Xu Hướng 9/2023 # Luận Văn Đề Tài Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Xây Dựng Và Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Nghệ An # Top 11 Xem Nhiều | Bac.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Luận Văn Đề Tài Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Xây Dựng Và Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Nghệ An # Top 11 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Luận Văn Đề Tài Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Xây Dựng Và Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Nghệ An được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trong xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định: “quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Do vậy, Nhà nước ta đã ban hành được rất nhiều các Bộ luật, Luật, Nghị định và các văn bản QPPL trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đáp ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Các văn bản trên đã và đang từng bước đi vào cuộc sống, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng văn bản QPPL, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa cao và chưa được chú trọng. Văn bản QPPL khi được ban hành chậm đi vào cuộc sống, có những văn bản không có hiệu quả, có những văn bản vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Điều này dẫn đến tình trạng tính kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng và ban hành văn bản thực hiện không nghiêm minh. Xuất phát từ yêu cầu đó, trong việc xây dựng và ban hành văn bản QPPL nói chung và của UBND cấp tỉnh nói riêng phải tuân thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và ban hành văn bản QPPL phải tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL phải theo đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành. Do vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và ban hành văn bản QPPL của UBND cấp tỉnh có vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập trật tự, kỷ cương trong xây dựng và ban hành văn bản QPPL. Từ đó, góp phần tạo lập sự ổn định trong xây dựng và ban hành văn bản QPPL của UBND cấp tỉnh, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả văn bản QPPL trong thực tiễn, từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL của UBND cấp tỉnh bảo đảm sự đồng bộ và thống nhất trong hệ thống pháp luật quốc gia. Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tăng cường pháp chế XHCN nói chung, lĩnh vực xây dựng và ban hành văn bản QPPL nói riêng đã được xác định cụ thể trong các cương lĩnh, nghị quyết của Đảng trong các văn kiện Đại hội. Thông qua các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta đã thể chế hóa, cụ thể hóa thành các văn bản QPPL để quản lý, điều hành kinh tế và xã hội.

Luận Văn: Xây Dựng Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật, Hot

, ZALO 0932091562 at BÁO GIÁ DV VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi

Published on

Luận văn thạc sĩ ngành luật: Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, cho các bạn tham khảo

1. 1 BỘ GIÁO DỤC HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ – HÀNH CHÍNH VÀ ĐÀO TẠO QUỐC GIA HỒ CHÍ MÍNH HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH Somnith SY LI BOUN LIENG XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG HÀ NỘI – 2014

2. 2 BỘ GIÁO DỤC HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ- HÀNH CHÍNH VÀ ĐÀO TẠO QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH Somnith SY LI BOUN LIENG XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO Chuyên ngành : Quản lý Hành chính công Mã số : 62 34 82 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. chúng tôi Lưu Kiếm Thanh 2. chúng tôi Vũ Trọng Hách HÀ NỘI – 2014

3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Những nội dung trong luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Luận án Somnith SYLIBOUNLIENG

4. 4 LỜI CẢM ƠN Trước hết, cho phép tôi được bày lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô đã hết lòng dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời gian nghiên cứu sinh tại Học viện Hành chính. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn chúng tôi Lưu Kiếm Thanh – Phó Giám đốc Học viện Hành chính và chúng tôi Vũ Trọng Hách Phó Trưởng khoa QLNN về Xã hội Học viện Hành chính, những người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong suốt quá trình tôi thực hiện Luận án Tiến sỹ này. Bên cạnh đó là sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo và các Anh, Chị làm việc tại Bộ Tư pháp Nước CHDCND Lào đã cung cấp những tài liệu và thông tin cần thiết để hoàn thành tốt Luận án Tiến sỹ này trong thời gian nghiên cứu tại Học viện Hành Chính. Tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó !

5. 5 BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT BHVBQPPL : Ban hành văn bản quy phạm pháp luật CBCC : Cán bộ, công chức CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân CNTT : Công nghệ thông tin DCCH : Dân chủ cộng hòa HCNN : Hành chính nhà nước HĐND : Hội đồng nhân dân NDCM : Nhân dân cách mạng NSNN : Ngân sách nhà nước QLHCNN : Quản lý hành chính nhà nước QLNN : Quản lý nhà nước QH : Quốc hội QPPL : Quy phạm pháp luật UBND : Ủy ban nhân dân UBTV : Ủy ban thường vụ VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật XHCN : Xã hội chủ nghĩa

7. 7 2.2.3. Tạo điều kiện để công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ……….. 55 2.3. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước …………………….. 56 2.3.1.Khái niệm xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước……………………………………………………………… 56 2.3.2. Đặc điểm xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước……………………………………………………………… 58 2.3.3.Các nguyên tắc bảo đảm khi xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước………………………………………. 61 2.3.4. Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước……………………………………………………………… 66 2.4. Kinh nghiệm xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm vận dụng cho Lào…………………………………………………………………………………… 73 2.4.1. Cộng hoà Pháp…………………………………………………………………….. 73 2.4.2. Cộng hoà Liên bang Đức ………………………………………………………. 74 2.4.3. Kinh nghiệm của Việt Nam……………………………………………………. 75 2.4.4. Bài học cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào……………………………. 77 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2……………………………………………………………………… 82 Chương 3. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TẠI CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO …………………………………………… 83 3.1. Thực trạng về thể chế pháp lý cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ……………………………………………………………………………………………………… 83 3.2. Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước………………………………………………………………………………… 86 3.2.1. Thực trạng các tổ chức làm công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ……………………….. 86 3.2.2. Thực trạng về năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật …………………………………. 99 3.2.3. Thực trạng về quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật……………………………………………………………………………………. 105 3.2.4. Thực trạng về cơ chế phối hợp, chế độ tài chính và cơ sở vật chất, điều kiện hỗ trợ phục vụ công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật……………………………………………………………………………………. 110 3.3. Một số khó khăn, hạn chế, vướng mắc trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước tại Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào………………………………………………………. 116

8. 8 3.3.1. Những khó khăn, hạn chế và vướng mắc ……………………………….. 116 3.3.2. Nguyên nhân……………………………………………………………………… 123 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3……………………………………………………………………. 125 Chương 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TẠI CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO……………………….. 127 4.1. Chủ trương của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước …………………………………………………………… 127 4.1.1. Chủ trương của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ………………………………………………………………………………………………… 127 4.1.2. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế hành chính ………………………………………………………………………………………………… 134 4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào …………………………………….. 136 4.2.1. Giải pháp về hoàn thiện thể chế về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật …………………………………………………………………….. 136 4.2.2. Giải pháp về kiện toàn tổ chức tham gia xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong cơ quan hành chính nhà nước……………… 140 4.2.3. Giải pháp về tăng cường năng lực đội ngũ công chức làm công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại các cơ quan hành chính nhà nước ………………………………………………………………………………………………… 143 4.2.4. Giải pháp về hoàn thiện kỹ thuật xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước………………………. 148 4.2.5. Giải pháp nhằm huy động sự tham gia của chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và nhân dân vào quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật …………………………………………………………………………… 159 4.2.6. Hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế quản lý, chế độ tài chính và cơ sở vật chất, điều kiện hỗ trợ phục vụ công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật …………………………………………………………. 168 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4……………………………………………………………………. 172 KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………. 173 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN …………………………………………………………………….. 176 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………………… 178

10. 10 được đề ra là một trong những quan điểm cơ bản để xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tăng cường hiệu lực, hiệu quả. Đó là: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật” [68]. Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2003 cũng quy định tại Điều 10: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” [20]. Mặc dù vậy, cho đến nay thực tế quản lý xã hội bằng pháp luật và việc điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này đòi hỏi Nhà nước Lào phải xây dựng và hoàn thiện được hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học, hoàn chỉnh. Mặt khác, phải đảm bảo hệ thống pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh từ trung ương xuống cơ sở, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trên tinh thần tôn trọng tuyệt đối pháp luật. Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một công việc quan trọng của các cơ quan hành chính nhà nước tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Cùng với công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước thì việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung và của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, đã từng bước nâng cao được năng lực xây dựng và ban hành văn bản quản lý nhà nước. Bước đầu hình thành hệ thống văn bản quản lý đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn nhiều yếu kém, hạn chế cần khắc phục, đặc biệt là về phương thức, quy trình chuẩn ban hành, hình thức văn bản, thẩm quyền ban hành, các hình thức chế tài, kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật. Chính những mặt hạn chế, yếu kém này đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Từ thực tế này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung và quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng.

