Xu Hướng 6/2023 # Hình Phạt Tử Hình Trong Luật Hình Sự Việt Nam # Top 7 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Hình Phạt Tử Hình Trong Luật Hình Sự Việt Nam # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Hình Phạt Tử Hình Trong Luật Hình Sự Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1 . Nhận thức chung về hình phạt tử hình

Tử hình là một loại hình phạt truyền thống, có từ lâu đời. Thuật ngữ hình phạt tử hình có tên tiếng Anh là “death penalty” hay là “capital punishment”. Capital có nguồn gốc từ tiếng Latin là capitalis, trong đó có gốc của từ kaput, có nghĩa là đầu. “Capital punishment” có nghĩa là hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất đầu, tức là tước bỏ quyền sống của một người. Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên “peine de mort” hay còn gọi là “peine capitale”; trong tiếng Đức nó có tên gọi là “todesstrafe”. Trong Luật Hình sự Việt Nam, tử hình là loại hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, tước đi quyền sống của người bị kết án và chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội. Hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định.

Hình phạt tử hình là một hiện tượng xã hội mang tính khách quan. Nó là phương tiện để bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó. Tội phạm đe dọa sự tồn tại của xã hội nên xã hội phải phản ứng một cách tự nhiên là trừng trị người phạm tội. Là một loại hình phạt, nên hình phạt tử hình cũng như các hình phạt khác trong hệ thống hình phạt, có những đặc điểm chung, như: Là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước; được quy định trong pháp luật hình sự; được Tòa án áp dụng theo một trình tự tố tụng chặt chẽ, công bằng đối với người bị kết án. Tuy nhiên, với tư cách là một hình phạt đặc biệt, hình phạt tử hình có những đặc điểm riêng, đó là: Thứ nhất, tử hình là một loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, nó tước đi quyền sống của người bị kết án, vì thế nó chỉ được quy định áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; Thứ hai, hình phạt tử hình có mục đích phòng ngừa tái phạm tội mới một cách triệt để từ phía người bị kết án. Hình phạt này không có mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án, như vậy nó tước bỏ cơ hội tái hòa nhập và phục thiện của họ; Thứ ba, hình phạt tử hình đồng thời có khả năng đạt được nhiều hiệu quả cao trong phòng ngừa chung; Thứ tư, hình phạt tử hình có tính chất không thay đổi, nó tước đi khả năng khắc phục sai lầm trong hoạt động tư pháp.

Góp Ý Dự Thảo Bộ Luật Hình Sự (Sửa Đổi): Vấn Đề Giảm Hình Phạt Tử Hình Trong Bộ Luật Hình Sự (Sửa Đổi)

Theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, “là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 30). Thực hiện chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta, phù hợp với xu hướng phát triển của văn minh nhân loại, việc nghiên cứu thu hẹp phạm vi quy định và áp dụng hình phạt tử hình luôn được nhà làm luật và áp dụng pháp luật Việt Nam quan tâm. Đặc biệt, thu hẹp phạm vi quy định và áp dụng hình phạt tử hình là một chủ trương lớn được ghi nhận trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và đã được thể chế hóa khi xây dựng, sửa đổi, bổ sung BLHS qua các thời kỳ. BLHS đầu tiên của Nhà nước ta năm 1985, sau 04 lần sửa đổi, bổ sung, số lượng các điều luật quy định hình phạt tử hình đối với các tội phạm cụ thể là 44 điều (chiếm tỷ lệ 14,89% tổng số điều luật). Để đáp ứng yêu cầu phát triển mới của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và hội nhập quốc tế, BLHS năm 1999 được ban hành thay thế BLHS năm 1985 đã loại bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội danh cụ thể, làm giảm số điều luật có quy định hình phạt tử hình xuống còn 29 điều luật (giảm 13 điều), chiếm tỷ lệ 11% tổng số điều luật của BLHS. Như vậy, phạm vi quy định về hình phạt tử hình trong luật hình sự của Việt Nam đã giảm dần đều qua các lần sửa đổi, bổ sung BLHS (giảm dần theo thời gian): Năm 1985: 44 điều luật quy định hình phạt tử hình; Năm 1999: 29 điều luật quy định hình phạt tử hình; Năm 2009: 22 điều luật quy định hình phạt tử hình.

