Xu Hướng 3/2023 # Khi Văn Bản Dưới Luật “Đá” Luật # Top 8 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Khi Văn Bản Dưới Luật “Đá” Luật # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Khi Văn Bản Dưới Luật “Đá” Luật được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

UB Pháp luật của Quốc hội dẫn chứng:

Thông tư 02 ngày 13/1/2003 của Bộ Công an về hướng dẫn cấp đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới có quy định “Mỗi người chỉ được đăng ký 1 xe môtô hoặc xe gắn máy”.

Cơ quan ra văn bản dưới luật này (Thông tư về giá trị pháp lý còn thấp dưới cả Nghị định) dường như không đối chiếu với hệ thống pháp luật hiện hành nên dẫn đến việc nó “đá” nhau với Bộ luật Dân sự (tài khoản 1, điều 221 của Bộ luật Dân sự thì tài sản hợp pháp thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị).

Thậm chí, quy định của Thông tư 02 còn vi hiến khi đã hạn chế quyền sở hữu tài sản của công dân, quyền cơ bản của công dân đã được quy định tại điều 58 Hiến pháp năm 1992!

Cái sự văn bản dưới luật “đá” luật nói trên đã dẫn đến điều gì? Trên thực tế, quy định ở Thông tư 02 đã gián tiếp tạo ra những thủ tục nhiêu khê, gây khó khăn trong các giao dịch mua bán xe máy, buộc người mua xe máy phải chi thêm những khoản tiền vô lý.

Hiện người ta vẫn sắm kìn kìn xe thứ hai, thứ ba khi chi thêm từ 3-6 triệu đồng (tùy mác xe máy) cho việc mua “suất đăng ký” dưới tên người khác. Có điều khoản tiền chi thêm ấy chủ yếu vào tay hệ thống môi giới, chứ không phải người “bán suất đăng ký”, càng không vào “kho ngân sách” vì mua bán trao tay không cần nộp trước bạ, sang tên.

Và thế là mục đích giảm số lượng xe để tiến tới giảm dần số vụ tai nạn giao thông, khắc phục được tình trạng ùn tắc cũng không thực hiện được.

Đó chỉ là một ví dụ điển hình. Theo số liệu tổng hợp bước đầu, từ tháng 11/2003 đến tháng 5/2005, các bộ, ngành đã rà soát, kiểm tra và phát hiện có trên 400 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Trong đó, văn bản có nội dung trái với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên, sai thẩm quyền cần hủy, bãi bỏ lên tới 4-5%.

Theo Bộ trưởng Tư pháp Uông Chu Lưu, đây là “căn bệnh” xảy ra tương đối lâu rồi và cho đến giờ vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, mọi tổ chức, cá nhân đều hoạt động trên cơ sở tuân theo Hiến pháp và pháp luật.

Hiến pháp là văn bản pháp luật nền tảng và có giá trị cao nhất. Mọi văn bản pháp luật không được trái Hiến pháp. Các văn bản pháp luật cấp dưới không được trái với các văn bản pháp luật cấp trên. Những điều cơ bản này dường như công chức nào cũng đã nghe, đã hiểu và buộc phải nhớ.

Thế nhưng chuyện văn bản dưới luật “đá” luật, thậm chí trái Hiến pháp vẫn tiếp tục xảy ra. Điều đó vừa ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, vừa vô tình tạo “điều kiện” để nhiều kẻ xấu lợi dụng để vừa hành dân lại vừa kiếm được bộn tiền. Bởi vậy, phải mau mau rà soát, bãi bỏ hết những văn bản dưới luật “đá” luật.

T.N

Chỉ Giao Tự Chủ Khi Văn Bản Dưới Luật Được Ban Hành

Luật Giáo dục Đại học bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một hướng dẫn chính thức nào về việc thực thi Luật này. Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga cho biết: “Chỉ giao tự chủ khi văn bản dưới Luật được ban hành”.

Từ 1/1/2013 Luật Giáo dục đại học chính thức có hiệu lực thi hành. Bộ GD-ĐT đã từng khẳng định, đây sẽ là bước đổi mới căn bản để nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Thứ trưởng có thể giải thích rõ hơn về điều này?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga : Luật Giáo dục Đại học được xây dựng trên tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo, nên khi thực hiện sẽ có nhiều thay đổi trong hệ thống với mục tiêu là nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực . Do đó những tồn tại, hạn chế lâu nay sẽ phải thay đổi cho phù hợp với quy định của luật.

Đầu tiên là công tác quản lý, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình xã hội của cơ sở giáo dục đại học để phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ quản lý các nhà trường. Cách tiếp cận quản lý chất lượng cũng thay đổi theo quan điểm không chỉ đánh giá kết quả đào tạo bằng số lượng các môn học đã hoàn thành mà quan trọng hơn là đánh giá bằng khối lượng kiến thức người học tích lũy được qua mỗi chương trình đào tạo.

