Xu Hướng 12/2023 # Không Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Đời Sống Giảng Viên, Tự Chủ Có Ý Nghĩa Gì? # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Không Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Đời Sống Giảng Viên, Tự Chủ Có Ý Nghĩa Gì? được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Muốn tự chủ đại học thực sự có hiệu quả, theo Giáo sư Trần Đức Viên – Chủ tịch Hội đồng trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam – khi chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thì mục đích tối thượng của tự chủ đại học là nâng cao chất lương đại học theo cac chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trong đó có việc đảm bảo thu nhập chính đáng của nhà giáo từ các hoạt động chuyên môn phải ở mức trung bình cao trong xã hội, để họ có thể dồn tâm trí lực xây dựng và phát triển một nền giáo dục của khai sáng, một nền giáo dục của của nhân cách và phẩm giá.

Tự chủ mà không nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tự chủ mà không nâng cao đời sống của giáo giới thì tự chủ để làm gì?

Đó là một con đường dài; nhưng nhà nước có thể thực hiện một số việc “cần làm ngay”, trước hết là cần tăng phân quyền, giao thêm quyền cho cơ sở giáo dục đồng thời với các quyền đã được giao theo Luật số 34 và Nghị định 99, trước mắt, nhà nước xem xét giao thêm các quyền mà bản thân nền tự do học thuật đòi hỏi, như:

Thứ nhất, về tự chủ tài chính, tài sản và đầu tư

Theo Giáo sư Viên, tự chủ tài chính không có nghĩa là các cơ sở giáo dục phải tự túc, tự lo kinh phí, mà nhà nước chỉ thay đổi phương thức đầu tư: Chuyển từ cơ chế phân bổ ngân sách mang tính bình quân giữa các trường đại học công lập sang gắn với các tiêu chí phản ánh chất lượng đại học thông qua kết quả đầu ra (KPIs) của cơ sở giáo dục;

Và chuyển từ đầu tư theo dòng kinh phí-hạng mục (line-items) sang đầu tư một khoản kinh phí (block grants), nhà trường được quyền linh động sử dụng nguồn kinh phí đó một cách hiệu quả nhất.

Xác định chi phí đào tạo bình quân (chi phí đơn vị, unit cost, hoặc là suất chi đào tạo) và suất đầu tư của từng nhóm ngành đào tạo theo các chuẩn đầu ra khác nhau, trong một khoảng thời gian nào đó, như 5 năm chẳng hạn, làm cơ sở cho việc tính đúng, tính đủ học phí, loại bỏ tâm lý bao cấp về học phí vẫn còn rất nặng nề trong xã hội.

Một số cơ sở được tự chủ về mức chi, nhưng mức thu lại chưa tương xứng, dẫn tới hiệu quả không hơn là bao so với không tự chủ. Do bị khống chế về mức trần học phí, thường là thấp, thu không đủ chi, nên một số cơ sở đã “xé rào”, ban hành nhiều khoản thu “tự nguyện” ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong việc sử dụng nguồn thu, làm xấu đi hình ảnh người thày trong mắt người học.

Sau khi tính đúng tính đủ chi phí đào tạo, nhà nước chỉ nên qui định mức học phí tối thiểu để đảm bảo chất lượng đào tạo đạt chuẩn tối thiểu, chưa nên qui định mức tối đa (mức trần), cho phép các cơ sở giáo dục tự tính mức chi phí theo các chuẩn đầu ra cao hơn đến mức ngang bằng với các trường đại học tiên tiến trên thế giới để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, khuyến khích thu hút “du học nội địa”.

Cụ thể, theo tạp chí StudyTravel, khi đại dịch Covid-19 chưa xuất hiện, con số du học sinh Việt Nam hàng năm vào khoảng gần 200 ngàn người, và dòng USD “chảy” theo họ ra nước ngoài, ước chừng khoảng $3 triệu.

Về đầu tư, đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam rất thấp, theo Ngân hàng thế giới, Việt Nam phân bổ nguồn lực công hơn 5% GDP cho giáo dục, tuy nhiên trong đó, mức đầu tư cho giáo dục đại học hiện quá ít, chỉ chiếm 0,33% (có tài liệu cho rằng còn thấp hơn thế); vì vậy rất nên cân nhắc lại Khoản 3 Điều 64 của Luật số 34 về Nguồn tài chính của cơ sở giáo dục đại học, trong đó mục “Ngân sách nhà nước cấp cho các cơ sở giáo dục” chỉ là “nếu có”(?).

Ở Trung Quốc, Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh là hai đại học tự chủ và cũng là hai trường được đầu tư nhiều nhất trong Đề án 985 (mỗi trường nhận 1,8 tỷ nhân dân tệ, tương đương khoảng 267 triệu $);

Ngân sách của chính phủ trực tiếp rót vào các trường đại học vẫn chiếm khoảng một nửa chi phí hoạt động thường xuyên, như với trường Đại học Sư phạm Hoa Đông (ECNU), một trong 36 đại học được xếp hạng A trong kế hoạch hạng nhất kép (double first-class) ở Trung Quốc là khoảng 1.520 triệu nhân dân tệ (khoảng 226 triệu $), học phí của sinh viên và thu nhập tạo ra từ các chương trình đào tạo chiếm khoảng 24% tổng nguồn vốn, sinh viên phải nộp khoản học phí hàng năm khoảng 5.000 nhân dân tệ (17 triệu đồng);

Nhà nước cho phép các trường hoàn toàn tự chủ các khoản thu hợp pháp mà cơ sở giáo dục có được như các trường tư, tránh sự ràng buộc về Luật Ngân sách và Luật Đầu tư công, và cơ quan chủ quản cũng không nên đòi duyệt các khoản chi này.

Chấm dứt việc đầu tư tài chính theo vị trí, thứ hạng và loại hình trường được nhà nước mặc định của “một thời đã qua”, bây giờ là thời của 4.0 rồi, tất cả đều bình đẳng trong việc được nhà nước hỗ trợ, dựa vào sự cố gẳng và các kết quả đầu ra (KPIs) của cơ sở giáo dục.

Xem xét khả năng không cấp phát ngân sách chi thường xuyên cho các trường công lập, mà cấp phát tiền hỗ trợ cho người học để họ nộp học phí vào trường công hoặc trường tư là nơi họ đang học.

Đầu tư công dưới dạng dự án quốc gia vào các chương trình trọng điểm nên đi theo phương thức đấu thầu sản phẩm đầu ra, và như vậy sẽ không còn phân biệt công hay tư trong đầu tư nữa, tất cả dựa vào hiệu quả, tạo ‘sân chơi’ bình đẳng về đầu tư cho tất cả các cơ sở giáo dục, không phân biệt chiếu trên chiếu dưới, công hay tư.