11. 11 Tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, trong thời gian trước văn bản quy phạm pháp luật và quy trình xây dựng cũng như ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa được chú trọng nghiên cứu nên cũng có rất ít tài liệu, công trình nghiên cứu chính thức về vấn đề này. Chỉ có một số ít các văn bản hướng dẫn của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền đề cập tới một phần hoặc đề cập một cách chung chung nên chưa thể hiện được vấn đề chung về lý luận cũng như thực tiễn cần thiết cho hoạt động này của các cơ quan hành chính nhà nước. Cho tới khi, Luật Xây dựngvăn bản quy phạm pháp luật được ban hành năm 2012 thì vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới được hoàn thiện một bước và có tính hệ thống hơn. Tuy vậy, việc ra đời Luật xây dựngvăn bản quy phạm pháp luật không có nghĩa là hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và cơ quan nhà nước nói chung đã hoàn thiện. Mà đây chỉ là những cơ sở ban đầu để dần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và những vấn đề xung quanh loại văn bản này. Điều này có thể lý giải tại sao trên thực tế hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập như khái niệm, phân loại, thẩm quyền ban hành, trình tự ban hành các văn bản còn chưa thống nhất. Và đó là một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng các cơ quan hành chính nhà nước vẫn ban hành văn bản sai thể thức, sai thẩm quyền, thậm chí còn sai nội dung, thiếu tính khả thi gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước. Do đó, việc nghiên cứu một cách cơ bản có hệ thống về hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là một yêu cầu cấp bách và lâu dài đặt ra hiện nay cho nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, thì vấn đề “Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào” là rất quan trọng và cần thiết phải tiến hành nghiên cứu.

12. 12 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: – Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, qua đó làm rõ những kết quả, những hạn chế và nguyên nhân trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Lào để đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính các cơ quan này. – Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án có những nhiệm vụ cơ bản sau: + Nghiên cứu và vận dụng những thành quả đã có về phương diện lý luận để hình thành cơ sở lý luận về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; + Tổng kết thực tiễn hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá làm cơ sở cho việc đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan này; + Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: – Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu: + Cơ sở lý luận về hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; + Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước;

14. 14 Trong chương II, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp diễn dịch và quy nạp để nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò, yêu cầu và các yếu tố bảo đảm cho hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp được áp dụng khi tìm hiểu hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm vận dụng cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Trong chương III, tác giả coi trọng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích khái quát các tư liệu, số liệu để đánh giá thực trạng hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, rút ra những kết quả hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động này. Trong chương IV, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, tổng hợp để đề xuất luận chứng các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay. 5. Đóng góp khoa học của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án có những điểm mới sau đây: – Luận án xây dựng được cơ sở lý luận đối với hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, bao gồm: đặc điểm, nội dung, vai trò, các yếu tố bảo đảm đối với hoạt động này. – Luận án khái quát hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm có thể vận dụng cho Lào. – Luận án phân tích, đánh giá được thực trạng hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Lào từ kết quả, hạn chế và nguyên nhân trong giai đoạn từ 2006 đến 2012.

16. 16 Chương 4: Định hướng và giải pháp về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay

21. 21 Đề tài nghiên cứu về “Quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật” thuộc dự án VIE/94/003 năm 1998, do Bộ Tư pháp thực hiện. Trong báo cáo tổng kết đề tài đã trình bày những vấn đề cơ bản của quy trình soạn thảoVBQPPL như xác lập sáng kiến văn bản trước khi soạn thảo; các nguyên tắc chỉ đạo trong việc soạn thảo VBQPPL; công tác lập chương trình sáng kiến, soạn thảo, thẩm định dự thảo văn bản; ý kiến tham gia đóng góp cho dự thảo. Nhìn chung, rất nhiều nội dung, kiến nghị được đưa ra trong đề tài này có ý nghĩa lý luận quan trọng, là nguồn tài liệu tham khảo quý giá trong quá trình nghiên cứu về vấn đề xây dựng và ban hành VBQPPL. Tác giả Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên) trong cuốn”Quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật”, sản phẩm thuộc dự án VIE 94/003, Hà Nội năm 1998. Nội dung của cuốn sách đã đề cập trực tiếp vào vấn đề quy trình soạn thảo VBQPPL, với việc đề cập trực tiếp vào một nội dung cụ thể đề tài này đã thành công khi đưa ra được một quy trình tương đối đầy đủ và mang tính quy phạm trong hoạt động ban hành VBQPPL. Điều này giúp tác giả luận án có thể tham khảo trong việc nghiên cứu đề xuất xây dựng được một quy trình soạn thảo văn bản chính thống. Cuốn “Soạn thảo và xử lý văn bản quản lý nhà nước” của tác giả Nguyễn Văn Thâm, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001. Cuốn sách trình bày một cách tổng quát những vấn đề về lịch sử văn bản hành chính nhà nước ở Việt Nam; tập trung làm rõ các loại văn bản hình thành trong hoạt động quản lý nhà nước dưới các góc độ: khái niệm chung về văn bản và văn bản quản lý nhà nước, văn bản và phân loại văn bản quản lý nhà nước, chức năng văn bản quản lý nhà nước; vai trò của văn bản và hệ thống văn bản trong công tác cán bộ lãnh đạo và quản lý; một số vấn đề về kỹ thuật soạn thảo văn bản quản lý nhà nước (vai trò của việc soạn thảo, tình hình soạn thảo, yêu cầu cơ bản của việc soạn thảo, quy trình chung của việc soạn thảo, thu thập và xử lý thông tin trong quá trình soạn thảo, thể thức văn bản, kỹ thuật biên tập văn bản quản lý nhà nước); ngôn ngữ và văn phong của văn bản quản lý nhà nước; soạn thảo một số văn bản thông dụng trong các cơ quan quản lý nhà nước; tổ chức khoa học các hệ

22. 22 thống văn bản trong các cơ quan; đánh giá và sử dụng các văn bản hình thành trong hoạt động của các cơ quan; cơ giới hóa và tự động hóa việc soạn thảo vừ xử lý văn bản. Ngoài ra cuốn sách còn giới thiệu tham khảo mẫu một số văn bản. Đây là một cuốn sách đề cập khá phong phú, toàn diện, có ý nghĩa cả về lý luận cũng như vận dụng cho hoạt động xây dựng, đánh giá văn bản trong hoạt động quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong cuốn sách tác giả chỉ mới đề cập tới những vấn đề chung nhất về văn bản quy phạm pháp luật, một loại văn bản quản lý nhà nước, chứ chưa đề cập nhiều đến cơ sở lý luận cũng như quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Cuốn sách “Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật” của tác giả Lưu Kiếm Thanh năm 2003, do Nhà xuất bản Thống kê phát hành và được Nhà xuất bản Lao động tái bản, có sửa chữa và bổ sung năm 2005. Có thể nói, đây là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ, và là tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác nghiên cứu thực hiện đề tài xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Lào. Cùng tác giả Lưu Kiếm Thanh, cuốn sách “Hướng dẫn soạn thảo văn bản lập quy” được nhà xuất bản Thống kê xuất bản lần đầu vào năm 1998 và tái bản vào năm 2003. Trong nội dung cuốn sách này, tác giả đã đề cập một cách chi tiết về kỹ thuật lập quy như trình tự lập quy, ngôn ngữ văn bản lập quy và hướng dẫn soạn thảo một số các văn bản lập quy điển hình. Đây là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cao giúp tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình, tham khảo kinh nghiệm về kỹ thuật lập quy của Việt Nam để áp dụng xây dựng kỹ thuật lập quy tại Lào. Cuốn sách “Quy trình xây dựng, ban hành và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ” của tác giả Dương Bạch Long, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2007. Nội dung cuốn sách ngoài việc đề cập đến các nội dung như: những quy định chung về văn bản quy phạm pháp luật, chủ thể có thẩm quyền ban hành và hình thức văn bản quy phạm pháp luật, còn đưa ra quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cụ thể của từng cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương. Ngoài ra cuốn sách còn