Hệ thống giáo dục đại học cũng thay đổi theo mục tiêu đào tạo để đáp ứng như cầu nhân lực đa dạng. Từ đó chương trình đào tạo của các trường cũng sẽ được thiết kế theo những hướng khác nhau. Chương trình đào tạo sắp tới sẽ rất mềm dẻo phụ thuộc vào năng lực đội ngũ của từng trường, làm sao chất lượng đầu ra không thấp hơn ngưỡng quy định. Điều này sẽ khuyến khích các trường cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo . Những trường có đội ngũ giáo viên giỏi sẽ thiết kế được chương trình hay, chất lượng đào tạo sẽ cao, tăng uy tín và tạo được sức hút đối với người học.

Một điểm mới nữa là tiêu chí xác định cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận sẽ được cụ thể hóa và các chính sách đối với các trường này cũng được xác định rạch ròi…

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang soạn thảo những văn bản quy phạm pháp luật mới và rà soát, điều chỉnh các văn bản hiện hành cho phù hợp với yêu cầu của Luật Giáo dục Đại học.

Hiện nay quy định của Bộ yêu cầu các trường phải tuân thủ cùng 1 chương trình khung. Điều này không phù hợp với mục tiêu đào tạo của tất cả các trường. Vậy khi phân tầng, Bộ có xem xét đến việc phải có nhiều chương trình khung hay không?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga : Luật Giáo dục Đại học không qui định chương trình khung, chỉ qui định khối lượng kiến thức tối thiểu mà người học phải tích lũy được khi học xong một chương trình để được công nhận tốt nghiệp. Chương trình đào tạo sắp tới sẽ rất mềm dẻo phụ thuộc vào năng lực đội ngũ của từng trường, làm sao chất lượng đầu ra không thấp hơn ngưỡng qui định. Điều này khuyến khích các trường cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo. Những trường có đội ngũ giáo viên giỏi sẽ thiết kế được chương trình hay, chất lượng đào tạo sẽ cao, tăng uy tín và tạo được sức hút đối với người học.

Chương trình đào tạo sắp tới sẽ rất mềm dẻo phụ thuộc vào năng lực đội ngũ của từng trường.

Có ý kiến cho rằng quy định mở ngành hiện nay áp dụng chung cho các trường là không phù hợp ở một số tiêu chí như tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ/ sinh viên hoặc cơ sở vật chất… Những tiêu chí này thì chỉ phù hợp với trường ĐH nghiên cứu. Thứ trưởng đánh giá như thế nào về vấn đề này?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga : Có nhiều tiêu chí để đảm bảo chất lượng đào tạo. Thông tư 57 của Bộ Giáo dục và Đào tạo qui định việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh dựa và hai tiêu chí chính, đó là số sinh viên/giảng viên qui đổi và diện tích sàn xây dựng/sinh viên. Đây là hai tiêu chí cơ bản áp dụng chung cho các trường trong giai đoạn hiện nay. Tiêu chí đối với đại học nghiên cứu chắc chắn sẽ còn khắt khe hơn nhiều, ngoài tỉ lệ sinh viên/giảng viên thấp, diện tích phục vụ cho học tập, nghiên cứu dành cho mỗi sinh viên cao, các trường này còn phải thỏa mãn các tiêu chí khác về trang thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học, tỉ lệ học viên sau đại học trên qui mô sinh viên…

Thứ trưởng có thể cho biết lộ trình thực hiện các quy định trong luật, nội dung nào sẽ được thực hiện ngay trong năm 2013?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga: Một số quy định trong Luật Giáo dục Đại học đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai ngay từ khi Luật được Quốc hội thông qua. Ví dụ như việc giao cho các cơ sở giáo dục đại học tự xác định chỉ tiêu dựa trên các tiêu chí đảm bảo chất lượng, hay như quy định về xây dựng chương trình đào tạo, thẩm định mở ngành đào tạo, việc tổ chức đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ…

Hiện tại Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục Đại học. Đây là văn bản dưới luật quan trọng nhất cụ thể hóa một số quy định của luật làm cơ sở cho việc thi hành Luật.

Có những điểm mới phải có sự phối hợp liên bộ mới có thể triển khai được. Còn trong phạm vi quyền hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong năm 2013, Bộ sẽ tiếp tục điều chỉnh những hoạt động của ngành theo quy định của luật như: Củng cố chất lượng đào tạo không chính quy; phát triển chương trình đào tạo theo định hướng nghiên cứu và định hướng ứng dụng; nghiên cứu giao tự chủ tuyển sinh cho các trường thuộc khối ngành năng khiếu, nghệ thuật; hay như việc thành lập và đưa vào hoạt động các tổ chức kiểm định chất lượng đào tạo…

Một trong những vấn đề đang được xã hội đặc biệt quan tâm đó là q uyền tự chủ đại học sẽ được giao cho những trường như thế nào? Bộ có ban hành các tiêu chí để được tự chủ hay không ? Thứ trưởng có thể giải đáp phần nào các câu hỏi này?

Thứ trưởng Bùi Văn Ga: Khi hệ thống các văn bản dưới luật được hoàn thiện, cơ cấu tổ chức các trường đã được thực hiện theo quy định của luật thì các trường được tự chủ theo đúng tinh thần của Luật Giáo dục đại học .

Theo dân trí

Các trường được đầu tư theo xếp hạng

Tuy nhiên ngay tại thời điểm này, nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện luật vẫn gặp khó khăn trong quá trình soạn thảo.