Thứ hai, về chuyên môn Tự quyết chương trình giảng dạy

Điều 32 Khoản 3 Luật giáo dục đại học 2023 quy định các trường đại học có “quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế”.

Điều 32 chưa đề cập đến việc tự chủ trong thiết kế chương trình giảng dạy; thiết nghĩ, nhà nước cũng nên trao quyền này cho các cơ sở giáo dục tự chủ.

Tự kiểm định chất lượng

Việc cho phép các cơ sở giáo dục tự kiểm định chất lượng là nhằm đảm bảo chất lượng của các trường khi được tự chủ, họ phải thường xuyên tự khẳng định chất lượng đại học của họ trước khi có một cơ quan kiểm định chất lượng độc lập đến kiểm định. Việc kiểm định này nên giao cho các tổ chức kiểm định độc lập, không thuộc hay trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Thứ ba, về tổ chức

Giao quyền tự chủ, xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản cũng cần có lộ trình, phù hợp với điều kiện kinh tế-văn hóa-xã hội của đất nước, của từng ngành nghề và năng lực của từng cơ sở giáo dục, không nên và không thể xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản đồng loạt cho tất cả các cơ sở giáo dục.

Hội đồng trường của một cơ sở giáo dục là tổ chức thay mặt nhà nước quản trị trường đại học; vì thế, để tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản, thì thay vì Hiệu trưởng phải báo cáo, xin ý kiến cơ quan chủ quản về tổ chức và nhân sự, Bộ Giáo dục và Đào tạo về đào tạo, Bộ Khoa học công nghệ về nghiên cứu khoa học,… thì nay Hiệu trưởng chỉ cần báo cáo và xin ý kiến Hội đồng trường về các lĩnh vực công tác được nhà nước giao hoặc ủy quyền, tránh tình trạng phải báo cáo, xin phép nhiều cơ quan.

Vì vậy, nhà nước cần qui định rõ “ranh giới”: những hạng mục công việc nào hiệu trưởng chỉ cần báo cáo, xin ý kiến Hội đồng trường; những hạng mục công việc nào Hiệu trưởng nhất thiết phải báo cáo, xin ý kiến cơ quan quản lý có thẩm quyền.

Một thiết chế nữa được quy định trong tất cả các văn bản pháp lý hiện hành về tổ chức hoạt động của trường đại học là Hội đồng Khoa học và Đào tạo (Academic Senate, Academic Council), từ xưa đến nay chỉ là tổ chức tư vấn cho hiệu trưởng, hoặc thậm chí có khi nó chỉ còn là tổ chức “tự tư vấn cho chính mình”.

Hãy trả lại đúng vị trí, vai trò và trách nhiệm của Hội đồng Khoa học và Đào tạo, đó là tổ chức có thẩm quyền cao nhất về mặt học thuật, về chuyên môn theo thông lệ quốc tế, của cơ sở giáo dục, chứ không phải là hiệu trưởng như hiện nay. Chế độ thủ trưởng trong chuyên môn đã quá lỗi thời.

Thứ tư, về nhân sự

Trường đại học là một tổ chức học thuật, có đặc thù riêng, không thể và không nên lấy các tiêu chuẩn và thước đo của các cơ quan hành chính nhà nước “áp” vào công tác nhân sự của cơ sở giáo dục.

Vì vậy, trong quá trình lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ, lấy hiệu lực quản lý, hiệu quả công tác, năng suất lao động làm thước đo quyết định, các tiêu chuẩn hiện hành khác qui định cho cán bộ quản lý các cơ quan hành chính (trình độ lý luận, tuổi tác, nhiệm kỳ, bằng cấp,…) chỉ nên xem là các tiêu chí tham khảo quan trọng.

Bộ chủ quản xem xét và phê chuẩn kết quả bầu chức danh chủ tịch Hội đồng trường; các chức danh quản lý, lãnh đạo còn lại, từ hiệu trưởng trở xuống, giao Hội đồng trường thực hiện.

Nhà nước giao cơ sở giáo dục xem xét việc bổ nhiệm lại, cho kéo dài thời gian giữ chức vụ lãnh đạo quản lý, bổ nhiệm người quá tuổi lao động theo qui định vào các vị trí lãnh đạo, quản lý và chuyên môn, ký hợp đồng lao động với các nhà khoa học nước ngoài,… tùy thuộc vào hiệu lực quản lý, hiệu quả quản trị, hiệu suất công tác của đối tượng xem xét bổ nhiệm, ký hợp đồng.

Các trường đại học có quyền chủ động trong cơ chế sàng lọc cán bộ, viên chức, từ đó mới có thể tạo sự cạnh tranh, thi đua thực sự, tránh sự chây ì, “sáng vác ô đi tối vác về”.

Vì vậy, luật công chức, viên chức, luật lao động, luật thi đua khen thưởng… phải gỡ các điểm còn vướng mắc này. Quyền tự chủ về nhân sự được thể hiện ở việc các trường tự quyết định hợp đồng với các giảng viên, được chuyển từ hợp đồng dài hạn sang hợp đồng có thời hạn, ký hợp đồng với giảng viên người nước ngoài nhằm đòi hỏi các giảng viên và nhà nghiên cứu trong trường luôn cố gắng đảm bảo các chỉ tiêu đề ra chứ không phải ‘an phận’ với tiêu chuẩn vị trí việc làm trọn đời như trước.

Trường công tự chủ hoàn toàn kinh phí, không thực hiện theo chế độ công chức nữa, chế độ viên chức cũng sẽ ngày càng linh hoạt, gần gũi với quan hệ lao động, như là hợp đồng làm việc có dài hạn có ngắn hạn, góp phần làm ‘mờ’ dần vai trò của cơ quan chủ quản.

Đảng ủy luôn là thiết chế lãnh đạo tòan diện và tuyệt đối các lĩnh vực hoạt động của nhà trường, điều đó luôn được khẳng định, các vị trí lãnh đạo chủ chốt từ chủ tịch Hội đồng trường, Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, trưởng các đơn vị tuyệt đại đa số đều là đảng viên, họ sinh hoạt tại các chi bộ trực thuộc đảng bộ, họ có trách nhiệm tối thượng là sống và làm việc theo Điều lệ đảng, pháp luật của nhà nước, theo nghị quyết của chi ủy, đảng ủy bộ phận và các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên.

Đảng ủy tiếp tục lãnh đạo toàn diện và tuyết đối theo kiểu cũ thì không cần thiết có Hội đồng trường, vì sự lãnh đạo của Hội đồng trường sẽ chồng chéo với sự lãnh đạo của đảng ủy.

