Bạn đang xem bài viết Hướng Soạn Bài Lão Hạc Ngắn Gọn Và Đầy Đủ được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Tìm hiểu chung để soạn bài Lão Hạc
1. Tác giả
– Nam Cao (1917 – 1951), ông sinh ra ở tỉnh Hà Nam.
Nhà văn Nam Cao
– Ông là cái tên xuất chúng trong nền văn học nước nhà giai đoạn 1930 – 1945 và còn đảm nhiệm vai trò là một nhà báo, một chiến sĩ anh
2. Tác phẩm
– Những tác phẩm ông từng sáng tác thường gắn liền với hình ảnh người nông dân Việt Nam trong thời kỳ trước và sau cách mạng tháng Tám.
- Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong số những tác phẩm xuất sắc của nhà văn, để lại nhiều dấu ấn và được chuyển thể thành nhiều loại hình nghệ thuật như kịch, phim,… Tác phẩm viết lên nỗi cùng cực của người nông dân lam lũ và qua đó tố cáo tội ác tàn bạo của chế độ xã hội cũ.
3. Tóm tắt sơ lược để soạn văn bài Lão Hạc
Lão Hạc vốn là một người nông dân nghèo, vợ đã mất sớm, đứa con trai duy nhất của ông không có tiền lấy vợ nên bỏ đi làm ở đồn điền cao su. Lão cứ sống thế một mình trong nghèo khổ, cô độc chỉ với một chú chó tên cậu Vàng để bầu bạn. Sau trận ốm nặng, lão đã không còn đủ sức đi làm thuê, làm mướn như trước được nữa. Cuối cùng, lão ra quyết định bán cậu Vàng. Sau đó lão đem tiền và mảnh vườn chay gửi ông giáo lo ma chay – một người trí thức nghèo hay sang nhà lão. Lão nói dối Binh Tư xin bả chó rồi tự kết liễu đời mình. Và cuối cùng lão Hạc đã chết trong cơn quằn quại, dữ dội, không ai hiểu nguyên nhân chuyện gì chỉ ngoại trừ Binh Tư và ông giáo.
4.
Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến “một thêm đáng buồn’): câu chuyện bán chó của lão Hạc, sự day dứt, hụt hẫng và cuộc sống về sau của lão.
– Phần 2 ( “Không! Cuộc đời” đến hết): cái chết tức tưởi của lão Hạc.
II. Hướng dẫn soạn bài Lão Hạc
chi tiết
Câu 1 (trang 48 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):
Qua soạn bài Lão Hạc thấy được diễn biến về tâm trạng của lão Hạc quanh quyết định bán chó:
- Mối quan hệ: cậu Vàng ấy không chỉ là kỉ niệm, mà còn là tín vật mà người con để lại cho lão, và là người bạn trung thành làm cuộc sống của lão bớt cô đơn, quạnh hiu.
- Lão đau khổ, dày xé bản thân tột độ khi cùng đường phải bán cậu Vàng: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước…Lão hu hu khóc”, lão đau đớn xé lòng, nghẹn ngào tội lỗi vì “đã trót đánh lừa một con chó”. Lão thương cho cậu Vàng và thương cả kiếp người khốn khó của mình.
→ Người nông dân dù nghèo khổ, cùng cực nhưng mang trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch, thiện lương
Câu 2 (trang 48 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):
- Nguyên nhân cái chết: tuyệt vọng sau trận ốm, túng quẫn làm liều, bán đi cậu Vàng cũng là khi lão mất đi người bạn thân thiết bên cạnh, cảm giác tội lỗi bủa vây vì trót lừa một con chó vô tội. Lão chết vì lòng tự trọng của lão, vì tình thương và vì quá đỗi thiện lương.
- Trước khi tìm đến cái chết, lão Hạc nhờ ông giáo giữ vườn cho tới khi con trai về, giữ tiền mà lão có để lo tiền ma chay.
Nhân vật Lão Hạc trong truyện
→ Tình cảnh éo le, đáng thương nhưng lão không muốn liên lụy bất cứ ai. Một con người có lòng tự trọng cao, tinh tế, hiền hậu, hiểu đời, hiểu người nhưng lại bất lực vì hoàn cảnh. Là người cha vô cùng thương con, sống giàu tình cảm, tấm lòng lương thiện.
Câu 3 (trang 48 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):
Soạn văn bài Lão Hạc để thấy thái độ, tình cảm nhân vật “tôi” với lão Hạc có sự thay đổi:
Lúc đầu dửng dưng và thờ ơ khi nghe câu chuyện bán chó. Sau khi thấu hiểu sự tình đã an ủi, động viên lão. Chứng kiến cái chết đầy đau thương của lão Hạc, nhân vật “tôi” cảm động vô cùng, thấy kính trọng hơn nhân cách và tấm lòng của lão. Ông giáo là người biết thấu hiểu, đồng cảm và giàu lòng trắc ẩn.
Câu 4 (trang 48 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):
Khi mới nghe Binh Tư kể, ông giáo thấy buồn và thất vọng vì sự tha hóa nhân cách con người, lầm tưởng lão Hạc đã thật sự đánh mất đi lòng lương thiện bấy lâu nay lão có.
Lão Hạc thương cậu Vàng vô cùng
Chứng kiến cái chết thương tâm trong âm thầm của lão Hạc, ông giáo thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì hy vọng, vì niềm tin vào xã hội vẫn còn khi thật sự còn đó những con người vẫn giữ trong mình bản chất lương thiện. Nhưng “lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nhưng cuộc đời vẫn đáng buồn vì còn đó rất nhiều số phận hẩm hiu, số kiếp bất hạnh của những con người sống lương thiện, buồn cho một sự lựa chọn kết liễu cuộc đời trong đau đớn dữ dội mà lão Hạc phải chịu.