Ảnh: Nguyễn Khánh

Trao đổi với Tuổi Trẻ , Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga chia sẻ:

– Sau hơn sáu tháng Luật giáo dục ĐH được Quốc hội thông qua, Bộ GD-ĐT vẫn đang tiếp tục soạn thảo các văn bản hướng dẫn dưới luật. Sẽ có tổng cộng 36 văn bản hướng dẫn thực hiện các điều của Luật giáo dục ĐH. Phần lớn số văn bản này đã được ban hành trong thời gian qua.

Công bố xếp hạng: sẽ được tính toán cụ thể

* Việc hướng dẫn thực hiện luật có nội dung chỉ là điều chỉnh, bổ sung cái đã có, nhưng cũng có nội dung được xem là mới, lần đầu được vận dụng cho giáo dục ĐH Việt Nam. Phải chăng những vướng mắc chủ yếu nằm ở những nội dung chưa có được sự kiểm chứng trong thực tiễn?

– Đúng là những cái chưa được kiểm chứng qua thực tiễn là nội dung khó khăn nhất trong soạn thảo văn bản hướng dẫn. Bộ GD-ĐT cũng vừa có cuộc làm việc với Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng của Quốc hội để thống nhất những vấn đề còn nhiều tranh luận. Chẳng hạn việc xếp hạng và phân tầng cơ sở giáo dục ĐH. Theo Luật giáo dục ĐH, các trường ĐH, học viện sẽ được phân thành ba tầng: nghiên cứu, ứng dụng và thực hành nghề nghiệp. Trong dự thảo nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục ĐH ghi rõ chương trình đào tạo sắp tới được tổ chức: chương trình CĐ xây dựng theo hướng ứng dụng; ĐH, thạc sĩ theo hướng nghiên cứu và hướng ứng dụng nghề nghiệp; tiến sĩ xây dựng theo hướng nghiên cứu. Người đang từ hướng ứng dụng muốn sang nghiên cứu sẽ phải học một khối lượng kiến thức chuyển đổi nhất định. Tuy nhiên, quan trọng là việc phân tầng được thực hiện để làm gì? Làm cơ sở cho Nhà nước đầu tư hay chỉ là tài liệu tham khảo cho người học chọn lựa chương trình học tập?

Cũng như vậy, việc xếp hạng trường ĐH là cơ sở cho việc đầu tư hay giúp người học tham khảo trường học phù hợp, nhà tuyển dụng chọn lựa nhân lực theo yêu cầu? Cách làm của chúng ta sẽ không giống với thông lệ quốc tế. Ở các nước, việc xếp hạng trường ĐH do các tổ chức xã hội độc lập công bố để cộng đồng tham khảo, không có cơ quan nhà nước đứng ra công nhận. Song Luật giáo dục ĐH xác định rõ việc xếp hạng trường ĐH phải do Thủ tướng công nhận, ở phạm vi các trường CĐ thì việc công nhận xếp hạng thuộc quyền bộ trưởng Bộ GD-ĐT. Như vậy, sự công nhận xếp hạng được xem như văn bản pháp quy, làm căn cứ để nhà nước dựa vào thứ hạng cao, thấp của các trường để đầu tư phù hợp. Các nước có thể công bố xếp hạng hằng năm, nhưng ở Việt Nam, vì cấp công nhận là thủ tướng, bộ trưởng, nên định kỳ công bố xếp hạng thế nào sẽ được tính toán cụ thể. Theo kế hoạch, việc ban hành các văn bản hướng dẫn này sẽ được thực hiện trong quý 1-2013.

* Được biết, với Luật giáo dục ĐH, sẽ có việc xét công nhận trường ĐH đạt chuẩn quốc gia như việc công nhận chuẩn quốc gia đối với trường phổ thông mà Bộ GD-ĐT đã làm trong nhiều năm qua. Việc công nhận chuẩn quốc gia với trường ĐH khác gì với trường phổ thông, thưa thứ trưởng?

– Trường ĐH đạt chuẩn quốc gia là khái niệm mới. Ở cấp phổ thông, vì thống nhất về chương trình giảng dạy, về tổ chức nên việc xây dựng chuẩn quốc gia đỡ phức tạp hơn. Ở ĐH, chương trình đào tạo rất đa dạng, trường thiên về đào tạo kinh tế khác trường thiên về kỹ thuật, sư phạm, hay khoa học cơ bản… nên quy định về trường ĐH đạt chuẩn quốc gia thế nào vẫn đang được phân tích soạn thảo. Đã có những ý kiến tranh luận xem chuẩn quốc gia với trường ĐH là điều kiện tối thiểu trường ĐH phải có để hoạt động bảo đảm chất lượng hay là chuẩn mà các trường phải vươn tới. Nhưng nếu đặt nó là cái sàn để các trường phải đạt thì không phù hợp khi đã có quy định về điều kiện bảo đảm thành lập trường. Chuẩn quốc gia đang được soạn thảo sẽ là chuẩn mà các trường phải vươn tới.