Đảng lãnh đạo trường đại học dựa trên hệ thống giá trị mà đảng theo đuổi, vì chủ trương của đảng đã được luật hóa qua các văn bản pháp lý, được hiện thực hóa trên thực tế qua vai trò của hiệu trưởng cũng là đảng viên của đảng, người đã được đảng ủy qui hoạch hết sức nghiêm cẩn, được cán bộ viên chức tín nhiệm, chứ không phải dựa vào sự áp đặt bằng quyền lực trực tiếp; còn Hội đồng trường là một thực thể quyền lực.

Sự lãnh đạo của đảng ủy sẽ hỗ trợ những quyết định đúng đắn của Hội đồng trường và ngăn chặn những quyết định không đúng, do đó sẽ tạo sự đồng thuận trong nhà trường.

Nên, về công tác nhân sự, đảng ủy chịu trách nhiệm qui hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt theo nguyên tắc động, mở và liên tục, và mỗi chức danh đều qui hoạch 2-3 người, một người có thể qui hoạch vào 2-3 chức danh khác nhau.

Hội đồng trường tổ chức giới thiệu, bầu và bổ nhiệm các chức danh này, người nào trong danh sách qui hoạch trúng đều đúng với chủ trương của Đảng, vì những người này đều đã được đảng ủy qui hoạch vào chức danh lãnh đạo, quản lý ấy.

Sau khi có kết quả kiểm phiếu, Hội đồng trường tiến hành công tác bổ nhiệm cán bộ, không cần phải lấy phiếu lại của đảng ủy nữa. Nghĩa là việc thông qua đề xuất nhân sự cấp trường (Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, trưởng đơn vị trực thuộc) là nhiệm vụ của Hội đồng trường, miễn là các viên chức ấy đã được đảng ủy qui hoạch.

Thứ năm, về cơ quan chủ quản

Chúng ta đang ở ‘thời kỳ chuyển tiếp’ giằng co giữa các thói quen và thể chế cũ với các phong cách và thể chế mới. Trong giáo dục đại học, một trong những thể chế và thói quen cũ tạo lực cản rất lớn đối với việc thực hiện các thể chế và phong cách quản lý mới chính là cơ chế ‘cơ quan chủ quản’ và ‘trường trực thuộc’.

Chỉ khi Hội đồng trường hoạt động đủ mạnh theo luật định thì khi đó mới có thể xoá bỏ cơ chế chủ quản; và khi ấy các trường đại học công lập Việt Nam sẽ bước sang một trang mới trong quá trình phát triển và hội nhập: trường đại học trở thành pháp nhân độc lập, hoạt động theo quy định của pháp luật, tự chủ và chịu trách nhiệm giải trình về các hoạt động của mình, có khả năng đáp ứng linh hoạt yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.

Vì vậy, cần phải làm rõ mối quan hệ giữa Hội đồng trường và cơ quan quản lý có thẩm quyền trong giai đoạn chuyển tiếp và giai đoạn xoá bỏ cơ chế chủ quản. Nếu áp dụng ngay việc bỏ cơ chế chủ quản và trao quyền quản trị và lãnh đạo trường đại học cho Hội đồng trường trong khi Hội đồng trường còn chưa đủ mạnh, thậm chí là vừa non vừa yếu, sẽ rất dễ hình thành nhóm lợi ích kiểm soát hoạt động của nhà trường.

Hơn nữa, khái niệm “chủ quản” ở đây cũng đã đến lúc hiểu không giống với khái niệm chủ quản trong cơ chế tập trung quan liêu thời bao cấp nữa, khi nhận thức của con người, trong đó có nhiều vị “cầm cân nảy mực” cũng đã thay đổi.

Như vậy, cách quản lý của cơ quan chủ quản ở đây là: Sự lãnh đạo của cơ quan chủ quản đối với nhà trường được thực hiện qua vai trò của các đại diện của mình trong Hội đồng trường.

Do đó, Bộ chủ quản chỉ làm các việc:

– Về tổ chức và nhân sự: phê chuẩn kết quả bầu chủ tịch Hội đồng trường; Ủy quyền cho Hội đồng trường tổ chức bầu hoặc thi tuyển và bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý còn lại, từ Hiệu trưởng trở xuống;

Giao cơ sở giáo dục toàn quyền trong việc thành lập mới, giải thể, sáp nhập đơn vị trực thuộc; tuyển dụng, xác định vị trí việc làm, định biên, chấm dứt hợp đồng, thi đua khen thưởng, kỷ luật, lên lương, hạ lương, xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng trường, ký hợp đồng lao động với người nước ngoài,…;

– Xây dựng chính sách hỗ trợ, kể cả hỗ trợ về tài chính và đầu tư, để các trường phát huy cao nhất quyền làm chủ, lợi thế so sánh và các nguồn lực của họ trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị với hiệu suất và hiệu quả cao nhất;

Và không can thiệp vào các công việc và các hoạt động thường ngày của cơ sở giáo dục, thay kiểm soát “đầu vào” bằng giám sát kết quả “đầu ra” của cơ sở giáo dục. Nhờ thế, nhà trường hoàn toàn thoát ra khỏi cơ chế quan liêu, hành chính nặng nề của cơ chế chủ quản cũ.

Thứ sáu, cân nhắc thận trọng việc kiêm nhiệm các chức vụ bí thư cấp ủy, chủ tịch Hội đồng trường và Hiệu trưởng

Trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay đang tồn tại một thực tế: Có cơ sở giáo dục 3 vị trí lãnh đạo, quản trị và quản lý chủ chốt là bí thư, chủ tịch Hội đồng trường, Hiệu trưởng do 3 người đảm nhiệm, có trường bí thư kiêm hiệu trưởng, có trường bí thư kiêm chủ tịch Hội đồng trường, có cơ sở giáo dục một người nắm giữ luôn cả 3 vị trí này.

Thực tế cho thấy, chủ tịch Hội đồng trường kiêm Hiệu trưởng khiến quyền lực của hiệu trưởng càng lớn và dễ dẫn đến tình trạng thiếu dân chủ vì “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà không vấp phải một “phản biện” hay một sự “cân đối quyền lực” nào. Ở những cơ sở giáo dục này chỉ có dân chủ hình thức;

Còn nếu một người kiêm nhiệm luôn cả 3 chức vụ, gần như chế độ “thủ trưởng” thời chiến, thì tốt nhất là bỏ luôn thiết chế Hội đồng trường, vì sự tồn tại Hội đồng trường ở đây chỉ là minh họa cho một thứ dân chủ không có thật.

Hơn nữa Hội đồng trường là cơ quan quyền lực, lãnh đạo cụ thể, Hội đồng trường của một trường cũng đóng vai trò như “quốc hội” của cơ sở giáo dục, còn đảng ủy là cơ quan lãnh đạo về chính trị và tư tưởng.