23. 23 đề cập đến hiệu lực văn bản, hoạt động giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Sách chuyên khảo “Phương pháp soạn thảo văn bản hành chính” của tác giả chúng tôi Nguyễn Minh Phương do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật xuất bản năm 2011, đã đề cập đến các nội dung: những vấn đề chung, những nguyên tắc cơ bản, từ ngữ và văn phong, thể thức và kỹ thuật trình bày, quy trình, mẫu hóa và tiêu chuẩn hóa trong soạn thảo văn bản hành chính. Nội dung cuốn sách còn đề cập đến những vấn đề cụ thể như: cách viết biên bản, bản ghi nhớ, bản cam kết, nghị quyết (cá biệt), soạn thảo quyết định cá biệt, kế hoạch, báo cáo, quy định, quy chế, dự án đầu tư, đề án, hợp đồng. Tuy không đề cập cụ thể đến văn bản quy phạm pháp luật, nhưng cuốn sách là tài liệu tham khảo tốt cho tác giả; từ phương pháp soạn thảo văn bản hành chính có thể vận dụng trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Các giáo trình “Kỹ thuật xây dựng và ban hành văn bản” của Học viện Hành chính do TS. Lưu Kiếm Thanh chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật xuất bản năm 2009 cho chương trình cử nhân hành chính; “Soạn thảo văn bản” của Khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà nội, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản 2007, do GS.TS.Nguyễn Đăng Dung chủ biên cho chương trình đào tạo cử nhân luật, cũng đã đề cập đến khái niệm, chức năng, vai trò, quy trình soạn thảo văn bản hành chính, văn bản quy phạm pháp luật. Đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Quản lý hành chính công “Hoàn thiện quy trình ban hành và thực hiện văn bản của chính quyền địa phương cấp tỉnh” tại Học viện Hành chính năm 2008 của tác giả Hà Quang Thanh. Nội dung đề tài này đã đề cập tới cơ sở pháp lý và lý luận của việc ban hành và thực hiện văn bản của chính quyền địa phương cấp tỉnh với các nội dung cụ thể như việc xác định địa vị pháp lý của chính quyền địa phương cấp tỉnh, việc ban hành và thực hiện tại địa phương cấp tỉnh, đặc điểm pháp lý của việc ban hành văn bản này cũng như quy trình ban hành và thực hiện văn bản quy phạm của chính quyền địa phương cấp tỉnh; Đồng thời trên cơ sở khảo sát thực trạng tình hình

25. 25 được thực hiện tại Viện nghiên cứu Lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam năm 2010 đã nêu lên: cơ sở lý luận về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh với việc xác định sự cần thiết, cơ sở của việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cũng như kinh nghiệm của một số quốc gia về lập chương trình; phân tích thực trạng hoạt động lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trên cơ sở các tiêu chí đánh giá về việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; đồng thời kiến nghị một hệ thống các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lập, thẩm tra, quyết định, điều chỉnh chương trình xây dựng luật và pháp lệnh. Nội dung của đề tài này dù không trực tiếp giải quyết vấn đề xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước nhưng đây được coi là nguồn tư liệu quan trọng để tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình có thể kế thừa, xây dựng nội dung các đề nghị, đề xuất việc chuẩn hóa chương trình xây dựng và ban hành hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước tại Lào. Tuy đề tài này chỉ đề cập tới việc ban hành và thực hiện văn bản tại một cấp chính quyền của hệ thống cơ quan hành chính ở địa phương nhưng nó cũng đóng góp một phần lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình nghiên cứu về vấn đề xây dựng và ban hànhcủa các cơ quan hành chính nhà nước, nhất là trong điều kiện việc ban hành tại các cấp chính quyền địa phương tại Lào còn nhiều hạn chế, như chồng chéo, mâu thuẫn, vi phạm các quy định của pháp luật về ban hành hành văn bản quy phạm pháp luật. Kỷ yếu các hội thảo và toạ đàm khoa học của Dự án “Tăng cường năng lực thể chế cho Văn phòng Chính phủ” – NXB Tư pháp, Hà Nội, năm 2001. Khẳng định sự cần thiết phải tiến hành nghiên cứu hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Chính phủ, các báo cáo đã định hướng hoàn thiện các chức năng, nhiệm vụ đó, đặc biệt là đối với chức năng tham mưu vĩ mô trong hoạt động tư vấn chính sách, xử lý các công việc có tính chất liên ngành, góp phần hoàn thiện công tác lập pháp, lập quy.

29. 29 Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ, chuyên sâu dưới góc độ lý luận hành chính nhà nước về ” xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước”, nhất là nghiên cứu hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân Lào. Việc nghiên cứu có hệ thống đầy đủ sẽ có hiệu quả thiết thực nếu được nhận thức đúng đắn; có một quy trình chuẩn và cơ sở pháp lý vững chắc, quy định một cách chi tiết về thẩm quyền, phạm vi điều chỉnh, hình thức, trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài luận án cần phải được tiếp tục nghiên cứu những vấn đề cụ thể sau đây. 1.2.1. Về mặt lý luận, các vấn đề cần được giải quyết – Phân biệt rõ văn bản quy phạm pháp luật và các loại văn bản hành chính khác do cơ quan hành chính nhà nước ban hành. Từ đó xác định chủ thể có thẩm quyền hành, phạm vi điều chỉnh, nội dung, hình thức, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. Làm rõ sự cần thiết phải ban hành và những yêu cầu đối với hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước. – Nghiên cứu những kinh nghiệm trong thực tiễn hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng ở Việt Nam và một số quốc gia khác để rút ra bài học kinh nghiệm có thể vận dụng cho Lào. 1.2.2. Về mặt thực tiễn Ở Cộng hòa dân chủ nhân Lào vấn đề xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước một thời gian dài ít được quan tâm nghiên cứu, tổng kết và đúc rút kinh nghiệm một cách đầy đủ; pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng chậm được hoàn thiện. Vì thế, cần nghiên cứu, khảo sát thực tiễn hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Lào để tìm ra những hạn chế và xác định nguyên nhân của những hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm.

30. 30 Từ đó luận án đề xuất những phương hướng và giải pháp có tính khoa học và khả thi để nâng cao chất lượng, đáp ứng các yêu cầu đối với hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước ở Lào, trong bối cảnh Lào đang tiến hành hoàn thiện bộ máy nhà nước, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền. Điều này khẳng định sự cần thiết, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài luận án.