Trường ngoài công lập hoạt động phi lợi nhuận: ưu đãi như trường công

* Lâu nay, nhiều trường ĐH ngoài công lập than họ bị thiệt thòi vì đã mạnh miệng tuyên bố hoạt động không vì lợi nhuận, nhưng lại không được hưởng bất cứ ưu tiên gì khi hoạt động: về chính sách thuế, về hỗ trợ đầu tư…Liệu khi Luật giáo dục ĐH được thực thi, những bất hợp lý về hoạt động giáo dục lợi nhuận – phi lợi nhuận có được giải quyết?

– Trước nay, hầu hết các trường ĐH ngoài công lập đều công bố hoạt động phi lợi nhuận, nhưng thực tế có rất ít trường tuân thủ theo mục tiêu phi lợi nhuận được như Trường ĐH Thăng Long đã làm. Sẽ phải có những văn bản định lượng rõ ràng thế nào là phi lợi nhuận, như mức lương trả cho giảng viên, cho cán bộ, thành viên hội đồng quản trị… khi so sánh với mức lương của những vị trí tương đương ở trường công lập, chênh lệch thu chi hằng năm dùng để đầu tư phát triển cơ sở vật chất nhà trường, phát triển đội ngũ giảng viên…

Trường phi lợi nhuận sẽ được hưởng các chính sách như trường công: giáo viên được Nhà nước đào tạo, được tham gia các chương trình nghiên cứu khoa học, được Nhà nước đặt hàng đào tạo các ngành thế mạnh, được ưu đãi về thuế suất, được giao đất sạch, miễn giảm tiền sử dụng đất… Các trường ĐH hoàn toàn tự chủ trong việc đăng ký hoạt động theo hướng nào, nhưng phải xem đó là cam kết phải thực hiện. Nếu đúng là hoạt động phi lợi nhuận sẽ được hưởng ưu đãi, còn vì lợi nhuận chắc chắn phải đóng thuế như doanh nghiệp. Trường hợp trường đăng ký hoạt động phi lợi nhuận, nhưng thực tế lại chỉ chăm chăm phân chia lợi nhuận, sử dụng tiền thuế của dân để hưởng những ưu đãi sẽ bị truy thu các khoản thuế và xử lý theo quy định của pháp luật.

* Trong dự thảo nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục ĐH vừa được công bố lấy ý kiến, giảng viên ĐH được xác định rõ sẽ có năm loại chức danh. Trong khi đó, viên chức hiện chỉ phân chia theo bốn bậc. Sự sắp xếp này có làm thay đổi hệ thống bảng lương hiện tại của giảng viên ĐH không, thưa thứ trưởng?

– Trước đây, lương cho giảng viên ĐH giống như ngạch viên chức gồm có bốn bậc. Song thực hiện theo Luật giáo dục ĐH thì giảng viên có năm loại chức danh: trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư. Vậy phiên ngang lương viên chức ra lương giảng viên như thế nào? Cần có hệ thống thang, bảng lương riêng cho giảng viên ĐH. Điều này cũng phù hợp với chủ trương ưu đãi cho giáo dục, giáo viên của Nhà nước. Theo ý tưởng của ban soạn thảo, lương phó giáo sư sẽ tương đương bậc lương cao nhất của viên chức, còn lương giáo sư sẽ cao hơn một bậc, như chuyên gia cao cấp. Hiện nay, ngay trong hệ thống giáo dục cũng hiếm người được coi là chuyên gia cao cấp – những tổng công trình sư, những người xứng đáng được hưởng mức lương rất cao.

Theo tuổi trẻ

Nhiều hiệu trưởng ĐH bị kỷ luật và khiển trách Ngày 28/12, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga ký kết luận Thanh tra việc xác định và thực hiện chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ hệ chính quy năm 2012. Theo đó, có 6 hiệu trưởng kỷ luật và khiển trách, 22 trường ĐH, CĐ bị giảm…

Văn Bản Dưới Luật Là Gì?

Văn bản quy phạm pháp luật có lẽ không còn là khái niệm xa với đối với tất cả những cá nhân, tổ chức đang hành nghề và học chuyên ngành luật. Nó là hệ thống các quy tắc xử sự chung được nhà nước ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định, trong đó bao gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo ý chí của nhà nước, được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.

Theo quy định thì Văn bản quy phạm phạm pháp luật bao gồm Văn bản Luật và văn bản dưới luật. Tuy nhiên không phải ai cũng phân biệt được đâu là van bản luật và đâu là văn bản dưới luật.

Để tranh bị nhầm lẫn giữa hai loại văn bản này, trong phạm vi bài viết này, tổng đài 1900 6557 sẽ giúp bạn đọc trả lời câu hỏi Văn bản dưới luật là gì và những nội dung xoay quanh văn bản dưới luật để bạn đọc dễ dàng phân biệt được hai khái niệm trên.

Văn bản dưới luật là một trong hai loại của văn bản quy phạm pháp luật, đây là văn bản mà nội dung là quy phạm pháp luật, do các cơ quan nhà nước ớ trung ương, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương ban hành.

Văn bản dưới luật được ban hành để cụ thể hóa một nội dung được các văn bản luật quy định. Văn bản dưới luật được ban hành có thể cụ thể hóa, quy định chi tiết cho các văn bản luật, tuy nhiên không được trái với quy định của hiến pháp và các văn bản luật.