Trong quá trình chuyển đổi, tiến tới 3 vị trí này do 3 nhân vật đảm nhiệm như ở các nước phát triển, bí thư đảng ủy có kiêm chủ tịch hội đồng hoặc kiêm hiệu trưởng hay không, nên để cơ sở giáo dục chủ động lựa chọn, phù hợp với điều kiện thực tế của từng cơ sở giáo dục, vì mỗi cơ sở giáo dục có đặc điểm khác nhau, miễn là cơ sở giáo dục ấy là một tập thể đoàn kết, vững mạnh, phát triển, được quản trị và quản lý tốt, đào tạo và nghiên cứu khoa học có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội.

Về nguyên tắc và theo xu hướng chung của tiến bộ xã hội, để có thể thực hiện giám sát hiệu quả đòi hỏi các vị trí lãnh đạo, quản trị và quản lý cao nhất của ba tổ chức này phải tách biệt về nhân sự.

Việc kiêm nhiệm hai hoặc cả ba vị trí có thể giúp tập trung quyền lực tối đa theo kiểu tập quyền “thời chiến” theo chế độ “thủ trưởng”, hay ở đâu đó của các cơ quan quản lý hành chính, không nên áp dụng trong trường đại học, nơi có những đặc điểm riêng của môi trường sư phạm và học thuật; điều đó có thể sẽ dẫn đến các rủi ro không chỉ cho nhà trường, cho nhân sự lãnh đạo, mà còn cho cả hệ thống giáo dục đại học.

Nếu nhà nước thấy một cá nhân có thể gánh vác cùng một lúc cả 3 vị trí chủ chốt trong một cơ sở giáo dục là phù hợp với bối cảnh nào đó, thì cũng cần đưa ra các cơ sở khoa học và thực tiễn của quyết định này, trên cơ sở đó, khuyến khích các cơ sở giáo dục khác cùng học tập và làm theo.

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục

Trang chủ ” Khoa giáo – Giáo dục LLCT ” Tin tức hoạt động

Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng ban Thường trực

Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 29 – NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ngành Giáo dục đào tạo đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Ngành đã tiếp tục có những giải pháp để hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương, các cơ sở giáo dục đào tạo thực hiện tốt hơn. Các địa phương đã rà soát, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục, sáp nhập các trường tiểu học, trung học cơ sở có quy mô nhỏ thành trường đa cấp có quy mô lớn hơn; Chất lượng đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục được nâng cao. Công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên chuẩn bị cho triển khai đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông được triển khai tích cực, bài bản, toàn diện và hệ thống. Công tác bồi dưỡng thường xuyên, chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên; Chất lượng giáo dục mầm non có nhiều chuyển biến tích cực. Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá. Tổ chức tốt kỳ thi trung học phổ thông quốc gia. Công tác giáo dục hướng nghiệp và định huống phân luồng học sinh chất lượng hơn. Việc lựa chọn học nghề phổ thông của học sinh đã chuyển dần theo hướng phù hợp với nhu cầu phát triển kỹ năng, phục vụ nhu cầu lao động xã hội. Giáo dục đại học theo hướng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao; Tăng cường các giải pháp giáo dục đạo đức lối sống và phòng chống bạo lực học đường trong học sinh, sinh viên; Chất lượng dạy học ngoại ngữ được nâng cao hơn, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học. Hoàn thành xây dựng khung năng lực giáo viên ngoại ngữ, bộ tiêu chí đánh giá các đơn vị tổ chức bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ.; Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý được đẩy mạnh. Cơ sở dữ liệu của các cấp học đã được thống kê. Cải cách hành chính được thục hiện một cách quyết liệt. Cơ sở vật chất bảo đảm cho giáo dục được quan tâm hơn; Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh. Các hoạt động thúc đẩy, kết nối các nhà đầu tư, các cơ sở giáo dục, chia sẻ cơ hội đầu tư và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục. Đến nay, cả nước có tổng số 455 dự án FDI thuộc lĩnh vực GDĐT trên tổng số 27.533 dự án đầu tư nước ngoài của 19 ngành kinh tế. Nhiều cơ sở giáo dục đã tích cực hội nhập quốc tế thông qua các chương trình liên kết đào tạo nước ngoài và các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên và hợp tác nghiên cứu.

Bên cạnh những kết quả trên, ngành Giáo dục đào tạo vẫn còn một số hạn chế. Một số địa phương chưa quan tâm đúng mức việc quy hoạch mạng lưới trường, lớp học, còn thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu chế xuất. Một số địa phương vẫn còn tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ. Nhiều địa phương còn thiếu giáo viên mầm non theo định biên và chưa có giải pháp khắc phục triệt để. Tình trạng học sinh, sinh viên vi phạm đạo đức lối sống đang được báo động. Công tác phân luồng, hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông chưa thật sự hiệu quả. Chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thực tiễn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho giáo dục còn nhiều bất cập. Công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra còn hạn chế nhất định. Còn để xảy ra sai phạm nghiêm trọng trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2023 tại một số địa phương như Sơn La, Hòa Bình, Hà Giang.

Để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong thời gian tới, ngành giáo dục và đào tạo cần tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 29 – NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó cần tập trung đồng bộ một số giải pháp sau:

Thứ nhất: Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục. Tuyên truyền về giáo dục có tác dụng tạo chuyển biến nhận thức và sự đồng thuận cho nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục. Đó là tuyên truyền về Nghị quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng như các chủ trương, chính sách mới về giáo dục đào tạo; đổi mới chương trình, sách giáo khoa; giáo dục mầm non, giáo dục nghề…

Thứ hai: Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp. Đội ngũ giáo viên có vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Để thực hiện được nhiệm vụ cao cả này cần khắc phục những rào cản, bất cập hiện nay (biên chế, tiền lương…) để giáo viên yên tâm công tác, thực sự say sưa, tâm huyết với nghề. Giáo viên cần đảm bảo chuẩn theo quy định và thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Các khóa bồi dưỡng tránh dàn trải mà cần ngắn hạn, chuyên sâu và bồi dưỡng theo, sát nhu cầu thực tế, tạo động lực để giáo viên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới.

Thứ ba: Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Quản lý là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự kỷ cương, nề nếp. Cán bộ quản lý cần tổ chức thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, quy định, cũng như các chương trình, kế hoạch của cấp trên cũng như có những mô hình hay, phương pháp mới phù hợp với xu thế và tình hình thực tế tại địa phương, đơn vị. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả bộ tiêu chuẩn cán bộ quản lý cũng như đánh giá, phân loại, sử dụng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ quản lý theo tiêu chuẩn chức danh cụ thể.

Trình duyệt của bạn không hỗ trợ HTML5 video.

Trình duyệt của bạn không hỗ trợ HTML5 video. Trình duyệt của bạn không hỗ trợ HTML5 Audio.

