Xu Hướng 3/2023 # Lời Khai Của Đương Sự, Người Làm Chứng Trong Vụ Án Hành Chính # Top 7 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Lời Khai Của Đương Sự, Người Làm Chứng Trong Vụ Án Hành Chính # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Lời Khai Của Đương Sự, Người Làm Chứng Trong Vụ Án Hành Chính được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Lời khai của đương sự là một nguồn cứng cứ vô cùng quan trọng trong vụ án hành chính. Lời khai của đương sự được xác định là bản tự khai của mỗi đương sự, là bản lấy lời khai của Thẩm phán tại tòa án mà Thẩm phán cho rằng cần phải lấy lời khai khi cần làm rõ tình tiết, sự kiện qua lời khai bổ sung của đương sự. Hay theo yêu cầu của đương sự, Tòa án xét thấy cần phải lấy lời khai của người làm chứng.  Theo quy định tại Điều 85, Điều 86 của Luật tố tụng hành chính 2015:

Điều 85. Lấy lời khai của đương sự

Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Tòa án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án.

Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.

Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và dấu của Tòa án; nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Tòa án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản. Trường hợp đương sự không biết chữ thì phải có người làm chứng do đương sự chọn.

    Việc lấy lời khai của đương sự chưa đủ mười tám tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó.

    Điều 86. Lấy lời khai của người làm chứng

    Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng.

    Thủ tục lấy lời khai của người làm chứng được tiến hành như việc lấy lời khai của đương sự theo quy định tại Điều 85 của Luật này.

    Lời khai của đương sự, của người làm chứng xác định là nguồn chứng cứ hợp pháp, đương sự phải tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật đã nêu tại các Điều của Luật này. Biên bản lời khai ghi rõ nội dung, đương sự có quyền bổ sung và sửa đổi sau khi đọc lại hoặc nghe lại lời khai, lời khai phải có chữ ký, điểm chỉ của đương sự, có chữ ký của người ghi nhận lời khai; trong trường hợp người khai tại trụ sở Tòa án thì phải có dấu của Tòa án; trong trường hợp lời khai có nhiều trang thì phải có dấu giám lai và chữ ký của người khai ở mỗi trang rời; trong trường hợp đương sự lập biên bản lời khai ngoài trụ sở Tòa án thì biên bản lời khai phải có dấu xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, công an xã, phường, thị trấn, các cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản lời khai; nếu trong trường hợp không biết chữ thì phải có người làm chứng cho đương sự.

    Trong trường hợp lấy bản khai của các đương sự bị hạn chế về năng lực hành vi dân sự, khó khăn về nhận thức, làm chủ hành vi của mình, hoặc đương sự chưa đủ mười tám tuổi thì phải được tiến hành lấy lời khai với sự có mặt của người theo pháp luật hoặc người quản lý, chông nom người đó.

    Vai Trò Của Luật Sư Trong Vụ Án Dân Sự

    Luật sư kinh tế – Vai trò của luật sư trong vụ án dân sự

    Nói đến các loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án là một phạm trù rất lớn bao trùm nhiều lĩnh vực gồm các loại án dân sự và các việc dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động …. Hiện nay, các vụ việc thuộc thẩm quyền dân sự của toà án được quy định từ các điều 25 đến điều 32 BLTTDS năm 2004 nước CHXHCN Việt Nam Để đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự phải: “Tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân … chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình …. Người tiến hành tố tụng dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì toà án phải bồi thường cho người bị thiệt hại ….” (Điều 13 BLTTDS năm 2004)

    Trong xã hội nước ta hiện nay việc phổ biến pháp luật cho Nhân Dân còn nhiều bất cập, thiếu hợp lý, thiếu đồng bộ … Vì thế cho nên để người dân hiểu đâu là quyền và lợi ích của mình trong một vụ án dân sự là một điều gì đó mơ hồ và thiếu thực tiễn.

    Mọi chi tiết xin liên hệ Văn Phòng Luật Sư Trí Minh để được tư vấn luật một cách tốt nhất !

    LUẬT SƯ TƯ VẤN DÂN SỰ – LUẬT TRÍ MINH Gửi yêu cầu dịch vụ:lienhe@luattriminh.vn

    Số điện thoại yêu cầu dịch vụ: 0437669599

    Rất hân hạnh được hợp tác cùng Qúy Khách ! Trân trọng !