Văn bản dưới luật bao gồm những văn bản cụ thể nào?

Ngoài việc giải đáp Văn bản dưới luật là gì? Chúng tôi sẽ giúp Quý độc giả hiểu rõ hơn về các loại văn bản dưới luật.

Hiện nay, văn bản dưới luật bao gồm pháp lệnh, nghị quyết, sắc lệnh, nghị đinh, quyết định, thông tư. Trong đó:

là văn bản dưới luật, chủ thể ban hành là Ủy ban thường vụ Quốc hội và quy định những vấn đề được Quốc hội giao.

Pháp lệnh thường quy định và điều chỉnh những mối quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản nhưng chưa được văn bản luật quy định một cách chi tiết hoặc chưa được quốc hội quy định. Pháp lệnh ban hành một thời gian có thể được xem xét trở thành văn bản Luật.

Về giá trị pháp lý, văn bản dưới luật có hiệu lực pháp lý dưới hiến pháp và các văn bản Luật. Khi ban hành, Pháp lệnh phải được quá nửa tổng số thành viên Ban thường vụ Quốc hội đồng ý và có hiệu lực khi chủ tịch nước ký lệnh công bố. (Trước 15 ngày kể từ ngày được thông qua).

là văn bản quy phạm pháp luật quyết định những nội dung cơ bản để điều chỉnh quan hệ xac hội, ban hành sau khi được bàn bạc, biểu quyết thông qua theo đa số của một cơ quan, tổ chức về một vấn đề nhất định.

Nghị quyết theo quy định tại Hiến pháp là hình thức văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp.

+ Sắc lệnh là một loại văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản pháp luật cá biệt của người đứng đầu bộ máy nhà nước hoặc bộ máy hành pháp, được ban hành bởi Chủ tịch nước. Hiện nay, tại một số quốc gia, sắc lệnh có thể do Tổng thống, Thủ tướng Chính phủ hoặc Tòa án ban hành.

là hình thức văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi Thủ tướng Chính phủ. Nghị định nêu chi tiết những vấn đề được văn bản luật quy định hoặc quy định những quyền và nghĩa vụ của người dân trên cơ sở quy định của Hiến pháp và các văn bản Luật do Quốc hội ban hành.

cũng là một loại văn bản quy phạm pháp luật có tinhs chất đặc biệt hơn những văn bản dưới luật khác bởi đây vừa là văn bản quy phạm pháp luật, vừa là văn bản áp dụng pháp luật được ban hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

So sánh văn bản Luật và văn bản dưới Luật

Thẩm quyền ban hành

Văn bản Luật được cơ Quốc hội – Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cao nhất về hành pháp ban hành theo các trình tự, thủ tục nhất định dung để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước.

Văn bản dưới Luật do các cơ quan nhà nước ớ trung ương, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. Văn bản dưới luật được ban hành để cụ thể hóa một nội dung được các văn bản luật quy định. Văn bản dưới luật được ban hành có thể cụ thể hóa, quy định chi tiết cho các văn bản luật, tuy nhiên không được trái với quy định của hiến pháp và các văn bản luật.

Hiệu lực pháp lý

Có hiệu lực pháp lý cao nhất

Có hiệu lực thấp hơn (Sau Hiến pháp và các văn bản Luật

Tác giả

Nguyễn Văn Phi

CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC

1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”

Nghị Quyết Của Quốc Hội Là Văn Bản Luật Hay Văn Bản Dưới Luật?

Theo quy định của pháp luật, Quốc hội có thẩm quyền ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) là Hiến pháp, luật và nghị quyết. Nếu Hiến pháp là văn bản thể hiện quyền lập hiến, luật là văn bản thể hiện quyền lập pháp của Quốc hội, thì nghị quyết không được xác định rõ là văn bản luật hay văn bản dưới luật. Hơn nữa, có những nghị quyết của Quốc hội dùng để quy định chế độ làm việc của Quốc hội hoặc dùng để phê chuẩn điều ước quốc tế 1, song cũng có nghị quyết dùng để bổ sung, sửa đổi Hiến pháp 2. Thực tế này, cùng với những quy định thiếu chi tiết của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 (Luật BHVBQPPL) có thể dẫn đến những cách hiểu khác nhau trong giới nghiên cứu pháp luật và cả trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