Tự Chủ Cơ Sở Giáo Dục Nghề Nghiệp Tạo Bước Đột Phá Nâng Cao Chất Lượng

Hiện cả nước có 1.954 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong số đó, hơn 1.500 trường trung cấp, cao đẳng thuộc diện công lập. Có 3 trường đã và đang thực hiện thí điểm cơ chế tự chủ là Cao đẳng Kỹ nghệ 2 Thành phố Hồ Chí Minh, Cao đẳng Lilama 2 Đồng Nai và Cao đẳng Bình Định.

Một số trường nghề dần từng bước tự chủ, hướng tới sự nâng cao chất lượng đào tạo

Theo Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, sau 1 thời gian thí điểm, các trường này có sự tăng trưởng mạnh về số lượng và chất lượng; đầu tư cơ sở vật chất được cải thiện, số lượng doanh nghiệp tìm đến hợp tác nhiều hơn.

Ông Phạm Tiến Dũng, Hiệu phó Trường Cao đẳng điện tử – điện lạnh Hà Nội cho biết: Năm 2023, trường được giao tự chủ 90% và tiến tới tự chủ toàn phần trong các năm tiếp theo. Tự chủ là động lực cho cơ sở đổi mới, thích ứng với thị trường lao động, việc làm. Nhà trường trong năm qua đã cắt giảm tối đa bộ phận gián tiếp, các khoa và thầy cô cũng phải năng động hơn trong tuyển sinh, nâng cao trình độ đáp ứng thay đổi về kỹ thuật, công nghệ

Tương tự, nhận thức xu hướng tự chủ này, lãnh đạo nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp khẳng định đã sẵn sàng tự chủ toàn phần nếu được cơ quan quản lý cấp phép. Tuy nhiên quá trình tự chủ phải có lộ trình, phân chia theo đặc thù từng nghành nghề. “Đơn cử như với khối ngành kỹ thuật sẽ khó khăn hơn với ngành kinh tế – xã hội do phải đầu tư nhiều hơn”, đại điện trường Cao đẳng nghề công nghiệp Hà Nội cho biết.

Cơ cấu việc làm và nghề nghiệp tại Việt Nam nằm ở các ngành sản xuất, dịch vụ có giá trị gia tăng thấp, trong đó có tới 76% lao động làm việc tại các hộ nông nghiệp, hộ kinh doanh hay là lao động không hợp đồng. Điều này cho thấy, lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (GDNN) có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu ngành nghề. Việc tự chủ gắn với quá trình rà soát, quy hoạch lại trường nghề tại các địa phương là cơ hội nâng cao chất lượng đào tạo nghề, nhất là lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao …

Khuyến nghị cơ chế và chính sách

Sinh viên trường nghề thực tập với máy móc

Tuy nhiên, việc tự chủ trong GDNN thực hiện với lộ trình như thế nào đang được các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các chuyên gia trong và ngoài nước góp ý. chúng tôi Gebhard Hafer – Hiệu trưởng Trường BBW University of Applied Science (Đức) chia sẻ: “Ở Đức hiện có hơn 60% học sinh tốt nghiệp phổ thông đi vào học nghề. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra, các cơ sở GDNN phải thường xuyên cập nhật những yêu cầu về năng lực mà doanh nghiệp đòi hỏi. Có 4 trụ cột quyết định sự thành công của GDNN mà vai trò dẫn đầu là chính phủ. Tại Đức, chính phủ đóng vai trò cấp ngân sách cho các cơ sở GDNN. Thứ đến là các công ty, doanh nghiệp, hiệp hội đóng góp 30% nguồn lực cho GDNN”.

GS.TS Gebhard Hafer cho rằng, nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn liền giữa doanh nghiệp và nhà trường. Vì vậy, cần có một cơ chế, chính sách phù hợp để doanh nghiệp và nhà trường phối hợp với nhau một cách linh hoạt trong các quy trình về xây dựng chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra…

Ông Pablo Ariel Acosta – Chuyên gia cao cấp các vấn đề kinh tế, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cũng cho rằng: “Tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp là tương đối phù hợp trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam. Quan trọng là chính phủ sớm có những chủ trương, chính sách hợp lý hơn, tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện tự chủ”.

Trong quá trình góp ý về quá trình tự chủ, lãnh đạo một số cơ sở GDNN cho rằng: Bất cập lớn trong tự chủ hiện nay là đang thiếu cơ chế, hành lang pháp lý để thực hiện. Muốn tự chủ được, cơ sở đào tạo phải tự cân đối được nguồn thu chi và vẫn phải có đầu tư và định hướng của Nhà nước.

Theo ông Trương Anh Dũng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục GDNN, Bộ LĐTBXH đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định cơ chế tự chủ cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Nghị định sẽ mở ra nhiều cơ chế, thuận lợi sẽ là động lực đột phá của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt trong 2 năm qua, các cơ sở GDNN đã luôn tuyển sinh đạt và vượt chỉ tiêu.