    Tham khảo dịch vụ tại: chúng tôi – www.luattriminh.vn

    Luật sư kinh tế

    TRỤ SỞ TẠI HÀ NỘI Tầng 5, Số 8 Phạm Ngọc Thạch, Phường Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội Tel: 04-3766.9599 – Fax: 04-37669636CHI NHÁNH TẠI HCM Phòng 3A, Tầng 3, Số 301 Trần Hưng Đạo, Phường Cô Giang, Quận 1, TP.HCM Tel: 08-3838.8868 – Fax: 08-38388869

    BTV – Văn phòng luật sư Trí Minh

    Vai Trò Của Luật Sư Trong Vụ Án Hình Sự

    Ở nước ta hiện nay, kinh tế, xã hội ngày càng phát triển. Bên cạnh sự phát triển tích cực còn có rất nhiều sự phát triển theo hướng tiêu cực. Chính từ đó mà các vụ án kinh tế, hình sự gia tăng. Chính vì vậy việc đòi hỏi sự công bằng xã hội trong mỗi vụ án ngày càng cao. Do đó pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng. Cũng phải tự điều chỉnh sao cho phù hợp.

    Pháp luật nước ta quy định rõ ràng tại hiến pháp “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật “. Xuất phát từ lẽ đó mà phương để giải quyết 1 vụ án, hơn một lúc nào hết hiện tại và tương lai ngày càng đảm bảo sự thoả đáng “bình đẳng”, thoả đáng “công bằng”. Tuy vậy không phải ai cũng có điều kiện để hiểu sâu, hiểu rõ pháp luật. Chính vì vậy, luật sư là người góp phần tích cực bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tăng cường quản lý kinh tế – xã hội theo pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.

    Như vậy, sự tham gia của luật sư trong quá trình tố tụng là không thể thiếu, không thể phủ nhận nhưng để làm tốt được vai trò của mình thì luật sư cần phải có sự hiểu biết sâu sắc pháp luật. Do vậy, ngoài việc học còn phải trải qua một thời gian thực tế, qua rất nhiều giai đoạn. Tuy nhiên, trong hoạt động của luật sư thì hoạt động chuẩn bị luận cứ bào chữa là một trong những hoạt động cần thiết, thiết thực, không thể thiếu trong một vụ án hình sự nói riêng và trong hoạt động của luật sư trong các lĩnh vực nói chung. Đây chính là một trong những lý do để em chọn đề tài này.

    B. CHUẨN BỊ LUẬN CỨ BÀO CHỮA

    Luật sư muốn thể hiện mình tại phiên toà thì không thể không có luận cứ bào chữa. Nó là cả một quá trình luật sư phải tìm tòi, suy nghĩ và áp dụng pháp luật một cách đúng đắn sao cho bảo về quyền và nghĩa vụ hợp pháp của thân chủ.

    2.Những yêu cầu trong công tác chuẩn bị luận cứ bào chữa:

    Trong luận cứ bào chữa của mỗi luật sư thì họ phải cẩn trọng, cân nhắc một cách cẩn thận, thể hiện kỹ năng hành nghề của luật sư, kỹ năng phân tích các tình tiết của vụ án. Kỹ năng đó mà thuật ngữ chuyên môn người ta gọi là tính tác nghiệp” mà luật sư thể hiện trong quá trình tham gia tố tụng. Đó chính là khả năng, năng lực, kinh nghiệm của luật sư để thực hiện tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Như vậy trong mọi trường hợp luật sư luôn là người đại diện cho thân chủ của mình trước pháp luật. Giữa luật sư và các cơ quan xét xử đã tạo thành hai hệ thống độc lập, tạo ra sự khách quan trong hoạt động xét xử. Tại các phiên toa hình sự, sự lập luận, đối chứng của luật sư giúp cho cơ quan xét xử tìm ra sự thật một cách khách quan hơn, trên cơ sở bổ sung cần thiết đó sẽ bảo vệ và duy trì pháp luật, đồng thời sẽ hạn chế tối đa sự oan, sai cho thân chủ và thông qua đó sẽ có nhận thức đúng đắn hơn về pháp luật. Đây là một trong những đòi hỏi cần thiết mà mỗi luật sư phải đạt được khi hành nghề trong xã hội. luật sư phải luôn thể hiện đúng vai trò, vị trí, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm của mình đối với xã hội, với thân chủ, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử.

    Trong quá trình bào chữa tại phiên toà, luật sư phải dẫn ra được những chứng cứ chứng minh cho những lý lẽ, lập luận mà mình đã đưa tra trong luận cứ bào chữa.

    Luật sư phải đọc, hiểu một cách tường tận những quy định pháp luật và chính sách của Nhà nước để có căn cứ chính xác, từ đó tìm ra được những yếu tố chứng cứ có lợi nhất cho thân chủ của mình.