Lộ trình giảm dần việc quy định hình phạt tử hình trong BLHS một mặt phản ánh mức độ nhân đạo hóa hệ thống hình phạt ngày càng cao, mặt khác phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của Nhà nước ta. Đối với Việt Nam, từ trước đến nay, trong luật hình sự vẫn duy trì hình phạt tử hình; nhất là trong bối cảnh tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng, nhiều trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nên chưa thể loại bỏ hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng cho thấy, mặc dù hình phạt tử hình được quy định áp dụng đối với 22 điều luật nhưng trên thực tế, Tòa án chủ yếu áp dụng đối với một số trường hợp phạm tội giết người (giết người nhằm chiếm đoạt tài sản; giết nhiều người, giết phụ nữ mà biết là có thai, giết trẻ em, giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác…) và một số tội phạm về ma túy (tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy…).

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm cũng như bảo đảm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, bảo vệ công lý và giữ vững an ninh, trật tự thì việc duy trì hình phạt tử hình trong BLHS là cần thiết. Tuy vậy, với tỷ lệ trên 8% các điều luật trong BLHS có quy định hình phạt tử hình là vẫn cao. Thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình ở nước ta có xu hướng tăng, (số lượng án tử hình tuyên năm sau cao hơn năm trước); điều này cũng gây ra tác động cho xã hội. Tử hình là hình phạt tước đi quyền sống – quyền quan trọng nhất của con người, tước bỏ khả năng, cơ hội tái hòa nhập cộng đồng, hướng thiện của người bị kết án. Vì vậy, xuất phát từ kinh nghiệm lập pháp hình sự của Nhà nước ta và quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong các nghị quyết, cụ thể hóa trong các quy định về quyền con người của Hiến pháp năm 2013, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn thi hành BLHS, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài để đề xuất việc thu hẹp phạm vi quy định hình phạt tử hình trong BLHS là cần thiết. Do đó, chúng tôi tán thành với đề xuất trong dự thảo BLHS (sửa đổi) là giảm hình phạt tử hình được thực hiện trên các phương diện:

– Giảm tội danh có quy định hình phạt tử hình;

– Thu hẹp đối tượng bị áp dụng hình phạt tử hình (chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội là người tổ chức, người phạm tội có tính chất côn đồ, tái phạm nguy hiểm, người thực hiện tội phạm một cách man rợ, dã man, tàn bạo hoặc có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự);

– Mở rộng đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình (ngoài người chưa thành niên khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử như quy định của BLHS hiện hành. Dự thảo BLHS (sửa đổi) bổ sung quy định người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử cũng không bị áp dụng hình phạt tử hình);

– Mở rộng đối tượng không bị thi hành hình phạt tử hình (ngoài trường hợp người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi như quy định của BLHS hiện hành, dự thảo BLHS (sửa đổi) bổ sung hai trường hợp bị kết án tử hình nhưng không bị thi hành mà chuyển thành tù chung thân: người bị kết án là người từ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về các tội có mục đích kinh tế, sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (Điều 40)).

Về các tiêu chí giảm hình phạt tử hình như trên là phù hợp, nhưng chúng tôi cho rằng, cần cân nhắc thận trọng về đề xuất giảm hình phạt tử hình đối với một số tội phạm theo định hướng: Việc giảm hình phạt tử hình, một mặt vừa đảm bảo tính nhân đạo đối với người phạm tội nhưng phải bảo đảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Theo đó, đề nghị không bỏ hình phạt tử hình đối với các tội danh sau:

– Tội cướp tài sản (Điều 168) và Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 313) dự thảo Bộ luật, vì đây là những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến tài sản mà còn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trong thời gian qua đã có một số đối tượng phạm các tội này gây bức xúc, hoang mang, lo lắng trong nhân dân về môi trường an toàn xã hội và đã bị kết án tử hình.

– Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 253 dự thảo Bộ luật), vì đây là hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm, xảy ra phổ biến, nhiều vụ án các đối tượng phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy với số lượng rất lớn, đặc biệt lớn. Đối tượng phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy rất manh động, dùng vũ khí chống trả quyết liệt lực lượng đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nếu không quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm này thì các đối tượng phạm tội sẽ lộng hành, coi thường pháp luật.