Nghị Quyết Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục

Nghị Quyết Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Nghị Quyết Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Nghi Quyet Chuyên Đe Nâng Cao Chât Lương Sinh Hoạt Chi Bo, Nghi Quyet Chuyen De Cua Chi Bo Ve Nang Cao Chat Luong Thuc Hien Nhiem Vu, Nghị Quyết Chuyên Đề Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ Cao Công Tác, Nghị Quyết Số 765-nq/qutw Về Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Huấn Luyện Viên, Nghị Quyết 765-nq/qutw, Của Quân ủy Trung ương Về Nâng Cao Chất Lượng Huấn Luyện Giai Đoạn 2013-2023, Nghị Quyết 765-nq/qutw, Của Quân ủy Trung ương Về Nâng Cao Chất Lượng Huấn Luyện Giai Đoạn 2013-2023, Vận Dụng Tính Năng Động Chủ Quan Trong Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Chínhn Trị, Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Thể Chất, Mẫu Báo Cáo Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Báo Cáo Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Tiếp Tục Đổi Mới Và Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Giáo Dục, Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Mầm Non, Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dcj, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Bài Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Giáo Viên, Tham Luận Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Tham Luạn Vai Trò Của Đảng Viên Trong Việc Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Chuyên Đề Xây Dựng Mối Quan Hệ Trong Và Ngaoif Nhà Trường Để Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Và Phát Tr, Quá Trình Tổng Hợp Chất Hữu Cơ Từ Chất Vô Cơ Thông Qua Sử Dụng Năng Lượng , Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Xây Dựng Lực Lượng Dqtv, Nâng Cao Chất Lương Thanh Toán Tiền Lương Tại Đơn Vị Sự Nghiệp, Nghị Quyết 55 Năng Lượng, Nghị Quyết Năng Lượng, Nghị Quyết Bộ Chính Trị Về Năng Lượng, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết 55 Về Năng Lượng, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết 55 Của Bộ Chính Trị Về Năng Lượng, Đề Xuất Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc, Khám, Chữa Bệnh Cho Nhân Dân Trên Địa Bàn, Nâng, Giải Pháp Để Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Đảng Viên Trong Chi Bộ Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Kiểm Tra, Giải Pháp Để Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Đảng Viên Trong Chi Bộ Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Kiểm Tra , Đề Xuất Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc, Khám, Chữa Bệnh Cho Nhân Dân Trên Địa Bàn, Nâng , Bài Thu Hoạch Nghị Quyết 55-nq/tw Đột Phá Trong Phát Triển Năng Lượng, Nang Cao Chat Luong Mon Hoa, Nâng Cao Chất Lượng Tự Học, Nâng Cao Chất Lượng Hội Họp, Luận án Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo, Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng, Dự án Năng Lượng Từ Chất Thải Tại Tp. Hcm, Nang Cao Chat Luong Doi Ngu Can Bo Mat Tran, Khoa Học 4 ôn Tập Vật Chất Và Năng Lượng, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết Sô 55 Về Định Hướng Chiến Lược Phát Triển Năng Lượng Quốc Gia, Chỉ Thị Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Đại Trà, Bài Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Dạy Và Học, Nâng Cao Chất Lượng Chương Trình Cho Vay, Chỉ Thị Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Báo Cáo Sơ Kết Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Đề án Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực, Báo Cáo Sơ Kết Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Đổi Mới Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Tư Tưởng, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Dạy Và Học, Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Đại Trà, Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Dạy Và Học, Báo Cao Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học, Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực, Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Môn Ngữ Văn, Bao Cao Ve Nang Cao Chat Luong Sinh Hjoat Chi Bo, Tieu Luan Nang Cao Chat Luong Doi Ngu Can Bo Y Te, Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ , Nâng Cao Chât Lượng Quản Lý Cấp Phòng, Bài Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Chuyên Môn, Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Mạng Lõi, Đề Tài Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ, Công Chức, Nâng Cao Chất Lượng Cho Vay Khách Hàng Cá Nhân, Kế Hoạch Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Chỉ Thị Mới Nhất Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Dạy Và Học Thpt, Hướng Dẫn 12 Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Mẫu Báo Cáo Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giảng Dạy, Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực, Luận án Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực, Nang Cao Chat Luong Sinh Hoạt Chi Doan, Nâng Cao Chất Lượng Khám Chữa Bệnh, Khóa Luận Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng, Hướng Dẫn Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Doi Moi Va Nang Cao Chat Luong Sinh Hoat Chi Bo Thon, Báo Cáo Chuyên Đề Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Nâng Cao Chất Lượng Cho Vay Mua ô Tô Dành Cho Khách Hàng Cá Nhân, Bài Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Giai Phap Nang Cao Chat Luong Cong Tac Tu Tuong O Chi Bo, Nâng Cao Chất Lượng Nhân Lực Công Nghệ Thông Tin, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Khóa Luận Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực, Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng, Báo Cáo Sơ Kết 5 Năm Thực Hiện Chỉ Thị 10-ct/tw Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Khóa Luận Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại, Khóa Luận Nâng Cao Chất Lượng Công Chức Cấp Xã, Tổng Quan Nghiên Cứu Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Nâng Cao Chất Lượng Phát Triển Đảng Viên, Nâng Cao Chất Lượng Khám Chữa Bệnh Tại Trạm Y Tế, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Đảng Viên, Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ Nông Thôn, Báo Cáo Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Tình Huống Nâng Cao Chất Lượng Quản Lý Xây Dựng, Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Đoàn, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Phong Trào Thi Đua,

Nghị Quyết Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Nghị Quyết Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Nghi Quyet Chuyên Đe Nâng Cao Chât Lương Sinh Hoạt Chi Bo, Nghi Quyet Chuyen De Cua Chi Bo Ve Nang Cao Chat Luong Thuc Hien Nhiem Vu, Nghị Quyết Chuyên Đề Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ Cao Công Tác, Nghị Quyết Số 765-nq/qutw Về Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Huấn Luyện Viên, Nghị Quyết 765-nq/qutw, Của Quân ủy Trung ương Về Nâng Cao Chất Lượng Huấn Luyện Giai Đoạn 2013-2023, Nghị Quyết 765-nq/qutw, Của Quân ủy Trung ương Về Nâng Cao Chất Lượng Huấn Luyện Giai Đoạn 2013-2023, Vận Dụng Tính Năng Động Chủ Quan Trong Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Chínhn Trị, Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Thể Chất, Mẫu Báo Cáo Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Báo Cáo Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Tiếp Tục Đổi Mới Và Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Giáo Dục, Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Mầm Non, Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dcj, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Bài Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Giáo Viên, Tham Luận Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Tham Luạn Vai Trò Của Đảng Viên Trong Việc Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Chuyên Đề Xây Dựng Mối Quan Hệ Trong Và Ngaoif Nhà Trường Để Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Và Phát Tr, Quá Trình Tổng Hợp Chất Hữu Cơ Từ Chất Vô Cơ Thông Qua Sử Dụng Năng Lượng , Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Xây Dựng Lực Lượng Dqtv, Nâng Cao Chất Lương Thanh Toán Tiền Lương Tại Đơn Vị Sự Nghiệp, Nghị Quyết 55 Năng Lượng, Nghị Quyết Năng Lượng, Nghị Quyết Bộ Chính Trị Về Năng Lượng, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết 55 Về Năng Lượng, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết 55 Của Bộ Chính Trị Về Năng Lượng, Đề Xuất Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc, Khám, Chữa Bệnh Cho Nhân Dân Trên Địa Bàn, Nâng, Giải Pháp Để Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Đảng Viên Trong Chi Bộ Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Kiểm Tra, Giải Pháp Để Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Đảng Viên Trong Chi Bộ Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Kiểm Tra , Đề Xuất Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Chăm Sóc, Khám, Chữa Bệnh Cho Nhân Dân Trên Địa Bàn, Nâng , Bài Thu Hoạch Nghị Quyết 55-nq/tw Đột Phá Trong Phát Triển Năng Lượng, Nang Cao Chat Luong Mon Hoa, Nâng Cao Chất Lượng Tự Học, Nâng Cao Chất Lượng Hội Họp, Luận án Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo, Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng, Dự án Năng Lượng Từ Chất Thải Tại Tp. Hcm, Nang Cao Chat Luong Doi Ngu Can Bo Mat Tran, Khoa Học 4 ôn Tập Vật Chất Và Năng Lượng, Bài Thu Hoạch Nghị Quyết Sô 55 Về Định Hướng Chiến Lược Phát Triển Năng Lượng Quốc Gia, Chỉ Thị Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Bài Tham Luận Nâng Cao Chất Lượng Đại Trà, Bài Tham Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Dạy Và Học, Nâng Cao Chất Lượng Chương Trình Cho Vay, Chỉ Thị Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Báo Cáo Sơ Kết Về Nâng Cao Chất Lượng Sinh Hoạt Chi Bộ, Đề án Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực,