    Tuy nhiên với mỗi nhóm tội khác nhau thì nội dung luận cứ cũng khác nhau. Do đó việc chuẩn bị luận cứ bào chữa của luật sư là cả một quá trình nghiên cứu khoa học đòi hỏi luận cứ phải làm việc hết sức nghiêm túc để có được sự chắt lọc kỹ lưỡng các vấn đề được đưa ra nghiên cứu. Song, không phải vì thế mà luật sư đưa ra những tình tiết, chứng cứ không có thật hoặc thiếu căn cứ để bao che cho thân chủ của mình. Những chứng cứ này phải được đưa ra trên cơ sở có căn cứ pháp lý rõ ràng và không trai với quy định của pháp luật.

    Để hoàn thành một bản luận cứ bào chữa xúc tích, chặt chẽ, có tính thuyết phục cao, luật sư phải bám vào những yếu tố cấu thành của từng loại tội phạm, nắm vững các đặc điểm về tình tiết định khung, định tội. Bên cạnh đó, các vấn đề được đưa ra trong bản luận cứ bào chữa cần phải được sắp xếp đảm bảo tính lôgíc, có bố cục chặt chẽ, thể hiện được trình tự, diễn biến của phiên toà, thể hiện bản chất của sự việc tạo cho người nghe một tâm lý nhẹ nhàng, thoải mái.

    Trong mọi trường hợp, luật sư không vì quyền lợi cho thân chủ của mình mà làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác trong vụ án. Đây chính là vấn đề đạo đức nghề nghiệp của luật sư.

    Thành công của luật sư tại phiên toà chính là ở sự thuyết phục của luận cứ bào chữa trước Hội đồng xét xử, thể hiện luật sư đã có một quá trình nghiên cứu, suy nghĩ tìm hiểu sự thật vụ án một cách nghiêm túc. Trong luận cứ bào chữa, luật sư đưa ra các lý lẽ của mình, trình bày tất cả chứng cứ và tình tiết có lợi ích cho thân chủ nhằm thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận Để luận cứ bào chữa đạt yêu cầu, nhất thiết luật sư phải có sự chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng. Muốn vậy luật sư phải có kiến thức am hiểu một cách sâu rộng mọi mặt của đời sống xã hội, có khả năng nghiên cứu, tóm tắt, ghi nhớ các thông tin, tổng hợp những tài liệu, chứng cứ để đánh giá, phân tích một cách ngắn gọn, nội dung xúc tích, bố cục chặt chẽ với đầy đủ nội dung cơ bản vì mỗi tội phạm riêng biệt có các luận cứ bào chữa riêng song nó muốn trở thành một bản bào chữa có tính thuyết phục thì cần phải tuân thủ các bước cơ bản.

    Mục đích cơ bản mà giai đoạn này luật sư cần làm được, đó là tìm ra các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết có lợi cho thân chủ của mình. Để làm được điều đó, luật sư phải có phương pháp nghiên cứu hồ sơ nắm được các đặc điểm về cấu thành tội phạm, đặc biệt là các tội danh gần giống nhau.

    Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, cáo trạng, tiếp xúc với thân chủ, luật sư phải nghiên cứu kỹ lưỡng hành vi của thân chủ để có định hướng bào chữa “cụ thể”, ví dụ nếu hành vi của thân chủ không cấu thành tội phạm đó thì sẽ có định hướng bào chữa vô tội, nếu có cấu thành nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì hướng bào chữa là giảm nhẹ hình phạt…

    3.Hoàn thành luận cứ bào chữa :

    Từ sự nghiên cứu trên luật sư phải tổng hợp, phân tích, sắp xếp một cách khoa học, lô gíc những tình tiết đó để xây dựng đề cương lập cứ bảo vệ cho thân chủ của mình. Còn nếu bản luận cương đó mà gửi tới Hội đồng xét xử thì luật sư phải viết nó dưới dạng một bài viết hoàn chỉnh.

    D. KẾT CẤU CỦA MỘT LUẬN CỨ BÀO CHỮA

    Các luận cứ bào chữa thông thường có :

    – Phần mở đầu

    – Phần nội dung

    – Phần kết luận

    1.Phần mở đầu :

    -Luật sư tự giới thiệu về bản thân (Họ tên, nơi hành nghề, địa chỉ…)

    -Trình bày lý do tham dự phiên toà (có thể do luật sư được thân chủ mời, có thể do Toà án chỉ định)

    2.Phần nội dung :

    Phần nội dung được trình bày theo 2 định hướng :

    2.1.Giảm nhẹ :

    Luật sư cần đưa ra tối đa các tình tiết giảm nhẹ cho thân chủ quy định ở Điều 46, Bộ luật hình sự hiện hành. Ngoài ra đối với những tình tiết có lợi cho thân chủ, luật sư cần phân tích, đánh giá theo hướng giảm nhẹ.