31. 31 Chương 2 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 2.1.Khái niệm, đặc điểm, thẩm quyền, phạm vi, nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước 2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước ban hành 2.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và chức năng chung của văn bản quy phạm pháp luật a. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật Thuật ngữ ” văn bản” hiện nay được hiểu và diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Ở góc độ ngôn ngữ học, có quan niệm cho rằng: “Văn bản là giấy ghi nội dung sự kiện” [54- tr.823]. Nhìn nhận từ khía cạnh khai thác yếu tố chức năng, mục đích, văn bản được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng: văn bản được hiểu là một phương tiện để ghi nhận và truyền đạt các thông tin, quyết định từ chủ thể này sang chủ thể khác [55-tr.77]. Ví dụ, các văn bản pháp luật, các công văn, tài liệu, giấy tờ. Theo cách hiểu này, bia đá, hoành phi, câu đối ở đền, chùa; chúc thư, văn khế, thư tịch cổ; tác phẩm văn học, khoa học kỹ thuật; công văn, giấy tờ, khẩu hiệu, băng ghi âm, bản vẽ… đều được gọi là văn bản. Khái niệm này được sử dụng phổ biến trong giới nghiên cứu về văn bản học, ngôn ngữ học, sử học ở Việt Nam từ trước tới nay. Theo nghĩa hẹp, văn bản được hiểu là các tài liệu, giấy tờ, hồ sơ được hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan hành nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế. Theo nghĩa này, các loại giấy tờ để quản lý và điều hành các hoạt động của các cơ quan, tổ chức như chỉ thị, thông tư, nghị quyết, quyết định, đề án công tác, báo cáo… đều được gọi là văn bản. Ngày nay,

32. 32 khái niệm văn bản được dùng một cách rộng rãi trong hoạt động của cơ quan, tổ chức. Như vậy, có thể định nghĩa văn bản là phương tiện để ghi nhận những thông tin, truyền đạt các thông tin từ chủ thể này đến chủ thể khác bằng một ký hiệu hoặc bằng ngôn ngữ nhất định nào đó. Văn bản quy phạm pháp luật là một bộ phận của văn bản nói chung. Tuy nhiên, loại văn bản này phải được chủ thể có thẩm quyền (chủ thể có thẩm quyền chỉ có thể là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước) ban hành theo một hình thức, trình tự, thủ tục luật định. Ở Việt Nam tồn tại các khái niệm văn bản luật, văn bản dưới luật, văn bản quy phạm pháp luật. Thuật ngữ ” văn bản luật” được cuốn Từ điển Bách khoa xuất bản năm 1999 định nghĩa như sau: ” Văn bản luật là tên gọi chung các văn bản mà nội dung là quy phạm pháp luật được Quốc hội biểu quyết theo trình tự do pháp luật quy định, gồm Hiến pháp, các đạo luật, các bộ luật và nghị quyết của Quốc hội. Ở Việt Nam Pháp lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết những vấn đề được Quốc hội giao (khoản 4, Điều 91 Hiến pháp năm 1992), có giá trị như luật nên có thể xếp vào văn bản luật” [73 – tr.564]. Như vậy, theo cách định nghĩa trên văn bản luật được hiểu là văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật nhưng phải do các chủ thể có thẩm quyền là Quốc hội ban hành. Hình thức của các văn bản luật chỉ bao gồm các văn bản Hiến pháp, luật (đạo luật hoặc bộ luật). Thuật ngữ văn bản dưới luật được hiểu: “Tên gọi chung các văn bản mà nội dung là quy phạm pháp luật do các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, cơ quan quyền lực nhà nước, quản lý nhà nước ở địa phương ban hành cụ thể hóa một số vấn đề được luật, nghị quyết của Quốc hội, được pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao, hay để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình được quy định trong Hiến pháp, luật tổ chức. Văn bản dưới luật không được trái với Hiến pháp, với luật” [73 -tr.563]. Như vậy, từ định nghĩa trên có thể hiểu, văn bản dưới luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật do các chủ thể chủ yếu có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung

33. 33 ương hoặc địa phương, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ban hành để cụ thể hóa các vấn đề được quy định trong các văn bản luật do Quốc hội ban hành và văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành hoặc để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam được đề cập trong các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002), 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đưa ra khái niệm về văn bản quy phạm pháp luật như sau: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”.[31]. Luật Xây dựng pháp luật năm 2012 của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cũng đưa ra định nghĩa về văn bản quy phạm pháp luật như sau: ” Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản được xây dựng, thông qua và công bố bởi cơ quan quyền lực nhà nước cấp trung ương và địa phương. Văn bản quy phạm pháp luật có hai loại: 1. Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực điều chỉnh chung là văn bản được ban hành để quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội, được thi hành trong phạm vi toàn quốc hoặc một lĩnh vực nào đó, không điều chỉnh riêng cho một tổ chức, hoặc một cá nhân nào; 2. Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực điều chỉnh cá biệt là văn bản được ban hành để phục vụ cho việc quản lý hành chính nhằm điều chỉnh đối với một tổ chức hoặc cá nhân nào đó như: pháp lệnh công bố luật, nghị định, quyết định khen thưởng hoặc bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm cho một cá nhân nào đó, thông báo…” [24].

34. 34 Từ hai khái niệm lập pháp về văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, Luật Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nêu trên, có thể rút ra định nghĩa chung về văn bản quy phạm pháp luật: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do chủ thể có thẩm quyền trong hệ thống cơ quan nhà nước Trung ương hoặc địa phương ban hành (hoặc phối hợp ban hành) theo một hình thức, trình tự, thủ tục luật định, có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì văn bản luật, văn bản dưới luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương hoặc ở địa phương ban hành đều được xem là văn bản quy phạm pháp luật. b. Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau: – Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ban hành Văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam chỉ có các chủ thể sau được quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Tổng kiểm toán nhà nước; hội đồng nhân dân các cấp; ủy ban nhân dân các cấp [30, 31]. Theo quy định của pháp luật xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, các chủ thể sau đây có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan trực thuộc Chính phủ; tỉnh trưởng, thị trưởng; huyện trưởng, trưởng thị xã; thôn [24].

35. 35 Như vậy, về cơ bản chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam và Lào là tương đồng với nhau. Tuy nhiên, do có điểm khác biệt trong tổ chức chính quyền địa phương nên có những quy định các chủ thể khác nhau về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. – Văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật – các quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung Đây là dấu hiệu cơ bản đầu tiên và quan trọng nhất để xác định một văn bản là văn bản quy phạm pháp luật. Vì việc dự kiến ban hành một văn bản có chứa đựng ”quy phạm pháp luật” là yếu tố đầu tiên được xác định trong toàn bộ quá trình ban hành văn bản. Chính yếu tố này đặt ra yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải theo hình thức, trình tự, thủ tục của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nói cách khác, nếu không có quy phạm pháp luật thì việc soạn thảo và ban hành văn bản cũng không phải tuân theo trình tự, thủ tục soạn thảo của văn bản quy phạm pháp luật và cũng không đòi hỏi phải được ban hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền được pháp luật quy định, thậm chí đó là thẩm quyền hiến định. Cần phải nói thêm rằng, việc chứa quy phạm pháp luật là đặc trưng của văn bản quy phạm pháp luật, ngay cả khi văn bản đó chỉ chứa duy nhất một quy phạm pháp luật. – Văn bản quy phạm được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống đối với những trường hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra Đây là đặc điểm chỉ có ở văn bản quy phạm pháp luật, vì bản thân các quy phạm pháp luật hàm chứa trong văn bản được thực hiện thường xuyên, lâu dài và các quy phạm pháp luật này có tính phổ biến, có tầm bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tính phổ biến của các quy phạm pháp luật hình thành trên ý chí của Nhà nước nên nó mang tính quyền lực nhà nước. Vì vậy, thực hiện pháp luật là bắt buộc đối với các chủ thể (đối tượng) được pháp luật quy định. – Sự thực hiện văn bản quy phạm pháp luật không làm chấm dứt hiệu quả của nó