Câu 5 (trang 48 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):
- Cái hay và thú vị của truyện nằm ở việc mô tả tâm lí nhân vật tinh tế và cách kể cuốn hút.
- Tình huống truyện đầy bất ngờ, gỡ rối và làm sáng tỏ nhân cách lão Hạc cho người đọc.
- Xây dựng nhân vật sinh động, chân thực từ ngoại hình cho đến nội tâm.
- Ngôi kể thứ nhất được dẫn dắt đầy linh hoạt, góp phần tạo sự gần gũi chân thực. Nhân vật “tôi” là người kể nhưng như nhập vào vai lão Hạc, nên diễn tả mọi cảm xúc đều rất chân thật, sâu sắc.
Câu 6* (trang 48 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):
Ý nghĩa tác phẩm sau khi soạn văn bài Lão Hạc
- Ý nghĩ được thể hiện qua nhân vật “tôi” đậm tính triết lí về con người và cuộc đời.
- Ngoài ra còn thể hiện tình thương, tấm lòng của tác giả với con người.
Câu 7* (trang 48 sgk Ngữ văn 8 Tập 1):
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc cho thấy:
- Cuộc sống, số phận người nông dân trong xã hội cũ: bất hạnh, nghèo khổ, bị đè nén, áp bức trong một xã hội không lối thoát.
- Phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng: lương thiện, hiền lành, giàu tình thương yêu, không bị cuộc sống làm biến chất.
III.
Tổng kết soạn bài Lão Hạc
1. Gía trị nghệ thuật
- Ngôi kể thứ nhất mới mẻ, chân thật, gần gũi.
- Tình tiết truyện logic, cuốn hút.
2. Giá trị nội dung
Ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người nông dân với tấm lòng thiện lương và nhân cách không bị biến chất dưới một xã hội phong kiến nhiều bất công, áp bức.
Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh Ngắn Gọn, Đầy Đủ Nhất
A- Tác giả, tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh
– Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Hưng Yên, quê mẹ ở Hà Tĩnh.
– Ông là một danh y đồng thời là nhà văn nhà thơ lớn.
– Ông là tác giả của bộ sách y học nổi tiếng “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”.
2. Tác phẩm Thượng kinh ký sự
– Thượng kinh ký sự là tập nhật kí bằng chữ Hán, in ở cuối bộ “Y tông tâm lĩnh“, được viết bằng chữ Hán.
– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm được trích từ quyển Thượng kinh kí sự nói về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn và phủ Chúa để bắt mạch kê đơn cho Thế tử Trịnh Cán.
– Nội dung chính: miêu tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy thế lực của nhà chúa qua những điều mắt thấy tai nghe, nhân dịp Lê Hữu Trác được chúa Trịnh Sâm triệu về kinh đô chữa bệnh cho chúa và thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm còn thể hiện thái độ kinh thường danh lợi của tác giả.
– Bố cục
Bố cục Vào phủ chúa Trịnh được chia làm 4 phần chính, bao gồm:
+ Phần 1: Quang cảnh bên ngoài phủ chúa.
+ Phần 2: Những điều mắt thấy tai nghe khi vào phủ chúa
+ Phần 3: Quang cảnh khi đi sâu vào nội cung và khám bệnh cho thế tử
+ Phần 4: Tác giả nhận định và đề ra phương án chữa bệnh
3. Tóm tắt đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
+ Cách tóm tắt 1
Nhân vật trong câu chuyện là Lê Hữu Trác, thầy lang giỏi. Ông có lệnh vào phủ chúa Trịnh để chữa bệnh, ông đi vào chốn phồn hoa, vốn là quan trong triều đình nhưng khi thấy cảnh giàu sang, sung sướng, phồn hoa của vua chúa Trịnh cũng lấy làm ngạc nhiên. Sau khi trải qua nhiều lớp cửa ông cũng đến được nơi chúa ở, phòng chúa ở rất đặc biệt được sơn son thếp vàng, đều là những đồ quý giá mà nhân gian chưa từng thấy. Trong khi chờ đợi chúa, ông được ăn những đồ ngon vật lạ hiếm có trên đời, qua đó biết được khẩu vị của những bậc quyền quý. Ông có nhiệm vụ bắt mạch, tìm bệnh cho thế tử, nhận thấy bệnh của thế tử xuất phát từ chúa thường ở chốn màn che trướng phủ, ăn sướng, mặc ấm phủ tạng yếu, bệnh đã lâu nên trầm trọng. Vì nghĩ đến nước nhà, lòng trung thành đối với đất nước ông đã kê đơn thuốc giúp thế tử chữa trị bệnh. Sau khi hoàn thành công việc khám bệnh, ông từ giã trở về đợi thánh chỉ.
+ Cách tóm tắt 2
Vào ngày đầu tiên của tháng 2, thầy lang Lê Hữu Trác được lệnh triệu tập vào phủ chúa để khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Mặc dù chỉ đi từ cửa sau của phủ chúa nhưng ông cũng thấy được mức độ xa hoa, giàu có như thế nào. Đồ đạc đều được sơn thếp vàng, đồ cổ quý giá nhiều vô kể, cả một căn nhà lớn lại là phòng trà, thực sự quá xa hoa. Cho dù cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa là vậy nhưng Lê Hữu Trác vẫn có thể nhận ra được bức tranh hiện thực ở nơi đây là rất tùng túng và ngột ngạt. Thế tử ở nơi trưởng rủ màn che đến mức mà thầy lang phải đi qua mấy lớp cửa, vài hàng lang dài miên man mới có thể đến được nơi để thăm khám. Cũng bởi sống cuộc sống sung sướng như ở trong nơi nắng mưa chẳng tới đầu, ăn quá no, mặc quá ấm, lại thêm không chịu vận động nên mới khiến cho nội phủ mới yếu đi mà sinh ra bệnh. Lê Hữu Trác vốn là người không màng công danh, lợi lộc nên sau khi kê đúng đơn thuộc đã từ giã về quê đợi thành chỉ.