    2.2.Vô tội :

    Điều cơ bản của định hướng này là luật sư phải đưa ra các chứng cứ thuyết phục để bác bỏ quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát đối với thân chủ của mình.

    Cụ thể :

    – Vô tội do chứng cứ không đầy đủ

    – Vô tội do hành vi không đủ yếu tố cấu thành tội phạm

    – Do sự thay đổi của pháp luật hình sự

    – Do tất cả các yếu tố trên

    3.Phần kết luận : 3.1.Nếu luận cứ theo hướng giảm nhẹ :

    – Luật sư tóm tắt, đánh giá lại tính chất, mức độ hành vi phạm tội của thân chủ theo hướng có lợi.

    – Phân tích hoàn cảnh gia đình, nhân thân, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo.

    3.2.Nếu luận cứ theo hướng vô tội :

    – Luật sư tóm tắt, phân tích, đánh giá chứng cứ hoặc những quy định của pháp luật xác định bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự.

    – Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội như Viện kiểm sát đã truy tố, đề nghị trả tự do ngay cho bị cáo, nếu bị cáo đang bị tạm giam.

    * BỔ SUNG LUẬN CỨ :

    Ngoài ra, luận cứ bào chữa sẽ được sửa đổi bổ sung thêm ngay tại phiên toà. Vì ở đó có thể nảy sinh thêm các tình thiết như : vi phạm về mặt tố tụng (các biên bản làm việc, kết quả giám định…), vi phạm về nội dung (sự định tội sai của Viện kiểm sát…) và các tình tiết khác nếu xét thấy không có lợi cho thân chủ luật sư cần bổ sung, chỉnh sửa ngay sao cho công việc bào chữa đạt hiệu quả cao nhất.

    E. KẾT LUẬN

    Tóm lại, việc chuẩn bị luận cứ bào chữa là rất quan trọng. Nó thể hiện trình độ chuyên môn, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư. Một luận cứ chu đáo sẽ thuận lợi cho việc bào chữa của luật sư và ngược lại nếu luận cứ đó là qua loa, đại khái thì nó sẽ thể hiện là một luật sư tồi, hay luật sư không thực sự tâm huyết với nghề nghiệp và tất yếu hiệu quả của việc bào chữa là rất thấp. Bên cạnh sự chuẩn bị luận cứ bào chữa, luật sư cũng cần phải chú ý đến cách thức trình bày nó tại phiên toà.

    Luận cứ bào chữa phải ngắn gọn, chính xác đồng thời thể hiện được bản chất của sự việc, tạo cho người nghe một tâm lý nhẹ nhàng, thoải mái.

    Từ giọng nói, âm điệu để trình bày bản luận cứ bào chữa sao cho thuyết phục. Đây chính là việc để góp một phần không nhỏ cho luận cứ của luật sư thành công hơn.

    Văn phòng luật sư Dragon

    Giải Quyết Các Vụ Án Hành Chính Trong Lĩnh Vực Đất Đai

    I.Về đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai

    – Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Việc xác định hành vi hành chính khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước, khi nào là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước và khi nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong cơ quan; thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ, công vụ đó và phân biệt như sau:

    Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước, nhưng do người trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện theo sự phân công hoặc uỷ quyền, uỷ nhiệm thì hành vi đó là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước mà không phải là hành vi hành chính của người đã thực hiện hành vi hành chính đó.

    Ví dụ: Theo quy định của pháp luật đất đai thì hồ sơ chuyển đổi quyền sử dụng đất nộp tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Ông Nguyễn Văn A đã nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân xã X theo đúng quy định, nhưng bà Trần Thị C là cán bộ nhận hồ sơ của Ủy ban nhân dân xã X đã trả lại hồ sơ cho ông A và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Trong trường hợp này, việc trả lại hồ sơ cho ông A là hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã X mà không phải là hành vi hành chính của bà Trần Thị C.

    – Đối với đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính, cần phân biệt quyết định hành chính bị khởi kiện với quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan tổ chức như sau:

    + Quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là quyết định không trực tiếp xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà chỉ mang tính chỉ đạo, điều hành, như: Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết dứt điểm khiếu nại của đương sự…

    + Quyết định hành chính bị kiện là quyết định mà cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyết định hành chính đó xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ, như: Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…

    – Đồng thời, cần xác định quyết định hành chính bị kiện là quyết định có nội dung làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đó có thể là quyết định mang tính tổng thể, nhưng có danh sách kèm theo hoặc có bản quy định chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân kèm theo, qua đó xác định được cụ thể quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình bị xâm phạm thì họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với phần xác định cụ thể đó (tham khảo Án lệ số 10/2016/AL theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao).