36. 36 Đặc điểm này thể hiện tính bền vững của hiệu lực pháp lý bắt buộc chung của văn bản quy phạm pháp luật. Đây cũng là đặc điểm để phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật ( văn bản cá biệt, cụ thể). – Hình thức (tên gọi), nội dung, trình tự, thủ tục xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật được pháp luật quy định và chặt chẽ Đặc điểm này thể hiện tính xác định chặt chẽ về nội dung, hình thức của văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi phù hợp với nội dung của nó, có nội dung thể hiện qua các quy phạm, quy định cụ thể rõ ràng, có kết cấu chặt chẽ, hợp lý, có ngôn ngữ, văn phong chuẩn mực, rõ ràng và dễ hiểu. – Văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện Đặc điểm này thể hiện ở chỗ, văn bản quy phạm pháp luật vừa có chứa các quy phạm, các quy tắc xử sự chung được Nhà nước ban hành và thừa nhận. Điều này cũng có nghĩa, văn bản quy phạm pháp luật có tính quyền lực nhà nước, bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và công dân. Để văn bản quy phạm pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh, Nhà nước sử dụng các biện pháp tư tưởng, tổ chức, tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, cưỡng chế nhằm bảo đảm cho các văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống. Nhà nước đề ra các biện pháp tổ chức, thuyết phục, bắt buộc các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và công dân tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật. Nhà nước thực hiện quyền áp dụng pháp luật, áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật đối với các hành vi vi phạm pháp luật khi có tranh chấp dân sự và trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định cho các cơ quan nhà nước phải áp dụng. Nhà nước bảo đảm tính hợp quy luật, tính hợp lý của các quy phạm hàm chứa trong văn bản, nhờ đó văn bản quy phạm pháp luật có khả năng thực thi. – Văn bản quy phạm pháp luật có tính hệ thống Đặc điểm này thể hiện ở chỗ, các văn bản quy phạm pháp luật hình thành và liên kết với nhau thành hệ thống. Chính tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các quy phạm pháp luật tạo thành tính thống nhất, tính hệ thống của các văn bản quy phạm pháp luật. Trong hệ thống pháp luật, Hiến pháp là luật cơ bản

37. 37 của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật. Văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành. Các đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật quyết định và chi phối vai trò, chức năng của văn bản quy phạm pháp luật, phân biệt sự khác nhau căn bản giữa các văn bản quy phạm pháp luật với hệ thống các văn bản khác. [63 -tr.233 – 238] Như vậy, khi đánh giá một văn bản có phải là văn bản quy phạm pháp luật hay không cũng như xem xét một văn bản có chứa ”quy phạm pháp luật” hay không cần đặc biệt chú ý đến các dấu hiệu đặc trưng của quy phạm pháp luật, gồm: tính áp dụng chung (quy tắc ràng buộc chung và được tôn trọng chung), tính phi cá nhân (không nhằm vào một đối tượng, một con người nào cụ thể hay một nhóm đối tượng cụ thể), tính bắt buộc – tính cưỡng chế nhà nước (đối tượng bắt buộc phải thực hiện, không thể thoái thác) và phải được cơ quan có thẩm quyền ban hành (chủ thể được pháp luật trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Bên cạnh đó, nhằm hạn chế tình trạng nhiều trường hợp mặc dù không phải là văn bản quy phạm pháp luật và cũng không được ban hành theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhưng lại chứa đựng những quy tắc xử sự chung, bắt buộc mọi người phải thực hiện (như công văn, công điện… do một số cơ quan ban hành) và trường hợp mặc dù luật, pháp lệnh quy định giao cho một cơ quan cụ thể ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, nhưng cơ quan đó lại ủy quyền cho cơ quan cấp dưới ban hành văn bản. Luật quy định văn bản ban hành không theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định thì không được coi là văn bản quy phạm pháp luật. c. Chức năng của văn bản quy phạm pháp luật

38. 38 Văn bản quy phạm pháp luật có nhiều chức năng, như: hình thức thể hiện của pháp luật; chức năng thông tin; chức năng quản lý và một số chức năng khác. – Hình thức thể hiện của pháp luật Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật trên thế giới ghi nhận có ba hình thức cơ bản là nguồn của pháp luật: tập quán pháp; án lệ ( tiền lệ pháp) và văn bản quy phạm pháp luật. Trong ba hình thức đó, hình thức pháp luật được thể hiện ( ghi nhận) thông qua hình thức văn bản là phổ biến nhất từ xưa cho đến ngày nay. Ở Lào và Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác chỉ thừa nhận hình thức văn bản quy phạm pháp luật là nguồn duy nhất của pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật, làm cho các chủ thể thực hiện pháp luật dễ nhớ, dễ tra cứu, thuận tiện cho việc lưu trữ. Đồng thời, nó cũng giúp để dễ phân biệt giữa văn bản quy phạm pháp luật với các loại văn bản khác. Mặt khác, hình thức thể hiện của pháp luật ( văn bản) giúp phân biệt rõ thẩm quyền của các chủ thể trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ, chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền ban hành Hiến pháp, Luật ( tên gọi – hình thức văn bản); tương tự, chỉ có Chính phủ mới có thẩm quyền ban hành Nghị định… – Chức năng thông tin Như các loại văn bản khác, văn bản quy phạm pháp luật có chức năng thông tin. Chức năng thông tin của nó thể hiện ở chỗ: nó chứa (ghi nhận), lưu trữ, truyền và tạo các nguồn thông tin hàm chứa các quy phạm pháp luật. Nhờ có chức năng này, các thông tin có tính chất quy phạm được ghi nhận và phản ánh qua các quy định, các điều, khoản, mục của các văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, qua việc tuyên truyền, phổ biến và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, thông tin có tính chất quy phạm pháp luật được truyền đến các đối tượng thuộc phạm vi tác động của văn bản để họ thực hiện và trong quá trình thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật đã tạo ra thông tin quy phạm mới làm cơ sở để tạo nguồn ( sáng kiến lập pháp, lập quy) để xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới. Thực chất, chức năng thông tin của văn bản quy phạm

39. 39 pháp luật là chức năng truyền các thông tin có tính chất quy phạm hàm chứa trong văn bản đến các đối tượng thuộc phạm vi tác động, đưa các thông tin có tính chất quy phạm trong văn bản đi vào cuộc sống, lưu hành trong cuộc sống. – Chức năng quản lý Chức năng quản lý của văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở chỗ nó là phương tiện để ghi nhận ý chí của Nhà nước, ý chí của chủ thể có thẩm quyền quản lý để giúp chủ thể quản lý thể hiện quyền uy trong thực hiện chức năng quản lý. Trong văn bản quy phạm pháp luật nó chứa đựng các quy phạm pháp luật cụ thể làm cơ sở pháp lý cho cơ quan hành chính nhà nước quản lý xã hội, quản lý ngay cả những đơn vị, bộ phận…, công chức trong bộ máy cơ quan hành chính nhà nước. Trong các yếu tố tác động đến quá trình quản lý hành chính nhà nước, yếu tố quyền uy là yếu tố quan trọng nhất, không có quyền uy, quyền lực, Nhà nước khó có thể quản lý các quá trình xã hội và điều hành công việc của Nhà nước. Những yếu tố quyền uy, quyền lực nhà nước chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy định này được hàm chứa trong văn bản quy phạm pháp luật. Quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, khoa học, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, môi trường… đều cần đến văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận cơ sở pháp lý để tổ chức triển khai thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý cũng như kiểm soát, đánh giá đối với hoạt động quản lý . Chức năng quản lý của văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ở chỗ nó vừa là công cụ, là phương tiện để quản lý, đồng thời, là sản phẩm, là kết quả của quá trình quản lý. Chức năng quản lý và chức năng thông tin của văn bản quy phạm pháp luật gắn kết chặt chẽ với nhau. Thông tin văn bản vừa là cơ sở, vừa là phương tiện, vừa là sản phẩm của quá trình quản lý. Ngoài các chức năng trên, văn bản quy phạm pháp luật cũng như các loại hình văn bản khác còn có chức năng văn hóa, chức năng xã hội và các chức năng khác. 2.1.1.2. .Khái niệm, đặc điểm và vai trò văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước a. Khái niệm