+ Cách tóm tắt 3
Tôi vẫn nhớ ngày hôm đó vào sáng sớm ngày 1/2 nhận được thánh chỉ vào phủ chầu ngay lập tức. Đi từ cửa sau vào phủ tôi nhìn thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua nở, chỉ vậy thôi cũng đủ nhận thấy sự giàu sang của vua chúa lớn đến nhường nào. Đi tiếp qua vài lần cửa nữa, qua các hàng lang dài miên man thì cuối cùng tôi được dẫn vào ngôi nhà lớn mà được gọi là phòng trà. Đồ đạc đều được sơn thếp vàng, tôi cũng thấy cả những đồ vật cổ quý giá. Tôi không được yết kiến Thánh thượng vì lúc đó người đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần. Sau khi được dùng bữa với những thứ sa hoa thôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung để thăm khám cho thế tử Trịnh Cán. Bởi nằm lâu trong chốn màn che trướng rủ, ăn quá nó, mắc quá ấm lại thêm lười vận động nên nội phủ tạng yếu đi, dẫn đến phát bệnh. Tôi nghĩ còn nợ ơn nước nên đã kê đơn thuốc theo đúng bệnh rồi từ giã trở về quê chờ thánh chỉ.
B- Soạn bài Vào phủ Chúa Trịnh
I. Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh ngắn nhất
Câu 1 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1). Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào?
Trả lời:
– Quang cảnh trong phủ chúa: Lộng lẫy, tráng lệ.
+ Phải qua nhiều lần cửa, “ai muốn ra vào phải có thẻ”.
+ Vườn hoa: cây hoa um tùm, chim kêu, gió đưa.
+ Lầu son gác tía.
+ Đồ đạc quý hiếm, sơn son thếp vàng.
+ Nội cung thế tử: Phải qua năm sáu lần trướng gấm, phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt.
– Cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa là cung cách sinh hoạt sa hoa, quyền quý.
+ Đầy quyền uy, có đầy tớ truyền lệnh
+ Nhắc đến chúa và thế tử một cách cung kính: “thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà”…
+ Nhiều phi tần, kẻ hầu người hạ, thế tử có 7-8 thầy thuốc,…
– Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác: không màng tới những thứ sa hoa, không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu tự do.
Câu 2 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1). Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh (chị) cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.
Trả lời:
– Chi tiết đắt: ” Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ” hay chi tiết miêu tả về nơi ở của thế tử: qua năm sáu lần trướng gấm, phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt.
– Các chi tiết thể hiện sự quyền quý, giàu có, chứng tỏ quyền uy và cuộc sống sa hoa, ăn chơi hưởng lạc của nhà chúa lúc bấy giờ.
Câu 3 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1). Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?
Trả lời:
Cách chẩn đoán bệnh của Lê Hưu Trác trong Vào phủ chúa Trịnh cho thấy ông là
– Một người thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm.
– Một thầy thuốc có lương tâm và đức độ.
– Đặc biệt ông còn khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị.
Câu 4 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1). Theo anh (chị), bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những nét đặc sắc đó.
Trả lời:
Bút pháp đặc sắc trong truyện
– Sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực những gì đã nhìn thấy
– Tả cảnh sinh động
– Kể diễn biến sự việc một cách khéo léo, lôi cuốn người đọc
LUYỆN TẬP
Câu hỏi trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1
So sánh Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này.
Trả lời:
– Điểm chung của đa số các tuỳ bút là giá trị hiện thực và thái độ của nhà văn trước hiện thực ấy.
– Tuy nhiên mỗi tuỳ bút lại có sự khác nhau trong cách bộc lộ thái độ của nhà văn trước hiện thực (trực tiếp hay gián tiếp, rõ ràng hay kín đáo,…); khác nhau trong việc lựa chọn các chi tiết nghệ thuật, cũng như cách thể hiện nghệ thuật.
– Có thể tự làm rõ những điều này khi so sánh Thượng kinh kí sự với Vũ trung tuy bút của Phạm Đình Hổ (một tác phẩm cùng thời) hoặc với Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm (một tác phẩm kí thời hiện đại).
II. Soạn bài Vào phủ chúa Trịnh chi tiết
Trả lời: * Về quang cảnh trong phủ chúa:
– Vào phủ chúa Trịnh phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. Ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, ” ai muốn ra vào phải có thẻ“, trong khuôn viên phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền bá mệnh lệnh ra bên ngoài. Vườn hoa trong phủ chúa ” cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương“.
– Bên trong phủ bày biện toàn những đồ sang trọng như: kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng rồi những đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là ” mâm vàng, chén bạc“. Trong nội cung thế tử cũng vậy: phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn che ngang sân, ” xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt“.
Có thể nói, chính những gì đang hiển hiện ra trước mắt người đọc đã tự nói lên tất cả cái quyền uy tối thượng đang nằm trong tay nhà chúa cũng như nếp hưởng thụ cực kì xa xỉ của Trịnh Sâm và gia đình.
* Cung cách sinh hoạt đầy kiểu cách:
– Khi tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh của chúa thì có ” tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường“. ” Cáng chạy như ngựa lồng” khiến người trong cáng “bị xốc một mẻ, khổ không nói hết”. Trong phủ chúa, ” người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi“.
– Trong cuộc tiếp kiến vị Đông cung thế tử, tất cả những lời lẽ nhắc đến chúa và thái tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ (” Thánh thượng đang ngự ở đấy”, “chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà” (cho thế tử uống thuốc), “phòng trà” (nơi thế tử uống thuốc),…).