1. Quan niệm về lập hiến, lập pháp và lập quy

Theo nghĩa đơn giản nhất, lập hiến là “làm Hiến pháp”, lập pháp là “làm luật”, còn lập quy là ban hành văn bản dưới luật, nhằm thi hành Hiến pháp và luật. Ở nước ta, quyền lập quy được xác định theo hướng loại trừ 3 vì ngoài những vấn đề cơ bản thuộc quyền lập pháp, việc cụ thể hóa những nội dung từ quyền lập pháp hoặc những nội dung còn lại đều thuộc quyền lập quy. Vì vậy, quyền lập quy phải tuân thủ quyền lập pháp và các nội dung lập quy không được trái, không được tự ý thu hẹp hay mở rộng quyền lập pháp. Tuy nhiên, quyền lập quy có thể được giao về cho UBND cấp tỉnh trong những trường hợp thuộc quyền tự chủ của địa phương 4. Vì lẽ đó, các nhà nghiên cứu thường ít khi dùng khái niệm “quyền lập quy” để chỉ hoạt động ban hành văn bản dưới luật của cơ quan nhà nước khác ở trung ương, ngoại trừ việc dùng cho cơ quan hành chính nhà nước là Chính phủ. Thay vào đó, ta có thể dùng khái niệm “thẩm quyền ban hành văn bản dưới luật”. Theo quy định của pháp luật, Quốc hội Việt Nam là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp 5. Đây là thẩm quyền đặc thù của Quốc hội mà các cơ quan khác như Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao… không có. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Quốc hội bị giới hạn ở quyền ban hành văn bản dưới luật bởi ngoài thẩm quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội còn rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn khác được quy định từ Khoản 2 đến Khoản 14 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001. Vì vậy, có thể nói, trong hoạt động ban hành VBQPPL, Quốc hội Việt Nam có ba tư cách: Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp và Quốc hội ban hành văn bản dưới luật.

Về nội dung, Hiến pháp, luật và nghị quyết sử dụng để điều chỉnh các mối quan hệ có tính chất, phạm vi khác nhau, cụ thể:

Bộ luật, luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân. Nói cách khác, bộ luật, luật dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản thuộc các lĩnh vực về đối nội và đối ngoại của quốc gia. Bộ luật, luật có tính chất cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp theo những ngành luật hoặc các lĩnh vực pháp luật chuyên biệt, ví dụ: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình… Trong khoa học pháp lý, bộ luật và luật đều được gọi là đạo luật; sự khác nhau giữa bộ luật và luật thường không nhiều. Tuy nhiên, bộ luật thường điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội rộng lớn và có tính bao quát; bộ luật là “xương sống” của một ngành luật. Ngoài ra, các bộ luật lớn còn chứa đựng những nguyên tắc chi phối các ngành luật lân cận. Ví dụ: các quy định của Bộ luật Dân sự có thể được viện dẫn trong khi giải quyết các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật thương mại…

Trong khi đó, văn bản luật có phạm vi điều chỉnh không rộng lắm. Một văn bản luật không nhất thiết tạo ra một ngành luật vì một ngành luật có thể sử dụng nhiều văn bản luật làm cơ sở. Ví dụ: Luật Tố tụng hành chính năm 2010 là nguồn cơ bản của ngành luật tố tụng hành chính; nhưng Luật Luật sư không tạo ra ngành luật riêng.

Nghị quyết của Quốc hội được sử dụng để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có tầm quan trọng quốc gia và trong nhiều trường hợp mang tính nhất thời, cụ thể. Có thể tạm chia nghị quyết theo các nhóm sau: thứ nhất , nghị quyết được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; điều chỉnh ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; thứ hai , nghị quyết dùng để ổn định chế độ công tác của Quốc hội và các cơ quan trực thuộc Quốc hội, ví dụ: quy định chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; thứ ba , nghị quyết dùng để phê chuẩn các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; thứ tư , nghị quyết còn dùng để quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Như vậy, nghị quyết của Quốc hội được sử dụng để giải quyết những vấn đề xác định cụ thể trong Luật BHVBQPPL và những vấn đề khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết.

3. Những quan điểm khác nhau trong khoa học luật về nghị quyết

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về giá trị, thứ bậc pháp lý đối với văn bản nghị quyết của Quốc hội, như:

3.1. Nghị quyết là văn bản có giá trị pháp lý tương tự như luật

Quan điểm thứ nhất cho rằng, nghị quyết của Quốc hội là văn bản “có giá trị tương đương với luật” 6. Quan điểm này lý giải được hai trường hợp ban hành nghị quyết:

Nghị quyết còn dùng để quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Trên thực tế, Quốc hội đã dùng Nghị quyết số 51/2001/QH10 để sửa đổi, bổ sungmột số điều của Hiến pháp năm 1992. Điều này dựa trên cơ sở pháp lý rằng, VBQPPL chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ bằng VBQPPL của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó (Điều 9 Luật BHVBQPPL năm 1996; Khoản 1 Điều 9 Luật BHVBQPPL).

Tuy nhiên, nếu cho rằng nghị quyết là văn bản có giá trị pháp lý tương tự như luật, thì vẫn còn có những điều chưa thỏa đáng, bởi lẽ:

Thứ nhất , một cách gián tiếp, cách hiểu trên đã đồng nhất giá trị văn bản và cơ quan ban hành. Nếu Hiến pháp là một đạo luật và nghị quyết là một văn bản “có giá trị tương đương như luật” thì chứng tỏ thẩm quyền ban hành ba loại văn bản của Quốc hội cơ bản giống nhau. Điều này, thật ra không hợp lý vì Quốc hội có nhiều tư cách: Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp và Quốc hội ban hành văn bản dưới luật. Khi ban hành một đạo luật, Quốc hội lập pháp nhất thiết phải tuân thủ Hiến pháp của Quốc hội lập hiến đã được thông qua trước đó.