40. 40 Văn bản quy phạm pháp luật của của cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của văn bản quy phạm pháp luật nói chung do các chủ thể có thẩm quyền (có thể là tập thể cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước) ban hành theo những quy định của pháp luật. Chỉ có điểm khác, là chủ thể ban hành phải là tập thể cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền ( thông thường là người đứng đầu) trong cơ quan hành chính nhà nước. Từ định nghĩa chung về văn bản quy phạm pháp luật có thể định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước như sau: Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là văn bản do các chủ thể có thẩm quyền trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (tập thể cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước) ban hành (hoặc phối hợp ban hành) theo một hình thức, trình tự, thủ tục luật định, có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung (trong phạm vi lãnh thổ quản lý) được nhà nước bảo đảm thực hiện để cụ thể hóa, hướng dẫn thực hiện pháp luật, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tổ chức nội bộ cơ quan hành chính nhà nước hoặc điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước (được lập pháp ủy quyền). b. Đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của văn bản quy phạm pháp luật nói chung, nên nó mang đầy đủ những đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, vì do chủ thể là cơ quan hành chính nhà nước ban hành nên nó có một số đặc điểm sau: – Chứa đựng quy phạm pháp luật Đây là dấu hiệu cơ bản đầu tiên và quan trọng nhất để xác định văn bản quy phạm pháp luật. Bởi vì, việc dự kiến ban hành một văn bản có chứa đựng “quy phạm pháp luật” là yếu tố đầu tiên được xác định trong toàn bộ quá trình ban hành văn bản. Chính yếu tố này đặt ra yêu cầu cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản phải theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nói cách khác, nếu không có quy phạm pháp luật thì việc soạn thảo và ban hành văn bản cũng

41. 41 không phải tuân theo hình thức, trình tự, thủ tục soạn thảo của văn bản quy phạm pháp luật và cũng không được đòi hỏi phải được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định. Việc chứa quy phạm pháp luật là đặc trưng quan trọng nhất của văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước ban hành. – Mang tính dưới luật Theo thẩm quyền của chủ thể ban hành, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành; theo phạm vi điều chỉnh và hiệu lực của văn bản thì văn bản quy phạm pháp luật được chia thành hai loại: văn bản luật và văn bản dưới luật. Văn bản luật phải do cơ quan lập pháp – Quốc hội ban hành, như: Hiến pháp, luật, nghị quyết (có chứa đựng quy phạm pháp luật); văn bản dưới luật là văn bản do các cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền ban hành (các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp). Văn bản dưới luật do cơ quan hành chính nhà nước ban hành còn được gọi là văn bản lập quy, chủ yếu đề cập những vấn đề chi tiết thi hành luật (văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên). Ví dụ, văn bản lập quy do hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam ban hành chủ yếu là để chi tiết hoá, hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước [50 -tr.47]. Vì vậy, một yêu cầu quan trọng trong yếu tố hợp pháp của việc ban hành văn bản quuy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước là văn bản này không được trái với những quy định của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước cấp trên ban hành, nếu trái nó sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là văn bản đó bị đình chỉ hoặc cao hơn là bị bãi bỏ. Văn bản lập quy (chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước ban hành) khác văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước cấp trên ban hành về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành, khác về hiệu lực pháp lý, khác về những vấn đề mà nó điều chỉnh – chủ yếu là chi tiết hóa, hướng dẫn việc thi hành văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên (chủ yếu là văn bản luật do cơ quan lập pháp ban hành), hoặc điều

Việc Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Hội Đồng Nhân Dân Và Ủy Ban Nhân Dân

Trang chủNghiên cứu – Trao đổi

Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 

Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) là hai cơ quan hợp thành chính quyền địa phương được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính các cấp (tỉnh, huyện, xã). Là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương có nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương theo quy định của pháp luật. Như vậy, chính quyền địa phương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Do đó, hoạt động lập quy (ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể việc thi hành pháp luật theo phân cấp) là một trong những chức năng của HĐND và UBND các cấp. Qua thực tiễn công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của HĐND và UBND trong thời gian qua vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần trao đổi nhằm triển khai thi hành Luật ban hành văn bản QPPL năm 2023 đạt hiệu quả.

1. Việc xác định quyền hạn của HĐND trong ban hành nghị quyết

Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản pháp luật trên các lĩnh vực khác, thì quyền hạn của HĐND được thể hiện ở những hình thức và cấp độ khác nhau. Cụ thể đó là: quyền quyết định (quyết định và quy định), quyền thông qua và quyền phê chuẩn.

Quyền quyết định đó là quyền giải quyết về một vấn đề cụ thể mà pháp luật quy định hoặc quyền quy định – đặt ra, thay đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự chung) bắt buộc các chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện. Quyền quyết định được thể hiện ở hai dạng: Dạng thứ nhất đó là quyết định về một vấn đề cụ thể được thể hiện trong các nghị quyết cá biệt (nghị quyết áp dụng pháp luật); chẳng hạn như, nghị quyết về thành lập các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, nghị quyết về đặt tên đường phố,… Dạng thứ hai đó là quy định, đặt ra các quy tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng và có hiệu lực trong phạm vi địa phương; dạng này được thể hiện trong các nghị quyết quy phạm pháp luật, như nghị quyết về quy định mức thu các loại phí, lệ phí; nghị quyết quy định số lượng và mức phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, bản, tiểu khu;…

Quyền thông qua đó là quyền cho ý kiến thể hiện sự đồng ý về một vấn đề (thường là các quy hoạch, kế hoạch, đề án) do UBND cùng cấp trình xin ý kiến trước khi UBND quyết định hoặc trình cấp trên quyết định, phê duyệt theo thẩm quyền. Chẳng hạn như, tại khoản 2 Điều 45 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh trước khi trình Chính phủ phê duyệt”. Ngoài ý nghĩa là một dạng quyền hạn của HĐND thì thuật ngữ “thông qua” còn được sử dụng với ý nghĩa để chỉ một hoạt động tại kỳ họp của HĐND, đó là việc biểu quyết nhất trí đối với các dự thảo nghị quyết. Khoản 2 Điều 126 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2023 quy định: “Dự thảo nghị quyết được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành”.

Quyền phê chuẩn, đó là quyền xem xét cho ý kiến thể hiện sự đồng ý với kết quả đã thực hiện của UBND cùng cấp, của HĐND cấp dưới về một vấn đề mà pháp luật quy định. Chẳng hạn như: Phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; phê chuẩn nghị quyết của HĐND cấp huyện về việc giải tán HĐND,… Như vậy, sự khác nhau giữa thông qua với phê chuẩn đó là: Thông qua là cho ý kiến trước khi quyết định (tiền kiểm – thể hiện vai trò tư vấn của tập thể HĐND đối với các đề án, quy hoạch, kế hoạch), còn phê chuẩn là cho ý kiến sau khi đã thực hiện (hậu kiểm – thể hiện chức năng giám sát của HĐND đối với kết quả thực hiện).

Tóm lại, mặc dù Luật Tổ chức chính quyền địa phương không có điều luật giải thích cụ thể, nhưng căn cứ vào các quy định cụ thể của văn bản pháp luật chuyên ngành trong các lĩnh vực thì có thể xác định được các dấu hiệu chung để phân biệt các dạng quyền hạn của HĐND trong việc ban hành nghị quyết, đó là: Đối với những vấn đề theo quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền “phán quyết” của HĐND thì quyền hạn đó là quyết định hoặc quy định (tương ứng với văn bản chủ đạo, cá biệt hoặc văn bản QPPL). Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của UBND cùng cấp hoặc của cấp trên mà UBND xin ý kiến trước khi quyết định hoặc trình cơ quan cấp trên quyết định thì quyền hạn của HĐND là quyền thông qua. Đối với những vấn đề đã được thực hiện nhưng theo quy định của pháp luật sau khi thực hiện phải có ý kiến của HĐND thì quyền hạn đó là quyền phê chuẩn.