– Trong cuộc tiếp kiến ấy, tác giả cũng không được thấy mặt chúa. Tất cả những mệnh lệnh của chúa đều được phán bảo qua quan Chánh đường hoặc người truyền mệnh. Thầy thuốc xem bệnh xong cũng không được phép trao đổi với chúa mà phải viết tờ khải để quan Chánh đường dâng lên chúa. Nội cung trang nghiêm đến nỗi vị thầy thuốc cũng phải “nín thở” khi đứng chờ ở xa và “khúm núm” khi đến trước sập để xem mạch cho thế tử.
* Cách nhìn của tác giả:
– Tác giả không bộc lộ trực tiếp thái độ nhưng qua việc chọn chi tiết để kể và tả, đôi lúc xen vào lời nhận xét khách quan, phần nào thấy được thái độ của ông:
+ Ông nhận xét cảnh xa hoa, lộng lẫy tấp nập ở phủ chúa ” khác hẳn người thường” đến mức không tưởng tượng nổi, ” khác nào ngư phủ đào nguyên thưa nào“.
+ Được mời ăn cơm: tác giả nhận xét ” toàn của ngon vật lạ“
Câu 2 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1). Phân tích những chi tiết trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mà anh (chị) cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.
Trả lời:
– Đoạn trích có nhiều chi tiết nghệ thuật rất “đắt”, thể hiện nổi bật nội dung hiện thực của tác phẩm. Sự tinh tế và sắc sảo của tác giả đọng lại trong đoạn trích là ở những chi tiết tuy nhỏ nhưng rất gây ấn tượng. Ví như chi tiết đối lập: thế tử – mội đứa bé – ngồi chễm chệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban một lời khen “rất trẻ con”: ” Ông này lạy khéo !“.
– Hoặc ở một chi tiết khác khi tác giả đi vào nơi ở của thế tử để xem mạch: ” Đột nhiên thấy ông ta (quan Chánh đường) mở một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy…“.
– Chi tiết miêu tả nơi ” Thánh thượng đang ngự” (” có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt“), rồi chi tiết miêu tả những dụng cụ dùng để ăn uống, những món ăn khi quan Chánh đường mời thầy thuốc dùng bữa sáng,..
Câu 3 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1) . Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này?
Trả lời:
Dõi theo từng bước đi của người thầy thuốc, người đọc có thể nhận thấy thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ khá sâu sắc của nhà văn:
– Đứng trước cảnh xa hoa lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ nơi phủ chúa, tác giả nhận xét: ” Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác hẳn người thường“. Trước cảnh ấy, tác giả đã vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng, vương giả nơi phủ chúa. Trong bài thơ ấy, tác giả đã phải thốt lên: ” Cả trời Nam sang nhất là đây!“.
+ Khi được mời ăn cơm sáng, tác giả đã khéo léo bày tỏ nhận xét: ” mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia“.
+ Nói về bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét: ” Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi“.
Tác giả tỏ ra dửng dưng trước những quyến rũ vật chất, đồng thời có những biểu hiện chứng tỏ thái độ không đồng tình với cuộc sống tuy quá no đủ và tiện nghi nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự do.
– Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác trong Vào phủ chúa Trịnh khi chữa bệnh cho thế tử còn diễn biến phức tạp hơn.
+ Thăm bệnh xong, người thầy thuốc đã hiểu được rõ nguyên nhân căn bệnh của thái tử. Ông đưa ra những luận giải rất hợp lí, có cách chữa trị riêng. Nhưng trong lúc ấy, ông lại lo nếu chữa bệnh hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, lúc đó lại bị trói buộc bởi vòng danh lợi.
+ Thoáng nghĩ đến việc kê một đơn thuốc vô thưởng, vô phạt nhưng rồi ông lại quên ý nghĩ đó ngay. Việc làm ấy trái với y đức, trái với lương tâm ông và thậm chí phụ lòng trung của tổ tiên. Hai suy nghĩ đó giằng co, xung đột với nhau. Cuối cùng ông đã chọn theo lương tâm, phẩm chất của người thầy thuốc. Ông thẳng thắn đưa ra bài thuốc của mình – một bài thuốc trái với ý của nhiều người khiến quan Chánh đường thậm chí có ý đắn đo.
Từ những chi tiết về việc chữa bệnh của thầy thuốc Lê Hữu Trác, có thể thấy:
+ Tác giả là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm, có kiến thức sâu và rộng.
+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một người thầy giàu y đức.
+ Trên cả những điều đó là một thái độ coi thường danh lợi, yêu thích nếp sống tự do, thanh đạm ở quê nhà. Quan điểm này tất nhiên cũng gián tiếp cho thấy, tác giả không đồng tình với lối sống xa hoa của những người nắm giữ trọng trách quốc gia.
Câu 4 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1) . Theo anh (chị), bút pháp kí sự của tác giả có gì đặc sắc? Phân tích những nét đặc sắc đó.
– Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo; bút pháp tả cảnh sinh động.
– Nội dung ghi chép trung thực.
– Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn, hấp dẫn, đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và việc.
– Giọng điệu châm biếm, phê phán một cách nhẹ nhàng, kín đáo.
– Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo sức hút, tăng giá trị hiện thực, gây ấn tượng sâu sắc về cảnh và người nơi phủ chúa.
LUYỆN TẬP
Câu hỏi luyện tập trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1. So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh (chị) đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này. (Bài tập chương trình cơ bản)
Trả lời:
– Điểm chung: kể về người thật, việc thật, đề cao giá trị hiện thực và thái độ của nhà văn trước hiện thực ấy.
– Điểm riêng: Tuy nhiên mỗi tuỳ bút lại có sự khác nhau trong cách bộc lộ thái độ của nhà văn trước hiện thực (trực tiếp hay gián tiếp, rõ ràng hay kín đáo,…); khác nhau trong việc lựa chọn các chi tiết nghệ thuật, cũng như cách thể hiện nghệ thuật.
– Có thể tự làm rõ những điều này khi so sánh Thượng kinh kí sự với Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (một tác phẩm cùng thời) hoặc với Nhật kí ĐặngThuỳ Trâm (một tác phẩm kí thời hiện đại).