Thứ hai , việc xem nghị quyết là văn bản tương đương như luật có thể gây ra một số khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật vì không xác định được thứ bậc pháp lý giữa luật và nghị quyết. Theo định hướng xây dựng cơ chế bảo hiến, nếu có trường hợp nghị quyết trái với một đạo luật thì sẽ giải quyết như thế nào?

Thứ ba , nhìn chung, phạm vi điều chỉnh của nghị quyết của Quốc hội trong đa số các trường hợp là các nhóm quan hệ xã hội tuy quan trọng nhưng không thực sự cơ bản và bao trùm như luật. Hơn nữa, trong quá trình nghiên cứu các văn bản hiện hành, chúng tôi chưa tìm thấy văn bản nào khẳng định giá trị pháp lý của nghị quyết của Quốc hội tương đương với luật, mặc dù có một số quan hệ điều chỉnh “mang tính luật” 8.

3.2. Nghị quyết là văn bản dưới luật

Quan điểm thứ hai cho rằng nghị quyết là văn bản dưới luật 9. Điều này được thể hiện rõ qua các trường hợp ban hành nghị quyết trên thực tế.

Tính dưới luật của nghị quyết thể hiện trong các nội dung mà nó điều chỉnh. Trong khi đó, văn bản luật là văn bản mang tính chủ đạo nhằm điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có tính chất cơ bản và nền tảng để tổ chức nên bộ máy nhà nước và tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước. Về nội dung, luật chứa đựng các quy phạm “gốc”, tức là những quan hệ cơ bản như chế độ chính trị, chế độ kinh tế, quan hệ giữa nhà nước với công dân… Vì vậy, tất cả các văn bản dưới luật đòi hỏi phải phù hợp với văn bản luật.

Thứ ba , về hình thức, trình tự, thủ tục thông qua, nghị quyết thể hiện tính dưới luật. Văn bản luật có trình tự ban hành hết sức chặt chẽ, như phải lập chương trình xây dựng luật (Điều 22- Điều 29 Luật BHVBQPPL); trong khi đó, nghị quyết không đòi hỏi phải có giai đoạn này.

Trong khoa học pháp lý, chỉ có VBQPPL có giá trị pháp lý bằng hoặc cao hơn VBQPPL trước mới có thể sửa đổi, bổ sung văn bản trước đó. Theo cách suy luận như vậy, nghị quyết có giá trị pháp lý “bằng hoặc cao hơn Hiến pháp”. Điều này rõ ràng là trái với tất cả các cơ sở hiến định và pháp định hiện hành. Rõ ràng, không thể xem nghị quyết là hình thức văn bản có giá trị “cao hơn Hiến pháp” vì nó vi phạm tính tối cao của Hiến pháp; cũng không thể xem nghị quyết có giá trị “bằng Hiến pháp” vì như vậy là đồng nghĩa với việc xem nghị quyết có giá trị “cao hơn luật”.

Ở Việt Nam, khi nói đến văn bản pháp luật, ta thường liên tưởng đến VBQPPL. Song, văn bản pháp luật ở nước ta có ba dạng là VBQPPL, văn bản chủ đạo và văn bản cá biệt 10 và nghị quyết của Quốc hội có thể được thể hiện ở một trong ba hình thức này.

Nghị quyết là văn bản chủ đạo

Nghị quyết là văn bản cá biệt

Trong một số trường hợp khác, nhằm thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Quốc hội cũng ban hành nghị quyết để giải quyết các vụ việc cụ thể, được áp dụng một lần, như: nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới thành phố Hà Nội; nghị quyết về việc bãi nhiệm các chức danh trong các cơ quan của Quốc hội, tư cách đại biểu Quốc hội…

Do chưa thừa nhận tiền lệ pháp, văn bản cá biệt ở nước ta không thể là nguồn của luật. Riêng VBQPPL là nguồn cơ bản, trực tiếp, còn văn bản chủ đạo mang tính chất định hướng có thể xem là nguồn gián tiếp của luật. Mặt khác, nếu tên gọi, trình tự, hình thức ban hành VBQPPL được Luật BHVBQPPL quy định, có ghi nhận giá trị pháp lý từ cao đến thấp, thì văn bản chủ đạo là sản phẩm của khoa học pháp lý. Ở nước ta chưa có Luật Ban hành văn bản chủ đạo nên việc xác định chính xác các vấn đề có tính nguyên tắc như tên gọi, trình tự, thủ tục và hình thức ban hành là một việc làm không thể. Mặt khác, việc ban hành văn bản cá biệt tản mát trong các văn bản của từng chuyên ngành (xử phạt vi phạm hành chính, bản án…) mà chưa được pháp điển hóa về tên gọi, hình thức và trình tự, thủ tục.

Điều này, một lần nữa cho thấy sự khác nhau cơ bản giữa các đạo luật (bao gồm luật, Hiến pháp) và nghị quyết. Hiến pháp và luật luôn thể hiện dưới hình thức VBQPPL, còn nghị quyết có thể được thể hiện dưới cả hình thức VBQPPL, văn bản chủ đạo và đôi khi là văn bản cá biệt.