Tiếp Tục Đột Phá Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục

Chuẩn bị chu đáo, toàn diện

Đường vào Trường Sĩ quan Lục quân 1 nổi bật với những khẩu hiệu song ngữ Việt-Anh chào mừng năm học mới. Trên sân chào cờ của nhà trường,hàng nghìn cán bộ, giảng viên, học viên đang sôi nổi luyện tập đội ngũ chuẩn bị cho buổi lễ khai giảng. Trực tiếp theo dõi, chỉ huy buổi luyện tập, Thiếu tướng PGS, TS Đỗ Viết Toản cho biết: Đến thời điểm này mọi công tác chuẩn bị của nhà trường đã hoàn tất. Nhà trường vừa hoàn thành việc tiếp nhận, kiện toàn tổ chức biên chế nơi ăn ở, sinh hoạt cho hơn 600 học viên trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh quân sự năm 2023 vào đào tạo tại nhà trường và đón hàng nghìn học viên của các học viện, nhà trường khu vực phía Bắc gửi về đào tạo học kỳ 1 năm thứ nhất, cùng một số đối tượng đào tạo khác. Để chuẩn bị cho năm học mới, ngay từ đầu tháng 8, nhà trường đã tổ chức tập huấn thống nhất cho 100% cán bộ, giảng viên về một số nội dung và phương pháp giảng dạy; giáo án, bài giảng, cơ sở vật chất dạy học được các đơn vị triển khai chuẩn bị, bổ sung, cấp phát kịp thời bảo đảm chất lượng huấn luyện, giảng dạy ngay từ những ngày đầu.

Công tác chuẩn bị cho năm học mới của Học viện Biên phòng cũng được chuẩn bị khá chu đáo. Theo Thiếu tướng Trịnh Hoàng Hiệp, Giám đốc Học viện: Năm nay, ngoài việc tiếp nhận hơn 200 học viên đào tạo các chuyên ngành biên phòng với chất lượng đầu vào khá cao, học viện còn được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành đào tạo mới là chuyên ngành Luật. Để nâng cao chất lượng đào tạo trong năm học mới, học viên tích cực nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, sát yêu cầu huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và công tác của Bộ đội Biên phòng, đồng thời tiếp tục nâng cao trình độ ngoại ngữ, hỏa khí đi cùng cho học viên…

Vừa kết thúc đợt kiểm tra công tác chuẩn bị năm học mới tại một số học viện, nhà trường trở về, trao đổi với chúng tôi, Trung tướng GS, TS Trần Hữu Phúc, Cục trưởng Cục Nhà trường nhận xét: Qua kiểm tra thực tế, các học viện, nhà trường đều có công tác chuẩn bị chu đáo, toàn diện, sẵn sàng bước vào năm học mới. Cán bộ, học viện rất hào hứng, phấn khởi, quyết tâm giành kết quả cao ngay từ tuần đầu, tháng đầu. Để chuẩn bị cho năm học mới, Cục Nhà trường đã chủ động tham mưu cho Thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu tổ chức nhiều lớp tập huấn về dạy học ngoại ngữ, huấn luyện, diễn tập chiến thuật, huấn luyện hỏa khí đi cùng, thể lực… cho cán bộ, giảng viên các học viện, nhà trường, tạo sự thống nhất cao trong quá trình giảng dạy tại các nhà trường. Bên cạnh đó, các trang thiết bị, cơ sở vật chất, dạy học, thao trường, bãi tập tiếp tục được Bộ quan tâm, đầu tư tạo điều kiện thuận lợi để các trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Đột phá nâng cao chất lượng đào tạo

Thực hiện chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về việc tiếp tục đột phá nâng cao chất lượng GD-ĐT trong các nhà trường quân đội, trong năm 2023-2023 các học viện, trường trong toàn quân sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên. Trọng tâm là Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT; Nghị quyết 86/NQ-ĐUQSTW ngày 29-3-2007 về công tác GD-ĐT trong tình hình mới; Nghị quyết 765-NQ/QUTW ngày 20-12-2012 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2023 và những năm tiếp theo; Chỉ thị số 89/CT-BQP ngày 09-11-2023 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về một số nhiệm vụ cấp bách nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống nhà trường quân đội. Các trường thực hiện nghiêm quy định tổ chức, biên chế trong quy hoạch hệ thống Nhà trường Quân đội theo kết luận của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng; thực hiện tốt công tác GD-ĐT và nghiên cứu khoa học theo nhiệm vụ được giao; tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 35 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20-11-1982 / 20-11-2023)…

Trong năm học mới, cùng với việc tiếp tục triển khai thực hiện tốt các dự án, đề án đã phê duyệt, Cục Nhà trường sẽ phối hợp cùng các cơ quan tham mưu, đề xuất xây dựng Đề án tổng thể phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học giai đoạn 2023-2023, định hướng đến năm 2025; Đề án đào tạo sĩ quan TM-TC mạng; Đề án đào tạo sĩ quan CH-TM tác chiến điện tử; chỉ đạo, hướng dẫn các trường xây dựng bổ sung, hoàn chỉnh tiêu chí chuẩn đầu ra cho các trường đào tạo sĩ quan cấp phân đội trình độ đại học. Việc đổi mới quy trình, chương trình đào tạo của các nhà trường phải bảo đảm sát với thực tiễn đối tượng tác chiến, chiến trường, tổ chức biên chế, vũ khí mới, cách đánh và mục tiêu, yêu cầu của từng đối tượng đào tạo. Trong năm học mới sẽ phấn đấu hoàn thiện quy trình, chương trình đào tạo cán bộ cấp trung, sư đoàn; xây dựng, chỉnh sửa 30 chương trình khung giáo dục đại học, chương trình đào tạo theo chức vụ; 15 chương trình khung cao đẳng; 20 chương trình khung trung cấp; 15 chương trình đào tạo HSQCH, NVCMKT sơ cấp.