* Vào phủ chúa Trịnh với Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
– Giống nhau: Giá trị của hiện thực và thái độ của tác giả đối với hiện thực
+ Cả 2 tác phẩm đều phản ánh hiện thực thói sống xa hoa, hưởng lạc
+ Thái độ của tác giả: Không đồng tình với cuộc sống xa hoa, tỏ ý phê phán cuộc sống nơi phủ chúa và những con người ở đấy. Đặc biệt là chúa Trịnh Sâm, thế tử Trịnh Cán và quan lại quyền quý.
– Khác nhau:
Vào phủ chúa Trịnh:
+ Nội dung: là kí sự nhân chuyến tác giả được triệu về kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán
+ Nét đặc sắc về nghệ thuật: quan sát tỉ mỉ, ngòi bút tinh tế ghi chép việc thực người thực, chon lọc chi tiết đắt giá; miêu tả khách quan, có sự kết hợp hài hòa giữa giữa thơ và văn xuôi tạo nên chất trữ tình; đặc biệt sự khéo léo trong cách kể xen lẫn lời bình.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh:
+ Nội dung: kể lại những thú ham chơi của chúa Trịnh Sâm
+ Nét đặc sắc nghệ thuât: ghi chép chân thực, sinh động, giàu chất trữ tình. Các chi tiết miêu tả đắt giá, tả cảnh tỉ mỉ nhưng nhuốm màu sắc u ám, mang tính chất dự báo. Giọng điệu gần như khách quan nhưng lại khéo léo thể hiện thái độ lên án bọn vua quan thông qua thủ pháp liệt kê.
* Vào phủ chúa Trịnh với Vũ trung tùy bút
– Giống nhau:
+ Giá trị hiện thực
+ Thái độ của tác giả trước hiện thực
– Những điểm đặc sắc riêng của đoạn trích:
+ Vào phủ chúa Trịnh: Sự chú ý chi tiết, bút pháp kể và tả khách quan, những chi tiết chọn lọc sắc sảo tự nói lên ý nghĩa sâu xa …
+ Đặc biệt là của bút pháp kí sự Lê Hữu Trác:
Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực.
Tả cảnh sinh động, kể khéo léo, lôi cuốn.
Nghệ thuật tương phản càng thể hiện rõ giá trị hiện thực tác phẩm và chân dung tác phẩm.
III. Soạn Vào phủ chúa Trịnh nâng cao
Câu 1. Cho biết Lê Hữu Trác dùng bao nhiêu lần từ thánh chỉ, thánh thượng, thánh thể trong đoạn trích? Những từ đó dùng để chỉ cái gì, chỉ ai và dụng ý của tác giả?
Trả lời:
Trong đoạn trích, Lê Hữu Trác đã dùng từ thánh chỉ 4 lần (” có thánh chỉ triệu cụ vào”, “có thánh chỉ triệu”, “nay vâng thánh chỉ vào kinh”, “để chờ xem thánh chỉ như thế nào”), từ thánh thượng 3 lần (” thánh thượng cho phép cụ vào hầu mạch”, “thánh thượng đang ngự ở đấy”, “thánh thượng thường vẫn ngồi trên ghế rồng này”) và từ thánh thể 1 lần ( “tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác”).
Những từ này dùng để chỉ:
+ Thánh chỉ: chiếu chỉ của vua, ở đây là chiếu chỉ của chúaTrịnh Sâm.
+ Thánh thượng: từ dùng để chỉ nhà vua, ở đây chỉ chúa Trịnh Sâm.
+ Thánh thể: thân thể, cơ thể của vua, ở đây chỉ thế tử Trịnh Cán.
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả kể ra rất nhiều người phục vụ, từ quan quân đến người hầu. Điều này gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về uy quyền của chúa Trịnh Sâm?
Trả lời:
Trong đoạn trích, tác giả kể ra rất nhiều người phục vụ, từ quan quân đến người hầu. Số lượng cùng chức vụ và tính chất của những người phục vụ đó cho thấy uy quyền của nhà chúa và hệ thống quan liêu ăn bám rất lớn. Phủ chúa chẳng những giống mà còn hơn cả cung vua. Sự thực ấy không chỉ được Lê Hữu Trác phản ánh mà sử sách bấy giờ ghi chép cũng rất nhiều.
Câu 3. Để đến được nơi ở của thế tử Cán, Lê Hữu Trác phải đi qua những nơi nào? Quang cảnh và cách bài trí từng nơi tác giả đi qua gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc sống của chúa Trịnh?
Trả lời:
Để đến được nơi ở của thế tử Cán, Lê Hữu Trác phải bước qua màn gấm đi vào bên trong tối om, sau đó đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy và đến một cái phòng rộng nơi thế tử sống.
Quang cảnh và cách bài trí từng nơi tác giả đi qua gợi ra một cuộc sống quyền quý, giàu sang khác hẳn người thường của chúa Trịnh trong phủ chúa.
Câu 4. Dựng lại không khí khám bệnh cho thế tử Cán trong phủ chúa Trịnh. Chú ý tới sự hối hả, tấp nập có vẻ trang nghiêm nhưng hài hước qua cách kể của người tường thuật.
Trả lời:
Ngay từ “sáng tinh mơ” Lê Hữu Trác đã bị hối thúc bởi “tiếng gõ cửa rất gấp”, người đưa tin thì “thở hổn hển” vì phải “chạy” để báo tin cho kịp, lính thì đã đem cáng đến chờ sẵn ở ngoài cửa và yêu cầu phải “vào phủ chầu ngay”.