Về các trường hợp không áp dụng, không thi hành hình phạt tử hình: Chỉ nên khuyến khích không áp dụng hình phạt tử hình đối với đối tượng phạm tội bị kết án về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; đối với đối tượng phạm tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ cần áp dụng hình phạt tử hình, vì đây là các tội tham nhũng, cần phải trừng trị nghiêm khắc./.                                                                                             

Chế Định Thời Hiệu Trong Luật Hình Sự Việt Nam

Lê Cảm

TSKH., Trưởng bộ môn Tư pháp hình sự thuộc ĐHQG Hà Nội

Trịnh Tiến Viết

Bộ  môn Tư pháp hình sự thuộc ĐHQG Hà Nội

* Theo PLHS Việt Nam, quyền truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) và quyền thi hành bản án hình sự (BAHS) của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của Nhà nước (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án hình sự) đối với người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm không phải là vô thời hạn, mà chỉ trong một thời hạn nhất định được ghi nhận trong PLHS.

* Nhưng khi một thời hạn nhất định do PLHS quy định đã qua rồi, thì bất kỳ người nào, mặc dù đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm vẫn không thể bị truy cứu TNHS (vì trong trường hợp này họ không bị coi là người phạm tội) hoặc không bị buộc phải chấp hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật.

* Để không bị truy cứu TNHS hoặc không bị buộc phải chấp hành bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật do hết thời hiệu, thì ngoài các căn cứ pháp lý ra, còn phải có một loạt những điều kiện cụ thể khác do PLHS quy định, mà chỉ khi nào có tổng hợp đầy đủ chúng (các căn cứ pháp lý và những điều kiện ấy), người phạm tội mới không bị truy cứu TNHS hoặc không bị buộc phải chấp hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật.

* Căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự (TTHS) tương ứng cụ thể, việc không truy cứu TNHS hoặc không thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật do hết thời hiệu chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhất định (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát, Tòa án hoặc cơ quan thi hành án hình sự) khi có đầy đủ các căn cứ pháp lý và những điều kiện do PLHS quy định.

* Thời hiệu thi hành BAHS chỉ được áp dụng đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành vì nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người bị kết án (ví dụ: do thiên tai, hồ sơ bị mất hoặc thất lạc, do sự thiếu trách nhiệm của những cán bộ trong các cơ quan thi hành án hình sự v.v…). Như vậy, thời hiệu thi hành BAHS khác với thời hiệu truy cứu TNHS là ở chỗ: thời hiệu thi hành BAHS căn cứ vào loại hình phạt (phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù) và mức hình phạt (ba năm tù trở xuống, ba năm tù đến mười lăm năm tù, mười lăm năm tù đến ba mươi năm tù), còn thời hiệu truy cứu TNHS thì lại căn cứ vào loại tội phạm tương ứng được phân loại trong BLHS năm 1999 (khoản 3 Điều 8).

II

1. Bằng quy phạm tại khoản 1 Điều 23 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam đã ghi nhận riêng biệt định nghĩa pháp lý (ĐNPL) của khái niệm thời hiệu truy cứu TNHS là gì (?) – “là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Quy phạm này chính là một điểm mới của BLHS năm 1999 (mà trong BLHS năm 1985 trước đây không có) và do đó, nó có ý nghĩa khoa học – thực tiễn rất quan trọng đối với sự phát triển của PLHS Việt Nam nói riêng, cũng như đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của con người trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung ở nước ta hiện nay.

2. Bằng các quy phạm tại khoản 2 Điều 23 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam, nhà làm luật đã điều chỉnh cụ thể bốn thời hạn khác nhau tương ứng với bốn loại tội phạm được phân loại trong luật (khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999), mà các cơ quan tư pháp hình sự chỉ có thể và phải dựa vào căn cứ đó để truy cứu người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Nói một cách khác, theo BLHS năm 1999, khi đã hết các thời hạn do luật định tại khoản 2 Điều 23 tương ứng với bốn loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8, thì không được truy cứu TNHS người phạm tội.

* Về cơ bản, thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính là từ ngày tội phạm hoàn thành, tức là từ thời điểm hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm (tương ứng với bốn loại tội phạm) được thực hiện, chứ không phải là từ ngày tội phạm bị phát hiện hoặc từ ngày xảy ra hậu quả phạm tội. Ví dụ: thời hiệu truy cứu TNHS đối với tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người được tính từ ngày nạn nhân bị gây thương tích (mà do thương tích đã đưa đến cái chết), chứ không phải từ ngày nạn nhân chết.