    Ví dụ: Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với những hộ gia đình tại xã X, có đất bị thu hồi làm Dự án, có nội dung: đất sản xuất nông nghiệp là 100.000đ/m2, đất thổ cư là 1.000.000đ/m2 tổng cộng số tiền là 500 tỷ đồng, nhưng không nêu cụ thể số tiền bồi thường, hỗ trợ cho từng hộ gia đình, thì không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

    Cũng với Quyết định trên, nhưng có danh sách từng hộ gia đình, cá nhân kèm theo, trong đó nêu rõ gia đình ông A được bồi thường 1 tỷ đồng cho 2.000 m2 đất, bà B được bồi thường 50.000.000 đồng cho 300 m2 đất..thì những phần chi tiết đó của Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

    Ví dụ: Người khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông N, Quyết định giải quyết kiến nghị của Ủy ban nhân dân huyện và 05 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp 05 người con của ông N; huỷ Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Bản án sơ thẩm quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của người khởi kiện đối với Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông N và Quyết định giải quyết kiến nghị của Ủy ban nhân dân huyện do đã hết thời hiệu khởi kiện là không đúng với nội dung hướng dẫn đã viện dẫn ở trên. Mặt khác, Toà án cấp sơ thẩm không xem xét tính hợp pháp của việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông N nên không có cơ sở đánh giá tính hợp pháp của 05 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho 05 người con của ông N và Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.

    Khi kiểm sát việc thụ lý vụ án hành chính cần xem xét có hay không việc đương sự vừa khởi kiện vụ án hành chính vừa khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo nhưng Tòa án vẫn thụ lý. Theo đó, cần xem xét nội dung đơn khởi kiện của đương sự có cam đoan về việc không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hay không (theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 118 Luật Tố tụng hành chính năm 2015). Đồng thời, xem xét việc Tòa án có tiến hành xác minh, thu thập tài liệu về việc đương sự có đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết không. Từ đó có căn cứ xác định việc khởi kiện của đương sự đảm bảo về điều kiện khởi kiện vụ án theo quy định của pháp luật.

    – Khi kiểm sát việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ hồ sơ để đánh giá xem việc thu thập chứng cứ của Tòa án có khách quan, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định không. Trong đó, cần lưu ý trường hợp: trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng đương sự chưa cung cấp mà không có lí do chính đáng; sau đó, khi Tòa án đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án; nhưng Hội đồng xét xử vẫn sử dụng làm chứng cứ để giải quyết vụ án. Đây là những vi phạm thường gặp của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án gây ảnh hưởng đến quyền lợi của một trong các bên đương sự. Kiểm sát viên khi phát hiện vi phạm này phải kịp thời yêu cầu hoặc kiến nghị đối với Tòa án.

    – Đối với việc giải quyết vụ án hành chính ở cấp phúc thẩm, cần yêu cầu Tòa án thu thập cả những chứng cứ mà ở cấp sơ thẩm, Kiểm sát viên đã yêu cầu nhưng Tòa án không thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ mà xét thấy cần thiết cần tiếp tục thu thập làm cơ sở để giải quyết vụ án.

    II. Những lưu ý đối với một số loại án cụ thể

    – Khi xác định thẩm quyền thu hồi đất cần căn cứ vào quy định tại Điều 66 Luật Đất đai năm 2013. Trong đó, nội dung cần chú ý: Đối với trường hợp trong khu đất thu hồi gồm đất của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, đất của tổ chức thì thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Do đó, quyết định hành chính do Ủy ban nhân dân huyện ký ban hành phải được Ủy ban nhân dân tỉnh ủy quyền bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân huyện quyết định thu hồi đất. Nếu không có ủy quyền bằng văn bản thì quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân huyện được xem là trái về mặt thẩm quyền.

    + Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định Điều 67 Luật Đất đai năm 2013;

    + Không công khai phương án đền bù, tái định cư;

    + Thu hồi đất không đúng đối tượng, không đúng với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt: Trong thực tế thường xảy ra trường hợp thu hồi đất vượt quá quy hoạch sử dụng đất thực hiện dự án được phê duyệt. Để phát hiện vi phạm này cần nghiên cứu kĩ quy hoạch sử dụng đất của cấp có thẩm quyền như: Căn cứ lập quy hoạch, nội dung quy hoạch, thẩm định phê duyệt quy hoạch, báo cáo thực hiện quy hoạch và đặc biệt nghiên cứu kĩ bản đồ địa chính để xác định chênh lệch về diện tích đất thu hồi so với diện tích đất trong quy hoạch hoặc phát hiện việc diện tích bằng nhau nhưng sai vị trí quy hoạch được duyệt.