Không khí đi đường được miêu tả vừa buồn cười, vừa đáng thương. Trong Thượng kinh kí sự tác giả viết: Đầy tớ phải “chạy đàng trước hét đường”, cáng thì “chạy như ngựa lồng” khiến người được khiêng bị xóc “khổ không nói hết”… Khi bước chân vào cửa phủ chúa, không khí càng gấp gáp hơn. Người giữ cửa thì truyền báo “rộn ràng”, người khác thì “qua lại như mắc cửi”,…
⇒ Không khí hối hả, tấp nập có vẻ trang nghiêm nhưng qua cách kể, cách nhìn của người tường thuật nó lại trở nên hài hước và mỉa mai.
Câu 5. Theo anh (chị), cách viết kí của Lê Hữu Trác có gì đặc sắc?
Trả lời:
– Cách viết kí của Lê Hữu Trác có sự kết hợp với nhiều hình thức nghệ thuật như du kí, nhật kí, hồi kí, kí phong cảnh,…
– Có nhiều chi tiết, sự việc được ghi chép một cách trung thực.
– Bộc lộ thái độ một cách kín đáo qua việc miêu tả khách quan.
– Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo; bút pháp tả cảnh sinh động.
– Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn, hấp dẫn, đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và việc.
– Giọng điệu châm biếm, phê phán một cách nhẹ nhàng, kín đáo.
– Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo sức hút, tăng giá trị hiện thực, gây ấn tượng sâu sắc về cảnh và người nơi phủ chúa.
LUYỆN TẬP
Câu hỏi. Anh chị hãy dựng lại hình tượng nhân vật Lê Hữu Trác qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (Bài tập chương trình nâng cao).
Gợi ý:
Qua đoạn trích có thể dựng lại hình tượng nhân vật Lê Hữu Trác như sau:
− Lê Hữu Trác – nhà văn, nhà thơ tài năng, khái quát được cảnh giàu sang của chúa khác hẳn người thường qua đoạn trích. Lời thơ pha một chút châm biếm, từ ngữ đăng đối, ý tứ sâu xa.
− Lê Hữu Trác – bậc túc nho, tính tình thâm trầm, hóm hỉnh, luôn mỉm một nụ cười kín đáo châm biếm chúa Trịnh.
− Lê Hữu Trác – một danh y từ tâm và am hiểu y lí sâu sắc. Quan niệm chữa bệnh của ông khác hẳn các danh y của hai cung, sáu viện.
– Vì y lí sâu sắc, lại có lòng từ tâm của một bậc danh y, nên ở Lê Hữu Trác có sự mâu thuẫn khó xử: nếu chữa chạy cho thế tử Cán khỏi bệnh, sẽ được chúa trọng dụng, nghĩa là bị giữ lại trong cung không được về với núi xưa vườn cũ, nhưng nếu không hết lòng vì con bệnh thì trái với đạo đức của bậc lương y. Cuối cùng, y đức thắng sở thích ẩn dật của bậc trí ẩn. Lê Hữu Trác đành phải tận tâm chữa bệnh cho thế tử Cán. Chỉ tiếc rằng, chúa và những kẻ “quân sư” cho chúa không dám dùng phương thuốc của ông.
C – Kiến thức mở rộng
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, sắc sảo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường danh lợi.
Đoạn trích ” Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất,trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Bức tranh chân thực, sinh động về cuộc sống xa hoa đầy quyền uy nơi phủ chúa Trịnh và thái độ, tâm trạng của nhân vật “tôi” khi vào phủ chúa Trịnh chữa bệnh cho Trịnh Cán.
– Vẻ đẹp tâm hồn của Hải Thượng Lãn Ông: lương y, nhà nho thanh cao, coi thường danh lợi.
– Những nét đặc sắc của bút pháp kí sự: tài quan sát, miêu tảsinh động những sự việc có thật; lối kểchuyện lôi cuốn, hấp dẫn; chọn lựa chi tiết đặc sắc, đan xen văn xuôi và thơ.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh phản ánh quyền lực to lớn của Trịnh Sâm, cuộc sống xa hoa hưởng lạc trong phủ chúa, đồng thời bày tỏ thái độ coi thường danh lợi, quyền quý của tác giả.
3. Giá trị nội dung và nghệ thuật
* Giá trị nội dung
– Đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc
+ Cuộc sống sa hoa, quyền quý của chúa Trịnh và tầng lớp quan lại thực dân. Sự sa hoa trong cách bày trí, kiến trúc, nội thất ở đây hoàn toàn đối lập với sự nghèo đói, thiếu thốn, khổ cực của nhân dân ở ngoài kia.
+ Bộ máy quan lại, guồng máy phục vụ đông đúc, tấp nập với những nghi lễ kì lạ, sự kiểm soát nghiêm ngặt và những phép tắc , quy củ ngặt nghèo, ngay cả với việc khám bệnh cho thế tử.
+ Cuộc sống ăn chơi, trụy lạc, sa đọa dẫn tới bện tật của cha con chúa Trịnh Sâm, Trịnh Cán được hiện lên rõ nét chỉ bằng một vài chi tiết miêu tả của tác giả.
– Hình ảnh của người thầy thuốc Lê Hữu Trác.
+ Thờ ơ, dửng dưng thậm chí là châm biếm, mỉa mai với cuộc sống sa hoa, giàu sang quyền quý trong phủ Chúa. Đồng thời cũng cho ta thấy được ông là một con người coi thường danh lợi, không để vinh hoa phú quý, tiền tài công danh ràng buộc.
+ Là một người thầy thuốc giỏi, có lương y, có đạo đức cao cả: ông bắt được ngay bệnh của chúa Trịnh Cán và có cách chữa trị từ cội nguồn, gốc rễ của bệnh. Dù biết có thể sẽ bị vướng chân vào vòng danh lợi nhưng lương tâm của người thầy thuốc không cho phép ông chữa bệnh theo cách cầm chừng, vô thưởng, vô phạt.
+ Là người cương trực, thẳng thắn, bảo vệ quan điểm, ý kiến của mình mặc dù ý kiến ấy không đồng thuật với số đông ý kiến của các lương y trong phủ Chúa lúc bấy giờ và cả chính quan Chánh đường, người đã tiến cử ông.