* Đối với các tội kéo dài, thì nói chung thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày tội phạm kết thúc, nhưng cũng tùy từng trường hợp mà thời điểm này có thể khác nhau. Chẳng hạn, đối với tội đào ngũ, thì thời điểm truy cứu TNHS phải được tính từ ngày quân nhân đào ngũ (mà trước đó người này đã bị xử lý kỷ luật về hành vi rời bỏ đơn vị một cách trái phép hoặc gây hậu quả nghiêm trọng…), chứ không phải từ ngày quân nhân này bị bắt giữ hoặc ra đầu thú. Nhưng đối với một loạt các tội tàng trữ (như tàng trữ vũ khí quân dụng, tàng trữ chất phóng xạ, hoặc tàng trữ chất cháy, chất độc), thì thời điểm truy cứu TNHS lại được tính từ ngày tội phạm tương ứng bị phát hiện hay từ ngày người phạm tội bị bắt giữ hoặc ra đầu thú, chứ không phải từ ngày bắt đầu tàng trữ các thứ đã nêu (vì có thể có những trường hợp vào thời điểm bắt đầu tàng trữ các thứ đã nêu, người phạm tội chưa đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của PLHS).

* Đối với các tội liên tục, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày hành vi cuối cùng trong một loạt hành vi tội phạm được thực hiện. Ví dụ: đối với tội bức tử, tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình, thì thời điểm truy cứu TNHS được tính từ ngày hành vi ngược đãi hoặc hành hạ cuối cùng của tội phạm tương ứng được thực hiện và gây nên hậu quả nguy hại cho xã hội đã đến mức phải bị xử lý về hình sự.

* Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội (rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) và hành vi phạm tội chưa đạt, thì thời điểm truy cứu TNHS được tính từ ngày hoạt động phạm tội bị chấm dứt về mặt pháp lý do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội và khiến cho người đó không thực hiện được tội phạm đến cùng. Ví dụ: a) người chuẩn bị phạm tội khủng bố bị nhân dân phát hiện và báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên đã không thực hiện được tội phạm đến cùng; b) kẻ phạm tội trộm sau khi lọt vào nhà để trộm nhẫn mặt đá rubi của người khác (giá trị khoảng 680 triệu đồng) để trong tủ nhưng chưa kịp chiếm đoạt được chiếc nhẫn đó (vì sau khi lọt vào nhà và đang mở cửa cánh tủ), thì bị chủ nhà đi làm về nhìn thấy, hô hoán lên và bị những người hàng xóm vây bắt.

* Trong trường hợp phạm nhiều tội, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày thực hiện tội đầu tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử.

* Trong trường hợp phạm tội nhiều lần, thì thời điểm truy cứu TNHS bắt đầu được tính từ ngày tội nào được thực hiện trước tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử.

4. Bằng các quy phạm tại đoạn 1 khoản 3 Điều 23 BLHS năm 1999, nhà làm luật đã quy định việc tính lại thời hiệu đã qua đối với tất cả bốn thời hạn (tương ứng với bốn loại tội phạm được nêu tại khoản 2 điều luật này), nếu người phạm tội (trong một thời hạn nhất định đã qua tương ứng với mỗi loại tội phạm) lại thực hiện tội mới mà mức cao nhất của khung hình phạt do luật định đối với tội mới ấy là 1 năm tù trở lên. Như vậy, nội dung quy phạm này có nghĩa là: đối với tội mới ấy, bị cáo phải bị đưa ra xét xử và bị áp dụng hình phạt tù trên một năm theo bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

* Căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc là: kể từ ngày tội phạm mà người đó thực hiện nhất thiết phải qua một thời hạn nhất định và thời hạn ấy phải do BLHS quy định (khoản 1).

* Ba điều kiện cần, đủ: a) điều kiện thứ nhất – một trong các thời hạn đã qua ấy phải tương ứng với một trong bốn loại tội phạm được BLHS quy định cụ thể (khoản 2); b) điều kiện thứ hai – trong khoảng thời hạn đã qua ấy, người phạm tội (mà đối với tộu ấy thời hiệu truy cứu TNHS đã qua) phải không được phạm tội mới mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội mới này là trên một năm tù (đoạn 1 khoản 3); c) và cuối cùng, điều kiện thứ ba – trong khoảng thời hạn đã qua ấy, người phạm tội không được cố tình trốn tránh (hoặc mặc dù cố tình trốn tránh) và đối với người đó phải không có lệnh truy nã của cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (đoạn 2 khoản 3).