    + Sai lệch hồ sơ, vị trí đất thu hồi trên thực địa: Việc xác định đúng loại đất, vị trí đất bị thu hồi có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến việc bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư. Để phát hiện vi phạm trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần chú ý:

    Đất thu hồi có các loại giấy tờ của Nhà nước ta trong các thời kì hoặc giấy tờ của cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp mà người sử dụng đất không thuộc diện bị nhà nước truất quyền và họ đang sử dụng ổn định, không có tranh chấp; hoặc người nhận chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất trên nhưng chưa làm thủ tục sang tên theo quy định của pháp luật, có các loại giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 hoặc Điều 100 Luật Đất đai năm 2013, thì phải nghiên cứu kĩ hồ sơ địa chính trong đó đặc biệt chú ý đến sổ địa chính, bản đồ địa chính, bản đồ giải thửa, nội dung giấy tờ của chế độ cũ… làm cơ sở cho việc bồi thường đúng diện tích, vị trí, loại đất. Trường hợp không có các loại giấy tờ như đã nêu trên và không có tên trong sổ địa chính thì phải xem xét đến nguồn gốc, quá trình sử dụng đất, việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước; xem xét việc người sử dụng đất bị thu hồi có vi phạm pháp luật về đất đai hay không.

    – Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục;

    – Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi;

    – Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành;

    – Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành. Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản.

    Đây là trường hợp phổ biến mà đương sự khởi kiện khi bị thu hồi đất.

    – Khi xem xét về trình tự, thủ tục bồi thường khi thu hồi đất, cần lưu ý: Để phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đúng quy định của pháp luật phải xác định mục đích thu hồi, diện tích, loại đất, tài sản có trên đất có phù hợp với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; biên bản kiểm kê tài sản; bảng giá đất của địa phương và các văn bản của địa phương về chính sách đối với hộ gia đình, cá nhân khi có đất bị thu hồi để thực hiện dự án hay không. Đồng thời, phải xem xét để làm rõ nguồn gốc đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận không, để đối chiếu với phương án đền bù xem có phù hợp hay không.

    – Khi đánh giá về nội dung của phương án bồi thường, cần xem xét lại vị trí từng loại đất trên thực địa có đúng với vị trí loại đất ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp nhà và tài sản khác có diện tích không đúng vị trí ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải điều chỉnh lại vị trí đúng theo thực tế sử dụng để áp dụng chính sách bồi thường khi thu hồi đất. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền không điều chỉnh lại vị trí nhà mà vẫn áp dụng vị trí ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để áp giá bồi thường là không đúng quy định của pháp luật.

    Kiểm sát viên cần chú ý làm rõ các lý do mà người khởi kiện đưa ra để lý giải cho việc không đồng ý với phương án bồi thường và những ý kiến phản biện của người bị kiện, để từ đó xác định tính hợp lý của yêu cầu khởi kiện.

    Hiện nay, không có quy định nào về khái niệm đất công, đất công cộng. Tuy nhiên, có thể hiểu, về bản chất thì đây đều là đất do Nhà nước quản lý, nhưng thực tế khác nhau rất nhiều về mục đích sử dụng. Đất công cộng là đất chỉ sử dụng vào mục đích công cộng như đường, công viên, vỉa hè, sông suối… còn đất công có nghĩa rộng hơn, ngoài các mục đích là đất công cộng nó còn bao gồm tất cả các mục đích khác như đất xây dựng các công trình nhà nước, đất quốc phòng, đất an ninh, đất nghĩa trang, đất chưa sử dụng, các quỹ đất được Nhà nước xác lập quản lý bằng văn bản…

    Điểm d khoản 2 điều 10 Luật Đất đai năm 2013 quy định về các loại đất công cộng và Điều 3 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (sau đây gọi tắt là Nghị định số 102/2014/NĐ-CP) thì hành vi lấn đất là việc người đang sử dụng đất tự chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất. Hành vi chiếm đất là việc sử dụng đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc việc sử dụng đất do được Nhà nước giao, cho thuê nhưng hết thời hạn giao, cho thuê đất không được Nhà nước gia hạn sử dụng mà không trả lại đất hoặc sử dụng đất khi chưa thực hiện thủ tục giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

    Trong trường hợp này, điều cần lưu ý là xác định mục đích sử dụng đất mà người sử dụng lấn, chiếm là gì để đưa ra xem xét mức xử phạt hành chính tương ứng và yêu cầu họ thực hiện khắc phục hậu quả hay không; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất có mang tính khả thi hay không.