* Giá trị nghệ thuật
– Tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, sắc sảo đã dựng nên bức tranh phủ chúa với hiện thực cuộc sống vô cùng sinh động.
– Tác giả đã lựa chọn khắc họa những chi tiết đặc sắc tạo nên cái thần của cảnh vật. Những chi tiết đắt giá ấy đã giúp cho người đọc hình dung ngay về hiện thực, nhân vật mà tác giả đang nói tới.
– Sự đang xen thơ vào trong tác phẩm làm cho bài kí của ông đậm chất trữ tình.
-/-
Với toàn bộ nội dung chi tiết phía trên các em hoàn toàn có thể tự tin chuẩn bị bài soạn Vào phủ chúa Trịnh trong phần soạn văn 11 tốt nhất trước khi lên lớp. Chúc các em học tốt.
Tâm Phương (Tổng hợp)
Hướng Dẫn Soạn Bài Lão Hạc
I. TÁC GIẢ – TÁC PHẨM
Nhà văn Nam Cao (1917-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng (nay thuộc xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam).
– Khi còn nhỏ, Nam Cao ở làng và thành phố Nam Định. Từ 1936, bắt đầu viết văn in trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, ích hữu… Năm 1938, dạy học tư ở Hà Nội và biết báo. Năm 1941, ông dạy học tư ở Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc. Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia cướp chính quyền ở phủ Lí Nhân và được cử làm chủ tịch xã. Năm 1946, ông ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hoá cứu quốc và là thư kí toà soạn tạp chí Tiên phong của Hội. Cùng năm đó, ông tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách phóng viên, hoạt động ở Nam Bộ. Sau đó lại trở về nhận công tác ở Ti Văn hoá Nam Hà. Mùa thu 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc và là thư kí toà soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1950, ông nhận công tác ở tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Uỷ viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương. Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III. Bị địch phục kích và hi sinh. – Tác phẩm đã xuất bản: Đôi lứa xứng đôi (truyện ngắn, 1941); Nửa đêm (truyện ngắn, 1944); Cười (truyện ngắn, 1946); ở rừng (nhật kí, 1948); Chuyện biên giới (bút kí, 1951); Đôi mắt (truyện ngắn, 1948); Sống mòn(2) (truyện dài, 1956, 1970); Chí Phèo (truyện ngắn, 1941); Truyện ngắn Nam Cao (truyện ngắn, 1960); Một đám cưới (3) (truyện ngắn, 1963); Tác phẩm Nam Cao (tuyển, 1964); Nam Cao tác phẩm (tập I: 1976, tập II: 1977); Tuyển tập Nam Cao (tập I: 1987, tập II: 1993); Những cánh hoa tàn (truyện ngắn, 1988); Nam Cao – truyện ngắn tuyển chọn (1995); Nam Cao – truyện ngắn chọn lọc (1996). Ngoài ra ông còn làm thơ, viết kịch ( Đóng góp, 1951) và biên soạn sách địa lí cùng với Văn Tân ( Địa dư các nước châu Âu (1948); Địa dư các nước châu á, châu Phi (1949); Địa dư Việt Nam (1951). – Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật (đợt I – năm 1996).2. Tác phẩm:
Lão Hạc là người hàng xóm của ông giáo. Lão có người con trai đi phu đồn điền cao su. Lão sống với con chó vàng – kỉ vật của con trai lão để lại. Hoàn cảnh khó khăn, nhưng lão đã từ chối mọi sự giúp đỡ. Quyết không xâm phạm vào mảnh vườn để dành cho con, lão bán con chó, tự trù liệu đám ma của mình và tự tử bằng bả chó.
II. TRẢ LỜI CÂU HỎI
: Diễn biến tâm lý của lão Hạc : – Qua nhiều lần lão Hạc nói đi nói lại ý định bán “cậu Vàng” với ông giáo, có thể thấy lão đã suy tính, đắn đo nhiều lắm. Lõa coi việc này rất hệ trọng bởi cậu Vàng là người bạn thân thiết, là kỷ vật của anh con trai mà lão rất yêu thương.
– Sau khi bán “cậu Vàng”, lão Hạc cứ day dứt, ăn năn vì nỡ đánh lừa mọt con chó. Cả đời này, ông già nhân hậu đã nỡ lừa ai. : – Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến cái chết như một hành động tự giải thoát. Qua đây, chúng ta thấy số phận cơ cực đáng thương của những người nông dân nghèo ở những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám. – Nhưng xét ra, nếu lão Hạc là người ham sống, lão còn có thể sống được, thậm chí còn có thể sống lâu là đằng khác vì ông vẫn còn 30 đồng bạc và cả một mảnh vườn. Nhưng ông để 30 đồng bạc lại cho ông giáo để đề phòng sau này khi ông chết đi thì không phiền đến làng xóm, còn mảnh vườn thì ông nhất quyết để lại cho con trai. Như thế, cái chết tự nguyện này xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao, lòng tự trọng mà đáng kính. : Thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc : thương lão vì lão thương con, không muốn làm phiền đến người khác khi lão chết. Cho đến chết lão Hạc vẫn thể hiện là một con người chân chất, lương thiện, trung thực, giàu lòng tự trọng đáng quý. : – Trong truyện ngắn này, chỉ tiết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư có một vị trí nghệ thuật quan trọng. Nó chứng tỏ ông lão giàu lòng thường là lòng tự trọng đã đi đến quyết định cuối cùng. Nó có ý nghĩa “đánh lừa ” – chuyển ý nghĩa tốt đẹp của ông giáo và người đọc về lão Hạc sang một hướng trái ngược. “Cuộc đời quả thật cứ ngày một thêm đáng buồn”, nghĩa là nó đã ẩy những con người đáng kính như lão Hạc đến con đường cùng, nghĩa là con người lâu nay nhân hậu, giàu lòng tự trọng đến thế mà cũng bị tha hóa. – Cái chết đau đớn của lão Hạc lại khiến cho ông giáo suy nghĩ về cuộc đời. Cuộc dời chưa hẳn đã đáng buồn bởi ngay cả ý nghĩ trước đó của mình đã không đúng, bởi còn có những con người cao quý như lão Hạc. Nhưng cuộc đời lại đáng buồn theo nghĩa : con người có nhân cách cao đẹp như lão Hạc mà không được sống, sao ông lão đáng thương, đánh kính như vậy mà phải chịu cái chết vật vã, dữ dội đến thế này. : câu chuyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” (ông giáo). Vì thế : – Làm câu chuyện gần gũi, chân thực. Tác giả như kéo người đọc cùng nhập cuộc, cùng sống, chứng kiến với các nhân vật. – Câu chuyện được dẫn dắt tự nhiên, linh hoạt. – Giúp truyện có nhiều giọng điệu : vừa tự sự vừa trữ tình, có khi hòa lẫn triết lý sâu sắc có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực với trữ tình.
