư pháp quốc tế là ngành luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Hệ thuộc luật của Tư pháp quốc tế là các nguyên tắc xác định luật áp dụng trong các quy phạm xung đột. Nhằm làm rõ vấn đề này, bài viết sau đây, ban biên tập tư vấn – Luật Dương Gia xin tư vấn các khía cạnh pháp lý của vấn đề các kiểu hệ thuộc luật cơ bản trong tư pháp quốc tế.

I. Lý luận chung về các kiểu hệ thuộc luật cơ bản trong tư pháp quốc tế

Một thực tiễn khách quan là dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các hệ thống pháp luật dân sự nước ngoài, cũng như nhu cầu cần thiết đương nhiên của mỗi quốc gia là phải có một cơ cấu pháp luật cho phép và điều chỉnh quan hệ của thể nhân và pháp nhân của mình khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế. Điều này có nghĩa là ở mỗi quốc gia cần có một hệ thống luật xung đột như là một công cụ thiết yếu để tạo lập một trật tự pháp luật cho việc tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế. Không có một quốc gia nào tham gia vào các quan hệ trên mà lại không có hệ thống quy phạm xung đột của mình.

Hệ thống quy phạm xung đột của mỗi quốc gia thể hiện trong hệ thống luật quốc nội và các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.

Việc hệ thống hóa và pháp điển hóa các quy phạm xung đột là việc rất phức tạp và khó khăn bởi lẽ các quốc gia có rất nhiều lợi ích và tiêu chí rất khác nhau. Nhưng giữa các hệ thống luật xung đột của các nước khác nhau lại có mối liên hệ và ảnh hưởng qua lại với nhau. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy sự pháp triển của khoa học tư pháp quốc tế ở mỗi quốc gia và thế giới.

Hệ thống quy phạm xung đột của mỗi quốc gia thể hiển ý chí của giai cấp thống trị trong quốc gia đó và đồng thời nó cũng củng cố và đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị đó trong đời sống quốc tế. Khi xây dựng hệ thống các quy phạm xung đột của mình, quốc gia đã giải quyết vấn đề tham gia của thể nhân và pháp nhân cũng như các tổ chức khác của mình vào đời sống quốc tế nhưng phải tính đến lợi ích của thể nhân và pháp nhân của các quốc gia khác.

Không có hệ thuộc nào là quan trọng nhất trong việc giải quyết xung đột pháp luật, vì mỗi hệ thuộc chỉ có một phạm vi áp dụng khác nhau nên không có hệ thuộc nào là quan trọng nhất trong việc giải quyết xung đột pháp luật. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, không nên áp dụng một hệ thuộc trong việc giải quyết xung đột pháp luật. Vì mỗi hệ thuộc chỉ có 1 phạm vi áp dụng nhất định do đó việc giải quyết xung đột pháp luật cần áp dụng nhiều hệ thuộc khác nhau nhưng không phải áp dụng tất cả các hệ thuộc trong việc giải quyết xung đột pháp luật.

Nói cách khách, các quy phạm xung đột pháp luật của các nước khác nhau trong thực tiễn lý luận của các nhà nghiên cứu được nhóm hóa lại thành các kiểu hệ thuộc cơ bản. Tổng kết và khái quát hóa cùng việc phân loại và đưa vào hệ thống các quy phạm xung đột đó là một phần việc cơ bản của khoa học tư pháp quốc tế, nó củng cố và phát triển ngành khoa học pháp lý này hiện tại cũng như tương lai.

Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên. Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.

Hiện nay, trong khoa học tư pháp quốc tế có một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau đây:

Luật nhân thân bao gồm hai hệ thống pháp luật: Luật nước mà cá nhân có quốc tịch (Luật quốc tịch) và luật nước nơi người đó cư trú (Luật nơi cư trú) hay nói cách khác Luật nhân thân gồm 2 biến dạng:

– Luật quốc tịch được hiểu là luật của quốc gia mà đương sự là công dân, công dân phải có năng lực hành vi dân sự được xác định theo pháp luật của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.

– Luật nơi cư trú được hiểu là luật của quốc gia mà ở đó đương sự có nơi cư trú ổn định.

Hệ thuộc nhân thân không chỉ được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ nhân thân mà nó còn được áp dụng để điều chỉnh cả các quan hệ nhân thân và quan hệ thừa kế.

Các dấu hiệu ràng buộc hiện này là:

– Nơi trung tâm quản lý của pháp nhân

– Nơi đăng ký điều lệ (nơi thành lập pháp nhân)

– Nơi pháp nhân thực tế tiến hành kinh doanh hoạt động chính

– Ở Việt Nam pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam và đăng ký điều lệ ở Việt Nam thì đương nhiên pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam không phụ thuộc vào việc nó hoạt động ở đâu, lãnh thổ nào.

Luật nơi có vật được hiểu là vật (tài sản) hiện đang tồn tại ở nước nào thì luật của nước đó được áp dụng đối với tài sản đó. Nó là hệ thống pháp luật nơi có tài sản thực tế tồn tại. Tài sản sẽ luôn chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nơi có tài sản ở đó.

– Phải có sự thỏa thuận giữa các bên.

– Luật do các bên thỏa thuận không được trái với các nguyên tắc cơ bản của điều ước quốc tế mà các bên là thành viên, không trái với pháp luật quốc gia mà các bên mang quốc tịch.

– Luật được lựa chọn phải là những quy phạm trực tiếp giải quyết vấn đề.

Là luật nơi thực hiện các hành vi pháp lý như kết hôn, giao kết hợp đồng, gây thiệt hại,… Luật nơi thực hiện hành vi có rất nhiều loại:

– Luật nơi ký kết hợp đồng được hiểu là quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia kí kết hợp đồng được xác định theo luật nơi kí kết hợp đồng.

– Luật nơi thực hiện nghĩa vụ.

– Luật nơi thực hiện hành động, ví dụ như hình thức của hợp đồng được quyết định bởi luật của nước nơi thực hiện nó, hoặc hình thức kết hôn được quyết định bởi luật nước các bên thực hiện kết hôn.

– Luật nơi vi phạm pháp luật.

Theo tư pháp quốc tế Việt Nam không phải mọi trường hợp bồi thường ngoài hợp đồng luôn được pháp luật của nước xảy ra hành vi vi phạm hoặc nơi hiện diện hậu quả hành vi. Điều 687 Bộ luật dân sự năm 2015 quy đinh như sau:

“Điều 687. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

1. Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp không có thỏa thuận thì pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng.

2. Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân hoặc nơi thành lập, đối với pháp nhân tại cùng một nước thì pháp luật của nước đó được áp dụng.”

Luật tòa án được hiểu là pháp luật của nước có tòa án thẩm quyền. Tòa án có thẩm quyền khi giải quyết vụ việc chỉ áp dụng pháp luật nước mình. Trong các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý các bên có thể cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng nước mình trong những chừng mực nhất định được áp dụng luật tố tụng của nước ngoài. Luật tòa án là luật nước nơi có Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc. Tòa án thụ lý có quyền áp dụng pháp luật nước mình (luật tòa án) để xác định thẩm quyền và giải quyết tranh chấp.

Cập nhật thông tin chi tiết về Hiện Tượng “Lẩn Tránh Pháp Luật” Trong Tư Pháp Quốc Tế trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!