    Đất lấn chiếm, sử dụng trái phép là đất chưa được cấp, không thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình nào và hiện nay đang thuộc quản lý của Ủy ban nhân dân xã, vì vậy đây cũng được xác định là lấn chiếm đất công. Tuy nhiên, do Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 102/2014/NĐ-CP không có quy định về khái niệm đất công và hành vi lấn chiếm đất công mà chỉ quy định về mục đích sử dụng đất, đất thuộc quỹ đất công ích xã, phường, thị trấn và hành vi lấn chiếm đất với mục đích là đất ở, đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp nên trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án, cần xem xét việc cơ quan có thẩm quyền có xác định một cách chính xác về mức xử phạt đúng với mục đích sử dụng đất mà người thực hiện hành vi lấn chiếm và sử dụng trái phép hay không.

    Khoản 15 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Sổ mục kê đất đai là sổ được lập cho từng đơn vị xã, phường, thị trấn để ghi các thửa đất và các thông tin về thửa đất đó ” Sổ mục kê là bộ phận cấu thành hồ sơ địa chính.

    Luật Đất đai năm 2013 lại không quy định về Sổ mục kê đất đai. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có tên trong Sổ mục kê lập trước ngày 15/10/1993 (giấy tờ khác lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 có tên ngườỉ sử dụng đất) thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Như vậy, chỉ hộ gia đình, cá nhân có tên trong Sổ mục kê lập trước ngày 15/10/1993 đang sử dụng đất ổn định mới là đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    Theo quy định tại Điều 20 Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT thì Sổ mục kê đất đai được lập để liệt kê các thửa đất và đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất theo kết quả đo vẽ lập, chỉnh lý bản đồ địa chính, trích đo địa chính thửa đất trong phạm vi đơn vị hành chính cấp xã. Nội dung Sổ mục kê đất đai gồm số thứ tự tờ bản đồ địa chính, mảnh trích đo địa chính; số thứ tự thửa đất, đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất; tên người sử dụng, quản lý đất; mã đối tượng sử dụng, quản lý đất; diện tích; loại đất (bao gồm loại đất theo hiện trạng, loại đất theo giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất, loại đất theo quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt), Sổ mục kê đất đai được lập dưới dạng số, lưu giữ trong cơ sở dữ liệu đất đai, được in cùng với bản đồ địa chính để lưu trữ và được sao để sử dụng đối với nơi chưa có điều kiện khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu đất đai.

    Quá trình nghiên cứu vụ án, Kiểm sát viên cần phải xem xét và đánh giá một cách toàn diện trên cơ sở tài liệu, chứng cứ các bên đương sự xuất trình, Tòa án thu thập được và kết quả tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án để xác định Sổ mục kê có phải là căn cứ xác định quyền sử dụng đất hay không.

    – Cần lưu ý một số vi phạm thường gặp, là căn cứ để đánh giá tính hợp pháp của hành vi hành chính, quyết định hành chính trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cụ thể:

    + Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do đất do nhà nước quản lý, cần căn cứ Điều 36 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định: Hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà trước đây cơ quan nhà nước đã có quyết định quản lý đối với đất đai, tài sản đó trong quá trình thực hiện chính sách quản lý của nhà nước nhưng thực tế nhà nước chưa thực hiện quyết định thì người đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng và được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.

    Như vậy, đất có quyết định quản lý của nhà nước nhưng chưa thực hiện, người dân vẫn quản lý, sử dụng ổn định, phù hợp quy hoạch và không có tranh chấp thì vẫn được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hành vi của Ủy ban nhân dân từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này là không đúng quy định pháp luật.

    + Trường hợp Ủy ban nhân dân từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi người sử dụng đã sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993, phù hợp với quy hoạch và không có tranh chấp.

    Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì hộ gia đình cá nhân sử dụng đất có nhà ở tuy không có giấy phép xây dựng nhưng ở ổn định trước ngày 15/10/1993 và không thuộc trường hợp lấn, chiếm đất và Ủy ban nhân dân xã xác nhận đất không có tranh chấp, phù hợp quy hoạch và chưa có quyết định thu hồi đất thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc Ủy ban nhân dân từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này là không đúng quy định pháp luật.

    – Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính khởi kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai cần chú ý đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Trong thực tế có tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Tòa án nhưng Chủ tịch Ủy ban nhân dân lại thụ lý giải quyết và ban hành quyết định (quyết định giải quyết tranh chấp đất đai, quyết định giải quyết khiếu nại có nội dung giải quyết tranh chấp đất đai) là trái thẩm quyền.

    Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số loại giấy tờ theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai theo hướng mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án (so với quy định tại Điều 50, Điều 136 Luật Đất đai năm 2003).

    Đối với tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 thì đương sự được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây: Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đây là nội dung quy định mới, hết sức quan trọng của Luật Đất đai năm 2013 so với quy định của Luật đất đai trước đây về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Với quy định này, Luật Đất đai năm 2013 đã mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đối với tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 theo các quy định trước đây của pháp luật đất đai chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, thì nay Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết và đương sự có quyền lựa chọn một trong hai chủ thể trên để giải quyết theo quy định của pháp luật.

    – Về xác định căn cứ giải quyết tranh chấp đất đai khi không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất

    Theo quy định tại Điều 91 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 18 của Nghị định này thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện dựa theo các căn cứ sau: a) Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do các bên tranh chấp đất đai đưa ra; b) Thực tế diện tích đất mà các bên tranh chấp đang sử dụng ngoài diện tích đất đang có tranh chấp và bình quân diện tích đất cho một nhân khẩu tại địa phương; c) Sự phù hợp của hiện trạng sử dụng thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; d) Chính sách ưu đãi người có công của Nhà nước; đ) Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất.

    Việc giải quyết tranh chấp đất đai khi không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có giấy tờ khác thì chủ yếu phụ thuộc vào chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng do các bên tranh chấp đưa ra. Do không có giấy tờ về quyền sử dụng đất nên các đương sự phải cung cấp được chứng cứ nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của mình. Do đó, quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành chính cần xem xét một cách cụ thể các tài liệu do đương sự cung cấp, đánh giá chứng cứ cần mang tính khách quan, toàn diện.

    Đối với vụ án hành chính khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai cần chú ý một số vi phạm thường gặp như sau:

    – Vi phạm về nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại lần hai (vượt quá thẩm quyền nội dung theo quy định pháp luật)

    Tại Khoản 2 Điều 40 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định:

    “Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai phải có các nội dung sau:

    … h) Kết luận nội dung khiếu nại là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ. Trường hợp khiếu nại là đúng hoặc đúng một phần thì yêu cầu người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chẩm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại”.

    Như vậy, đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì người có thẩm quyền ban hành quyết định không có thẩm quyền trực tiếp sửa đổi hay hủy bỏ toàn bộ hay một phần quyết định hành chính; chấm dứt hành vi vi phạm hành chính mà chỉ yêu cầu người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính đó. Trong trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại có nội dung về việc trực tiếp sửa đổi, hủy bỏ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính thì Kiểm sát viên cần phân tích và đánh giá về thẩm quyền ban hành quyết định, từ đó đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy quyết định giải quyết khiếu nại lần hai.

    – Đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn ban hành quyết định giải quyết lại

    Điều 11 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định quyết định giải quyết khiếu nại lần hai là quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật thì người khiếu nại không có quyền khiếu nại tiếp theo và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không có thẩm quyền giải quyết đối với loại đơn này. Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp vẫn thụ lý giải quyết là vi phạm thẩm quyền về mặt nội dung vì vậy cần đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp bị khởi kiện vì luật quy định không được thụ lý và giải quyết.

    – Đã hết thời hiệu khiếu nại nhưng vẫn thụ lý, giải quyết

    Điều 9 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định thời hạn khiếu nại là 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hành chính, trừ trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại. Vì vậy, Kiểm sát viên cần xem xét cả về thời hiệu khiếu nại, nếu hết thời hiệu khiếu nại nhưng Ủy ban nhân dân vẫn thụ lý và giải quyết là trái với quy định về mặt thẩm quyền, cần đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy quyết định hành chính.

    – Áp dụng văn bản chưa có hiệu lực để giải quyết

    Thực tế có nhiều vụ án, Chủ tịch Ủy ban nhân dân áp dụng văn bản pháp luật để giải quyết vấn đề xảy ra vào thời điểm văn bản chưa có hiệu lực và văn bản đó không có hiệu lực hồi tố là vi phạm quy định về việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Nếu phát hiện vi phạm này, Kiểm sát viên cần đề nghị Hội đồng xét xử hủy quyết định hành chính.

    Cập nhật thông tin chi tiết về Lời Khai Của Đương Sự, Người Làm Chứng Trong Vụ Án Hành Chính trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!