– Đây là lời triết lý lẫn cảm xúc trữ tình xót xa của Nam Cao. – Nam Cao đã khẳng định một thái độ sống, một cách ứng xử mang tinh thần nhân đạo. – Nam Cao đã nêu lên một phương pháp đúng đắn, sâu sắc khi đánh giá con người : ta cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ của họ thì mới có thể hiểu đúng, cảm thông đúng. : Cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ là vô cùng khổ cực, nghèo nàn, khốn khố nhưng phẩm chất của họ thì lại lương thiên, chân chất, có lòng tự trọng cao và biết nghĩ đến người khác. Cuộc đời thật trớ trêu thay!
Bài Văn Thuyết Minh Truyện Ngắn Lão Hạc Của Nam Cao Hay, Ngắn Gọn
Đề bài: Thuyết minh truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao
Thuyết minh truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao
Bài làm:
Nam Cao được biết đến như một nhà văn hiện thực xuất sắc giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Những tác phẩm của ông phản ánh vô cùng chân thực, sinh động về cuộc sống lúc bấy giờ của con người. Nam Cao gắn liền tên tuổi của mình với những tác phẩm ghi dấu ấn đậm nét trong tâm hồn người đọc như Chí Phèo, Đời thừa, Sống mòn… Và không thể không nhắc đến lão Hạc, một trong những tác phẩm hay viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám.
Truyện ngắn lão Hạc được đăng báo vào năm 1943, là nội dung một bài học trong chương trình Ngữ Văn 8. Truyện ngắn kể về câu chuyện một nhân vật có tên lão Hạc, có hoàn cảnh rất đáng thương: Vợ lão mất sớm, lão phải sống một mình trong cảnh gà trống nuôi con. Thế nhưng vì mưu sinh, vì cái đói nghèo bủa vây mà con trai cũng bỏ lão mà đi kiếm sống ở đồn điền cao su. Lão Hạc lại sống cuộc sống buồn tủi, cô đơn và chỉ biết làm bạn với cậu Vàng. Niềm vui duy nhất ấy của lão cũng không được trọn vẹn khi lão phải bán đi người bạn thân thiết nhất vì hoàn cảnh. Lão đau đớn, ân hận và vô cùng day dứt vì điều này. Lão cố gắng dành dụm tiền bán mảnh vườn để dành cho con trai và lo chu toàn cho mình sau khi chết vì không muốn làm phiền, liên lụy đến mọi người xung quanh. Lão tìm đến cái chết như một sự giải thoát cho bản thân mình, cho số phận nghiệt ngã của mình. Cả cuộc đời lão Hạc là một chuỗi những bi kịch. Và đến cuối cùng, lão vẫn phải chịu bi kịch là cái chết đau thương, cay đắng.
Với câu chuyện thấm đượm tinh thần nhân đạo, Nam Cao đã vô cùng thành công khi khắc họa chân dung nhân vật lão Hạc, một người nông dân giàu tình cảm. Điều này được thể hiện rõ qua sự gắn bó, đau xót, tiếc thương của lão khi phải bán đi cậu Vàng. Bên cạnh đó, lão còn là một người cha yêu thương con hết mực, luôn nghĩ cho con và dành dụm cho con. Lão cũng là người có lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn nhưng không có những suy nghĩ, việc làm trái với lương tâm và cũng không muốn ảnh hưởng, phiền hà đến bất cứ ai.
Bên cạnh thành công về nội dung, truyện ngắn còn gây ấn tượng với người đọc bởi nghệ thuật tác giả sử dụng vô cùng đặc sắc. Đầu tiên phải kể đến nghệ thuật xây dựng và khắc họa nhân vật vô cùng tiêu biểu, đậm nét. Lấy hình ảnh một con người để nói đến một bộ phận người. Ngôi kể của câu chuyện cũng vô cùng khách quan, tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện. Đó còn là nghệ thuật miêu tả chân dụng đặc sắc qua những điểm nhấn chi tiết tạo nên giá trị của chi tiết nghệ thuật. Sự kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình cũng tạo nên sự đa chiều của câu chuyện. Lúc là giọng văn tự sự mẫu mực, lúc lại khiến người đọc rưng rưng xúc động với những xúc cảm do tác giả thể hiện.
Truyện ngắn lão Hạc xứng đáng là một tác phẩm hay, một tác phẩm đẹp cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Đây xứng đáng là một tác phẩm xuất hiện trong tủ sách của mỗi người, bởi nó chứa đựng những giá trị vĩnh viễn, luôn đúng với thời gian. Lão Hạc cùng với nhà văn Nam Cao vẫn luôn in đậm trong tâm trí của người đọc mọi thế hệ.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hướng Soạn Bài Lão Hạc Ngắn Gọn Và Đầy Đủ trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!