7. Bằng quy phạm tại Điều 24 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam nhà làm luật nước ta đã đặt an ninh quốc gia với tính chất là lợi ích (được BLHS năm 1999 bảo vệ bằng các quy định của Chương XI) ngang hàng với hòa bình và an ninh của nhân loại (được BLHS năm 1999 bảo vệ bằng các quy định của Chương XXIV). Đây là một sự thay đổi lớn trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua pháp điển hóa lần thứ hai vừa qua. Có nghĩa là, từ đây theo quan điểm của nhà làm luật Việt Nam được cụ thể hóa trong BLHS năm 1999 – chế định nhân đạo về thời hiệu truy cứu TNHS (khoản 2 Điều 23) không được phép áp dụng: a) chẳng những chỉ đối với các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (được quy định tại các điều 341 – 344 BLHS năm 1999 – các điều 277 – 279 BLHS năm 1985 trước đây); b) mà còn đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia (được quy định tại các điều 78 – 91 BLHS năm 1999).

III.

1. Bằng quy định của khoản 1 Điều 55 BLHS năm 1999, lần đầu tiên trong PLHS Việt Nam đã ghi nhận một quy phạm riêng biệt đề cập đến ĐNPL của khái niệm thời hiệu thi hành bản án hình sự là gì? – “là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên”. Đây chính là một điểm mới trong BLHS năm 1999 (mà trước đây trong BLHS năm 1985 không có). Do vậy, cũng như ĐNPL của thời hiệu truy cứu TNHS (khoản 1 Điều 23 BLHS năm 1999), ĐNPL này có ý nghĩa khoa học – thực tiễn quan trọng đối với sự phát triển của PLHS Việt Nam nói riêng, cũng như đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong hoạt động tư pháp hình sự nói chung ở nước ta hiện nay.

2. Bằng các quy định của khoản 2 Điều 55 BLHS năm 1999, PLHS Việt Nam hiện hành đã điều chỉnh cụ thể ba thời hạn thi hành BAHS khác nhau tương ứng với các loại hình phạt và mức hình phạt mà các cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền chỉ có thể và phải căn cứ vào đó để thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án (người đã thực hiện tội phạm). Nói một cách khác, theo quy định của BLHS năm 1999, khi đã hết các thời hạn do luật định tại khoản 2 Điều 55 tương ứng với các loại hình phạt (phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù) và mức hình phạt (ba năm tù trở xuống, ba năm tù đến mười lăm năm tù, trên mười lăm năm tù đến ba mươi năm tù), thì không được thi hành BAHS đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án. Trong trường hợp có nhiều bản án đối với một người thì phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án và căn cứ để tính thời hiệu là hình phạt tổng hợp chung. Nếu trong bản án có nhiều người bị kết án, thì mỗi người sẽ được áp dụng thời hiệu thi hành BAHS phù hợp với loại hình phạt và mức hình phạt đối với họ.

* Về cơ bản, căn cứ vào Điều 226 Bộ luật TTHS, thì thời điểm thi hành BAHS đối với người bị kết án bắt đầu được tính từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật (bao gồm: những BAHS của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; những BAHS của Tòa án cấp phúc thẩm và những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm), chứ không phải từ thời điểm người đó có BAHS (bản án sơ thẩm) hoặc từ thời điểm BAHS có hiệu lực thi hành (bản án có hiệu lực pháp luật kèm theo các điều kiện khác phát sinh sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ví du: thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với A về tội giết người theo Điều 93 BLHS năm 1999 phải được tính từ ngày bản án đó có hiệu lực pháp luật (có thể là bản án hình sự không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bản án hình sự phúc thẩm hoặc quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm), chứ không phải là từ ngày có BAHS hoặc từ ngày BAHS có hiệu lực thi hành đối với A.