Trung tướng GS, TS Trần Hữu Phúc cho biết: Cùng với việc phát huy kết quả, tiếp tục thực hiện đột phá vào huấn luyện thể lực, dạy học ngoại ngữ, xây dựng chính quy đã triển khai trong năm học vừa qua, trong năm học mới, các nhà trường sẽ tập trung vào việc đổi mới quy trình, chương trình đào tạo và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút thành lý luận, bài học kinh nghiệm để vận dụng vào GD-ĐT đáp ứng nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của quân đội và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Cùng với xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục có đủ phẩm chất, năng lực, nâng cao kinh nghiệm thực tế, trình độ ngoại ngữ làm nòng cốt trong quá trình dạy học và nghiên cứu khoa học trong các nhà trường, theo chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, trong năm học mới các trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Tập trung quán triệt thực hiện nghiêm Chỉ thị 917/1999/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Chỉ thị số 04/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về tăng cường quản lý, giáo dục chấp hành kỷ luật, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật và vi phạm kỷ luật nghiêm trọng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam; Chỉ thị 91/CT-BQP về tăng cường quản lý giáo dục và chấp hành kỷ luật; Thông tư 192/2023/TT-BQP về việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự thủ tục, thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỷ luật trong Bộ Quốc phòng. Các trường duy trì chế độ trực chỉ huy, trực ban, trực sẵn sàng chiến đấu theo quy định; chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, điều lệnh, lễ tiết tác phong quân nhân; thực hiện tốt công tác phòng gian bảo mật, bảo đảm an toàn. Tăng cường xây dựng chính quy, cảnh quan môi trường, tạo ra sân chơi lành mạnh cho học viên ngày nghỉ, giờ nghỉ, góp phần nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy. Phấn đấu các nhà trường quân đội phải là đơn vị đi đầu, là đơn vị mẫu mực về xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, không khói thuốc lá…

Bài, ảnh: XUÂN DÂN – THU HÀ

Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Học Sinh Dtts Giai Đoạn 2023

Giờ học Tiếng Việt của học sinh trường TH Nguyễn Tri Phương, Tp. Kon Tum

Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 23/8/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV về tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh DTTS giai đoạn 2023-2023, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh đã xây dựng Chương trình hành động, đồng thời lãnh đạo UBND tỉnh xây dựng Đề án, trình HĐND tỉnh phê duyệt. Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng kế hoạch triển khai trong toàn ngành; cấp ủy Đảng, chính quyền các huyện, thành phố đã có chương trình, kế hoạch cụ thể triển khai cho từng địa bàn; các trường học đã xây dựng kế hoạch cụ thể để tổ chức triển khai tại đơn vị.

Công tác tuyên truyền Nghị quyết 05 được đẩy mạnh, thông qua nhiều hình thức như đăng, tải trên các phương tiên thông tin đại chúng của tỉnh, Website của Ngành Giáo dục và Đào tạo; thông qua Hội nghị và sinh hoạt của tổ chức Đảng các cấp; đưa vào các cuộc họp ở các thôn làng và chính quyền địa phương cơ sở; các Hội nghị của Ngành; các cuộc họp hội đồng giáo dục, sinh hoạt lớp và sinh hoạt dưới cờ của các trường học;… Nhờ vậy, nội dung của Nghị quyết 05 được phổ biến rộng rãi, có những tác động tích cực đối với nhận thức, vai trò trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và cộng đồng các DTTS trên địa bàn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, cha mẹ học sinh, học sinh.

Các cấp, các ngành quan tâm đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu dạy học, nuôi dưỡng và chăm sóc học sinh DTTS.Các địa phương đã sắp xếp lại hệ thống trường, lớp phù hợp tình hình thực tế, lớp nhô trường PTDTNT Sa Thầy (xã Mô Rai), lớp nhô trường PTDTNT Kon Lông (xã Hiếu),… để đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh các cấp, thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh DTTS. Công tác huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục được quan tâm với tổng kinh phí khoảng 213 tỷ 524 triệu đồng, trong đó nguồn kinh phí Nhà nước khoảng 203 tỷ 428 triệu đồng, nguồn huy động xã hội hóa khoảng 10 tỷ 96 triệu đồng.

Việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh DTTS được chú trọng.Các đơn vị, địa phương linh hoạt trong việc tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng học sinh DTTS. Công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý giáo dục; học tiếng DTTS tại chỗ cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên công tác tại các trường vùng DTTS được đẩy mạnh.

Ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tăng cường quản lý công tác dạy học; tiếp tục thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực; triển khai dạy 2 buổi/ngày, dạy phụ đạo đối với học sinh DTTS; tổ chức triển khai Đề án tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng DTTS; tích cực thực hiện giải pháp đẩy mạnh công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT.

Có được kết quả trên là do ngành Giáo dục và Đào tạo, UBND huyện, thành phố đã tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự đồng thuận, hỗ trợ của Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội… trong việc tổ chức thực hiện. Qua đó, chất lượng giáo dục đối với học sinh DTTS có chuyển biến tích cực, một số nội dung như tỷ lệ trẻ DTTS 5 tuổi đi học mẫu giáo, tỷ lệ học sinh DTTS cấp THCS có hạnh kiểm từ trung bình trở lên, tỷ lệ học sinh DTTS cấp THPT có học lực từ trung bình trở lên đạt mục tiêu Nghị quyết đến năm 2023; tỷ lệ học sinh DTTS tốt nghiệp THPT năm 2023 đạt tỷ lệ cao 91,42%, tăng 1,55 so với năm 2023.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 05 trên địa bàn tỉnh vẫn còn những hạn chế, đó là: Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ dạy học các trường vùng DTTS chưa đáp ứng nhu cầu dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục; nhiều trường, điểm trường thiếu nhà vệ sinh, nhiều trường thiếu nước sạch để phục vụ cho cán bộ, giáo viên và học sinh; nhiều trường PTDTBT còn thiếu phòng ở, nhà bếp, phòng ăn và các trang thiết bị phục vụ ăn, ở cho học sinh bán trú. Nhiều địa phương thiếu giáo viên bậc mầm non, tiểu học để thực hiện dạy 2 buổi/ngày; một số giáo viên hạn chế về trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm; một số giáo viên chưa biết tiếng DTTS tại chỗ, ít am hiểu văn hóa của địa phương, nên khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục học sinh DTTS…..

Rà soát cơ sở vật chất thiết yếu phục vụ dạy học, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe học sinh, trên cơ sở đó tập trung huy động các nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục đến năm 2023, nhất là phòng học để tổ chức dạy 2 buổi/ngày, nhà vệ sinh, nước sạch phục vụ cho cán bộ, giáo viên và học sinh trong các trường học; …

Thực hiện các giải pháp để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên mầm non, tiểu học trong năm học 2023-2023; cân đối, khắc phục tình trạng thừa thiếu giáo viên các bậc, cấp học trong những năm học tiếp theo; triển khai có hiệu quả việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên.

Ngành Giáo dục và Đào tạo thực hiện các giải pháp đẩy mạnh công tác quản lý dạy học, kiểm tra đánh giá, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng việc tổ chức dạy 2 buổi/ngày đối với trường mầm non, tiểu học, các trường PTDTNT, PTDTBT; triển khai có hiệu quả chủ trương dạy phụ đạo đối với học sinh DTTS;…

Cập nhật thông tin chi tiết về Không Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục, Đời Sống Giảng Viên, Tự Chủ Có Ý Nghĩa Gì? trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!