4. Giải pháp đề xuất

Trên cơ sở những phân tích nêu trên, chúng tôi đề xuất:

Thứ hai , xem xét lại Khoản 1 Điều 9 Luật BHVBQPPL. Theo đó, quy định rõ trong trường hợp chủ thể ban hành VBQPPL cần bổ sung, thay thế, hủy bỏ hoặc bãi bỏ VBQPPL thì phải thỏa mãn điều kiện: văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế,… phải là văn bản cùng hình thức hoặc văn bản sau phải có giá trị pháp lý cao hơn văn bản trước. Khi đó, Quốc hội có thể dùng Hiến pháp để phủ quyết một đạo luật, dùng luật để phủ quyết một nghị quyết mà không làm ngược lại. Sở dĩ như vậy, vì Quốc hội lập pháp phải tuân thủ Quốc hội lập hiến và Quốc hội ban hành văn bản dưới luật phải tuân thủ Quốc hội lập pháp.

Ngoài ra, cũng nên xem xét lại tính thống nhất giữa Điều 1 và Điều 2 Luật BHVBQPPL bởi trong định nghĩa ở Điều 1 không có “cá nhân” mà chỉ có “tập thể”: “VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành”; tuy nhiên, Điều 2 lại quy định thẩm quyền ban hành VBQPPL của các “cá nhân có thẩm quyền” như: Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng…

Thứ tư, nếu xem nghị quyết là văn bản luật thì nên quy định rõ tính pháp lý này và tiên liệu cách thức giải quyết nếu có trường hợp mâu thuẫn với các đạo luật khác; song, nếu cho rằng tùy trường hợp mà nghị quyết có thể là văn bản luật hay dưới luật thì cũng nên quy định cụ thể về nội dung, hình thức cho phù hợp. Còn nếu xem nghị quyết là văn bản dưới luật, có thể dùng để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội mà không cần dùng đến luật, thì cũng cần xác định trường hợp nào nghị quyết là VBQPPL; phân biệt với trường hợp nghị quyết là văn bản chủ đạo hoặc văn bản cá biệt. Sự khác biệt này phải được thể hiện thông qua hình thức của nghị quyết và cách thức ký công bố, ban hành. Đây cũng là một trong những yêu cầu có tính nguyên tắc khi xây dựng cơ chế bảo hiến ở nước ta trong tương lai, bởi cơ quan bảo hiến sẽ không thể xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của một quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành nếu quy phạm pháp luật đó không được xác định thang bậc pháp lý theo từng loại văn bản.

TS. Phan Trung Hiền – Phó trưởng Khoa Luật, Đại học Cần ThơTạp chí Nghiên cứu lập pháp số 203 9/2011 ngày 20/09/2011.

(1) Xem Khoản 3 Điều 11 Luật BHVBQPPL.

(2) Xem Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25-12-2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

(3) GS,TS. Phạm Hồng Thái; PGS,TS. Đinh Văn Mậu: Lý luận nhà nước và pháp luật, chúng tôi thông vận tải, Hà Nội, 2009, tr. 325.

(4) GS,TS. Phạm Hồng Thái; PGS,TS. Đinh Văn Mậu: Lý luận nhà nước và pháp luật, chúng tôi thông vận tải, Hà Nội, 2009, tr. 326.

(5) Điều 83; Khoản 1 Điều 84 Hiến pháp năm 1992.

(6) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, H, 2007, tr. 360.

(7) Ví dụ: Khoản 3 Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2005.

(8) “Mang tính luật”, “có tính luật” là khái niệm dùng để chỉ các văn bản có hình thức ban hành dưới luật, nhưng nội dung lại điều chỉnh quan hệ xã hội mang tính luật. Theo Luật BHVBQPPL, đó chính là văn bản mang tên Pháp lệnh (Khoản 1 Điều 12) và Nghị định (Khoản 4 Điều 14).

(9) PGS,TS. Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 305.

(10) Văn bản pháp luật ở nước ta bao gồm ba loại văn bản sau:

– VBQPPL: là văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung do cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự nhất định, dưới hình thức xác định trong luật, được áp dụng nhiều lần và được đảm bảo thực hiện bởi Nhà nước.

– Văn bản chủ đạo: là văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm đề ra những chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ lớn có tính chiến lược, quyết định những vấn đề của quốc gia hoặc địa phương. Các văn bản này tuy không chứa đựng các quy phạm pháp luật, nhưng nó tạo cơ sở cho các cơ quan nhà nước ban hành các VBQPPL và thường được trình bày dưới dạng chương mục.

– Văn bản cá biệt: đây là loại văn bản nhằm giải quyết các vụ việc cụ thể, được áp dụng một lần căn cứ trên VBQPPL. Đây là các quyết định công bố một văn bản, tặng thưởng các danh hiệu nhà nước, công nhận quốc tịch, quyết định trong ổn định công tác (tuyển dụng, bổ nhiệm, nâng lương…), bản án, quyết định xử phạt vi phạm hành chính…

(11) Theo định hướng của Đảng ta: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ…” (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trịvề Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020).

Cập nhật thông tin chi tiết về Khi Văn Bản Dưới Luật “Đá” Luật trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!