* Việc tính lại thời hiệu đã qua đối với tất cả ba thời hạn (tương ứng với các loại hình phạt và mức hình phạt được nêu tại khoản 2 Điều 55 BLHS năm 1999) có nghĩa là: nếu người bị kết án trong một thời hạn nhất định đã qua lại phạm tội mới (không kể là họ có bị phạt tù hay không), thì thời gian đã qua không được tính vào thời hiệu thi hành BAHS mà sẽ được tính lại kề từ ngày người đó phạm tội mới (cần lưu ý là trong BLHS năm 1985 trước đây còn quy định thêm ngoài việc người bị kết án đó phạm tội mới thì họ còn phải bị xét xử và bị áp dụng hình phạt tù).

* Căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc là: kể từ ngày bản án hình sự có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án nhất thiết phải qua một thời hạn nhất định và thời hạn ấy phải do BLHS quy định (khoản 1).

* Ba điều kiện cần, đủ là: a) Điều kiện thứ nhất – một trong các thời hạn đã qua ấy phải tương ứng với một trong các loại hình phạt và mức hình phạt được BLHS quy định cụ thể (khoản 2); b) điều kiện thứ hai – trong khoảng thời gian đã qua ấy, người bị kết án phải không được phạm tội mới và không kể là hình phạt ấy có phải là tù hay không (đoạn 1 khoản 3); c) và cuối cùng, điều kiện thứ ba – trong khoảng thời gian đã qua ấy, người bị kết án không cố tình trốn tránh (hoặc mặc dù họ cố tình trốn tránh) và đối với người bị kết án đó phải không có lệnh truy nã của cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (đoạn 2 khoản 3).

6. Bằng các quy phạm tại khoản 4 Điều 55 BLHS năm 1999, nhà làm luật Việt Nam quy định việc áp dụng thời hiệu đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình sau khi đã qua thời hạn mười lăm năm, thì do Chánh án TANDTC quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSNDTC. Trong trường hợp không cho áp dụng thời hiệu thi hành bản án thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân, tù chung thân được chuyển thành tù ba mươi năm (khác với quy định tương ứng trong BLHS năm 1985 trước đây là “tù chung thân sẽ đổi thành tù hai mươi năm”). Do vậy, chỉ những hành vi phạm tội nào được thực hiện từ ngày 1/7/2000 mà người đó bị phạt tù chung thân thì mới được chuyển thành tù ba mươi năm.

7. Theo quy định của Điều 56 BLHS năm 1999, thì chế định thể hiện tính nhân đạo về thời hiệu thi hành BAHS không được phép áp dụng: a) không chỉ những đối với các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (được quy định tại các Điều 341 – 344 BLHS năm 1999 tương ứng với các Điều 277 – 279 BLHS năm 1985 trước đây); b) mà còn đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia (được quy định tại các Điều 78 – 91 BLHS năm 1999). Như vậy, phạm vi không áp dụng thời hiệu thi hành BAHS được mở rộng theo hướng nghiêm khắc hơn đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều đó phản ánh rõ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là kiên quyết bảo vệ an ninh quốc gia, cũng như thẳng tay trừng trị những người xâm phạm an ninh, hòa bình và ổn định của các nước khác trên thế giới.

IV.

1. Một là, bằng một số quy phạm mới trong BLHS năm 1999, chế định thời hiệu trong luật hình sự nước ta đã thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự của Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền.

2. Hai là, để không bị truy cứu TNHS (hoặc không phải chấp hành bản án hình sự) do hết thời hiệu được quy định trong PLHS, thì ngoài căn cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc (kể từ ngày tội phạm mà người đó thực hiện hoặc từ ngày bản án hình sự đã được tuyên nhất thiết phải qua một thời hạn nào ấy do luật định), người đó phải đáp ứng được một loạt những điều kiện cần đủ, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định.

3. Ba là, bên cạnh việc lĩnh hội quy định được thừa nhận chung của PLHS quốc tế về thời hiệu – không áp dụng chế định này đối với các tội xâm phạm hòa bình và an ninh của nhân loại, PLHS Việt Nam cũng còn có quy định riêng thể hiện tính nghiêm khắc hơn trong việc tăng cường xu hướng trấn áp về hình sự – không áp dụng chế định này đối với cả các tội xâm phạm an ninh quốc gia.

4. Và cuối cùng, chế định thời hiệu trong luật hình sự là một trong các chế định cơ bản của luật hình sự Việt Nam nên việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa chế định này để làm sáng tỏ về mặt lý luận là nhiệm vụ quan trọng hiện nay của khoa học luật hình sự nước ta

Khái Niệm Tội Phạm Trong Bộ Luật Hình Sự Việt Nam

Bộ luật Hình sự được Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2017 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội.