Tuy nhiên, trên thực tế do chưa phân biệt được các dạng quyền hạn nêu trên nên việc ban hành nghị quyết của HĐND trong thời gian qua ở một số địa phương đã xác định không đúng về các dạng quyền hạn. Có những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của mình thì HĐND lại ban hành nghị quyết dưới dạng thông qua (như thông qua dự toán thu, chi ngân sách, thông qua chương trình xây dựng nghị quyết và hoạt động giám sát,…). Ngược lại, có những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của UBND thì lại ban hành nghị quyết dưới dạng quyết định. Chẳng hạn như, theo quy định tại Điều 144 Luật Đất đai năm 2013, thì “UBND cấp tỉnh xây dựng và trình HĐND cùng cấp thông qua bảng giá đất trước khi ban hành”. Với quy định này thì HĐND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền thông qua bảng giá đất, còn thẩm quyền quyết định về giá đất cụ thể thuộc về UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết của HĐND nhiều tỉnh, thành lại ban hành dưới dạng quy định giá đất rồi giao cho UBND triển khai thực hiện. Thậm chí về cùng một vấn đề nhưng nghị quyết của HĐND tỉnh này thì “thông qua” nghị quyết của HĐND tỉnh khác thì lại “quy định”. Chẳng hạn như triển khai thi hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 (quy định về chức danh, số lượng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và ở thôn, tổ dân phố) mặc dù Nghị định này đã quy định cụ thể là HĐND cấp tỉnh quy định về chức danh, mức phụ cấp của từng chức danh, thế nhưng có tỉnh thì ban hành nghị quyết “quy định số lượng, chức danh,…”, có tỉnh thì ban hành nghị quyết “thông qua số lượng, chức danh,…”. Thực tế có những địa phương hầu hết các nghị quyết ban hành đều theo dạng “thông qua”. Sở dĩ như vậy là do đã có sự lẫn lộn, đồng nhất khái niệm thông qua với hàm nghĩa là một dạng quyền hạn (tính từ) với khái niệm thông qua dùng để chỉ một hoạt động tại kỳ họp (động từ). Việc chưa xác định rõ các dạng quyền hạn của HĐND là một trong những yếu tố dẫn đến việc xác định không chính xác văn bản QPPL và văn bản cá biệt.

2. Việc ban hành văn bản QPPL của UBND

Thực tiễn cho thấy, phần lớn các nghị quyết QPPL của HĐND được ban hành là để quy định cụ thể một số nội dung được giao trong các luật, nghị định của Chính phủ, các thông tư của các bộ, ngành cho phù hợp với điều kiện của địa phương. Nội dung vấn đề phân cấp cho HĐND quy định cụ thể thường không nhiều, không phức tạp, do đó nội dung các nghị quyết của HĐND thường rất cụ thể, rõ ràng mà không cần phải ban hành văn bản hướng dẫn hoặc quy định cụ thể thêm. Tuy vậy, một thực tế hiện nay ở các địa phương, ngoài các vấn đề được pháp luật phân cấp cho UBND ban hành quyết định QPPL thì sau khi HĐND ban hành các nghị quyết QPPL theo thẩm quyền phân cấp, UBND lại tiếp tục ban hành quyết định quy định lại các nội dung mà nghị quyết của HĐND đã quy định. Điều này dẫn đến một thực trạng là: thứ nhất, các nghị quyết QPPL của HĐND không được áp dụng trực tiếp mà chỉ làm căn cứ pháp lý để UBND ban hành quyết định. Mặc dù trong nghị quyết của HĐND quy định nghị quyết có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ban hành, tuy nhiên do không được áp dụng trực tiếp nên thực tế các quy định trong nghị quyết của HĐND chỉ được thực hiện khi quyết định của UBND có hiệu lực. Các cơ quan chuyên môn của UBND và chính quyền cấp dưới chỉ quan tâm đến quyết định của UBND mà ít khi để ý đến nghị quyết của HĐND dẫn đến nghị quyết của HĐND chỉ mang tính hình thức. Thứ hai, theo quy định thì cả nghị quyết QPPL của HĐND và quyết định QPPL của UBND đều phải được cơ quan tư pháp cùng cấp thẩm định trước khi ban hành. Như vậy, với thực trạng cùng một vấn đề được cấp trên phân cấp cho HĐND quy định cụ thể nhưng UBND lại tiếp tục ban hành văn bản QPPL với cùng nội dung dẫn đến cơ quan tư pháp thực hiện thẩm định hai lần về cùng một vấn đề.

Tại khoản 2 Điều 28 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2023 quy định UBND cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định: “Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương”. Như vậy, với quy định này thì chỉ những nghị quyết của HĐND về kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh, tức là chỉ những nghị quyết là văn bản chủ đạo đề ra chủ trương, đường lối phát triển kinh tế – xã hội mới cần đến việc UBND ban hành quyết định QPPL để quy định các biện pháp triển khai thực hiện. Các nghị quyết QPPL đã quy định cụ thể, rõ ràng thì UBND chỉ cần ban hành công văn chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai thực hiện mà không cần phải ban hành quyết định QPPL quy định lại các nội dung mà nghị quyết đã quy định. Việc làm đó vừa sai thẩm quyền vừa gây lãng phí về nhân lực, vật lực không cần thiết.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND trong thời gian qua một phần xuất phát từ những bất cập trong các quy định của Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 trước đây, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là ở khâu nhận thức và thực thi pháp luật. Hiện nay không ít cán bộ, công chức còn làm việc bằng kinh nghiệm theo lối rập khuôn máy móc “xưa bày nay làm”, ít chịu khó tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện những sai sót, những điều bất hợp lý để thay đổi. Ngược lại, cũng có những cán bộ, công chức được đào tạo bài bản, chịu khó tìm tòi nghiên cứu nhận thấy được những bất cập, hạn chế đó nhưng không có quyền, không mạnh dạn kiến nghị thay đổi.

Luật ban hành văn bản QPPL năm 2023 đã khắc phục những bất cập, hạn chế của Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND, nhất là quy định về thẩm quyền ban hành, nội dung văn bản QPPL của HĐND và UBND. Để luật ban hành văn bản QPPL đi vào cuộc sống cần kịp thời ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành; đẩy mạnh phổ biến các nội dung mới của luật, tăng cường tập huấn nghiệp vụ về lập kế hoạch, soạn thảo, ban hành theo các quy định mới của luật cho đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền địa phương nhằm thay đổi một cách căn bản nhận thức và lề lối làm việc đã ăn sâu bám rễ từ lâu nay như đã nêu trên. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND./.

Thái Quý

[Trở về]

Các tin đã đăng

Phát triển tổ chức hành nghề công chứng, từ chính sách và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 

Sự đồng thuận trong hoạt động của Hội đồng nhân dân 

Để các kiến nghị của Hội đồng nhân dân được thực thi 

Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát chuyên đề của Ban Văn hóa – Xã hội, HĐND tỉnh 

Nâng cao hiệu quả giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri 

Một số kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của Ban kinh tế – ngân sách, HĐND tỉnh 

Một số kinh nghiệm trong quyết định và giám sát về đất đai của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình 

Quyết Định Ban Hành Quy Chế Làm Việc Của Uỷ Ban Nhân Dân Xã

+ Tư vấn thủ tục đăng ký logo cho doanh nghiệp

+ Tư vấn thủ tục đăng ký thương hiệu cho doanh nghiệp

+ Tư vấn thủ tục đăng ký nhãn hiệu cho doanh nghiệp

+ Tư vấn thủ tục đăng ký bản quyền cho doanh nghiệp

Gần đây, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Văn Khê, huyện Mê Linh, Hà Nội đã chỉ đạo cán bộ văn phòng phối hợp với cán bộ tư pháp – hộ tịch soạn thảo bản Quy chế làm việc của Uỷ ban nhân dân xã Văn Khê. Sau đó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã đã xem xét, cho ý kiến chỉ đạo việc chỉnh lý rồi sau đó ký Quyết định số 22/QĐ-CT ngày 20/1/2023 về việc ban hành Quy chế làm việc của Uỷ ban nhân dân xã. Trong phần căn cứ pháp lý của quyết định có: Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994, Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg ngày 13 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế làm việc mẫu của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Vậy quyết định này có phải là văn bản quy phạm pháp luật không? Có được ban hành có đúng quy định pháp luật không?