I/ Khái niệm tội phạm, định nghĩa tội phạm, tội phạm là gì?:

Được quy định tại Điều 8 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:

” 1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”

1- Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm: Theo luật hình sự Việt Nam, tội phạm chỉ có thể là hành vi nguy hiểm cho xã hội của con người. Những tư tưởng suy nghĩ của con người nếu chưa thể hiện qua bên ngoài bằng hành vi (hành động hoặc không hành động) thì không thể bị coi là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản có ý nghĩa quyết định đối với các dấu hiệu khác của tội phạm vì chỉ khi một hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội thì mới bị quy định là tội phạm.

Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thể hiện ở chỗ nó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội.

– Tính có lỗi của tội phạm: Lỗi là thái độ tâm lý và hành vi của con người (thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý) đã thực hiện và hậu quả đã xẩy ra.

– Tính trái pháp luật: Một hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm nếu “được quy định trong Bộ Luật Hình sự”. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế: “Không ai bị kết tột vì những hành động hay những sơ suất mà khi bị buộc tội đó không phải là một hành vi phạm tội theo luật quốc gia hay luật quốc tế” (Khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc”.

– Tính phải chịu hình phạt: Thể hiện ở chỗ chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt. Điều đó có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước. Việc áp dụng hình phạt không phải là bắt buộc trong mọi trường hợp. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn chấp hành hình phạt trong các trường hợp được Bộ Luật Hình sự quy định.

2- Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Có thể xử lý bằng các chế tài dân sự, hành chính.

Ví dụ: Hành vi đánh bạc bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội đánh bạc. Còn dưới 5.000.000 đồng thì chỉ bị xử phạt hành chính. (Điều 321 – Bộ Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017).

So với Điều 8 Bộ Luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 và Điều 8, Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 có những điểm mới như:

– Bổ sung pháp nhân thương mại phạm tội là chủ thể của tội phạm;

– Khách thể tội phạm mà Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 được bộ luật này bảo vệ quy định rộng hơn, khái quát hơn, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, bổ sung “quyền con người” trước “quyền, lợi ích hơp pháp của công dân” nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân;

– Khái niệm tội phạm được bổ sung cụm từ “mà theo quy định của Bộ Luật này phải bị xử lý hình sự” nhằm thể hiện rõ hơn mối quan hệ tội phạm và trách nhiệm hình sự: tội phạm phải bị xử lý theo quy định của Bộ luật này và ngược lại, trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

II. Phân loại tội phạm

Điều 9, Bộ Luật hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017

” 1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù; 3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù; 4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

Việc phân loại tội phạm là căn cứ không chỉ là căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể mà còn để xây dựng các khung hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể trong Bộ luật này phù hợp với chính sách hình sự của nhà nước. Đây cũng là cơ sở pháp lý để các cơ quan tố tụng nhận thức đúng và áp dụng thống nhất các quy định của Bộ luật này trong thực tiễn xét xử.

So với Điều 8 Bộ Luật Hình sự năm 1999, Điều 9 Bộ Luật Hình sự năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung sau:

– Việc phân loại tội phạm được sửa đổi theo hướng quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn bằng cách thay thế cụm từ “gây nguy hại bằng các cụm từ ” có tính chất và mức độ nguy hiểm” cho phù hợp với căn cứ phân loại tội phạm; bổ sung cụm từ “do Bộ luật này quy định” sau cụm từ “mức cao nhất của khung hình phạt” nhằm khắc phục sự hiểu nhầm về bản chất của phân loại tội phạm; thay các cụm từ “đến 03 năm tù”, “đến 07 năm tù”, “đến 15 năm tù” và ” đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” bằng các cụm từ tương ứng: “phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”, “từ trên 03 năm đến 07 năm tù”, “từ trên 07 năm đến 15 năm tù” và “từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” nhằm bảo đảm sự đầy đủ, rõ ràng, chính xác hơn trong phân loại tội phạm.

– Bổ sung khoản 2 quy định về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện.

Trân trọng!.

Cập nhật thông tin chi tiết về Hình Phạt Tử Hình Trong Luật Hình Sự Việt Nam trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!