Thứ nhất, quyết định này có phải là văn bản quy phạm pháp luật không?

Theo khoản 1 điều 2 Nghị định số 91/2006/NĐ-CP 1. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân theo quy định tại Nghị định này phải có đầy đủ các yếu tố sau đây:

a) Do Hội đồng nhân dân ban hành theo hình thức nghị quyết, Ủy ban nhân dân ban hành theo hình thức quyết định, chỉ thị; b) Được ban hành theo thủ tục, trình tự quy định tại Luật; c) Có chứa quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật), được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng và có hiệu lực trong phạm vi địa phương; d) Được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp theo quy định của pháp luật.Dựa vào những căn cứ trên có thể thấy quyết định ban hành Quy chế làm việc của Ủy ban nhân dân xã là văn bản quy phạm pháp luật “

Thứ hai, quyết định này có được ban hành đúng quy định pháp luật không?

Về thẩm quyền ban hành, Chủ tịch UBND xã không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ được thay mặt ký ban hành. Do vậy Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Văn Khê sử dụng thẩm quyền chức danh của mình để ban hành văn bản này là sai thẩm quyền.

Như vậy, quyết định này sai về thẩm quyền ban hành, căn cứ pháp lý, ký hiệu nên có thể thấy quyết định này là văn bản trái pháp luật.

Về căn cứ pháp lý, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994 đã được thay thế bằng Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 từ ngày 10/12/2003. Do đó căn cứ pháp lý của quyết định này đã hết hiệu lực thi hành.

Quý vị có thể tham khảo một số nội dung về ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại mục HỎI – ĐÁP luật dân sự của Luật Hoàng Phi như: Câu hỏi: Những văn bản nào được xác định là văn bản quy phạm pháp luật

Về ký hiệu “22/QĐ-CT” chưa đúng với thể thức văn bản quy phạm pháp luật, phải sửa lại là “22/2023/QĐ-UB”.

Trả lời:

Trong trường hợp cần tư vấn thêm, anh có thể liên hệ với Luật sư của Luật Hoàng Phi qua TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT 19006557để được tư vấn.

Chào Luật Hoàng Phi, em có một thắc mắc sau mong được giải đáp: Em đang học môn pháp luật đại cương ở trường, thỉnh thoảng thầy cô có nhắc đến thuật ngữ “văn bản quy phạm pháp luật” nhưng em không hiểu thế nào là văn bản quy phạm pháp luật. Những văn bản nào được coi là văn bản quy phạm pháp luật? Mong được sự tư vấn từ các Luật sư. Em xin cảm ơn!

Thứ nhất, về định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật:

Theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới nhất – Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2023, có hiệu lực từ ngày 1/7/2023 thì:

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này.

Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật. ( Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2023).

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Thứ hai, về các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành:

Theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2023 thì hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm:

– Hiến pháp;

– Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội;

– Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

– Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

– Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

– Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

– Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

– Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước;

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

– Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

– Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt;

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương;

– Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện;

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn;

– Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Trong trường hợp cần tư vấn thêm, bạn có thể liên hệ với Luật sư của Luật Hoàng Phi qua TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT 19006557để được tư vấn.

Tiểu Luận Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật

Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

Tạm đình chỉ, đình chỉ văn bản pháp luật là hai trong sáu cách thức xử lí các loại văn bản pháp luật khiếm khuyết (Ngoài ra còn còn hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế, sửa đổi – bổ sung). Để lựa chọn cách thức xử lí phù hợp đối với từng loại văn bản, chúng ta cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố như tính chất khiếm khuyết và mức độ khiếm khuyết trong văn bản pháp luật, thẩm quyền xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Từ những căn cứ trên có thể kết luận các trường hợp mà chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp đình chỉ, tạm đình chỉ văn bản pháp luật sai trái như sau:

* Trường hợp áp dụng biện pháp đình chỉ văn bản pháp luật sai trái:

Theo từ điển Tiếng Việt, “đình chỉ” được hiểu là “ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian hoặc vĩnh viễn” . Như vậy, “đình chỉ” với tư cách là một biện pháp xử lí các loại văn bản pháp luật khiếm khuyết có thể được định nghĩa là việc ngừng việc thi hành các văn bản pháp luật khiếm khuyết của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đình chỉ thi hành văn bản pháp luật là biện pháp xử lí được áp dụng với tư cách là biện pháp bổ sung hoặc biện pháp độc lập.

Với tư cách là biện pháp bổ sung, đình chỉ thi hành được sử dụng kèm theo việc hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế văn bản pháp luật. Như vậy, đình chỉ thi hành sẽ được áp dụng với tất cả các loại văn bản pháp luật mà có thể áp dụng biện pháp hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế, bao gồm cả ba loại văn bản pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính. Trong trường hợp này, chỉ có các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế đồng thời có thẩm quyền đình chỉ một loại văn bản pháp luật cụ thể mới có quyền áp dụng biện pháp đình chỉ như một biện pháp bổ sung. Đối với các cơ quan không có thẩm quyền xử lí văn bản pháp luật sai trái bằng biện pháp hủy bỏ, bãi bỏ, thay thế thì có thể áp dụng biện pháp đình chỉ như một biện pháp độc lập để tạm thời chấm dứt hiệu lực của văn bản và yêu cầu cấp có thẩm quyền xử lí.

Ví dụ: Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã ban hành Quyết định số 1995/QĐ-UBND ngày 24/8/2009 về việc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do UBND tỉnh ban hành. Theo đó, Bãi bỏ Quyết định số 07/2007/QĐ-UBND ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre ban hành quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký hộ tịch. Đồng thời, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã có quyết định đình chỉ việc thi hành văn bản trên.

Với tư cách là biện pháp độc lập, đình chỉ thi hành được áp dụng trong hai trường hợp là: Đình chỉ để chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và đình chỉ để tạm dừng hiệu lực của băn bản pháp luật, chờ cấp có thẩm quyền xử lí.

Đối với trường hợp áp dụng biện pháp đình chỉ để chấm dứt hiệu lực văn bản thì chỉ áp dụng với văn bản quy phạm pháp luật và do các cơ quan có thẩm quyền đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật áp dụng bao gồm: Thủ tướng Chính phủ ,Bộ trưởng Bộ Tư Pháp , chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ,… Văn bản pháp luật sẽ chấm dứt hiệu lực kể từ thời điểm quyết định đình chỉ có hiệu lực.

Ví dụ: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Uông Chu Lưu đã ký quyết định số 1212/QĐ-BTP ngày 9/5/2006 đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung 14 văn bản trái pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do các địa phương ban hành gồm 3 văn bản của UBND tỉnh Sơn La, 1 của UBND tỉnh Lạng Sơn, 3 của UBND tỉnh Cà Mau, 1 của UBND tỉnh Yên Bái, 2 của UBND thành phố Hồ Chí Minh và 3 của UBND thành phố Đà Nẵng.

Đối với trường hợp đình chỉ thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lí thì phải tuân theo nguyên tắc: Các văn bản trái luật phải bị đình chỉ thi hành ngay và phải bị bãi bỏ hoặc hủy bỏ kịp thời . Cụ thể như sau: Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi nhận thấy văn bản pháp luật có các dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng có thể ra quyết định đình chỉ thi hành văn bản và yêu cầu cấp trên có thẩm quyền hủy bỏ; khi nhận nhận thấy phần lớn văn bản pháp luật có sự khiếm khuyết thì có thể ra quyết định đình chỉ và yêu cầu cấp trên có thẩm quyền bãi bỏ, thay thế bằng văn bản khác .

Văn bản pháp luật bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu cấp có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản pháp luật hết hiệu lực còn không bị hủy bỏ, bãi bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực.

* Trường hợp áp dụng biện pháp tạm đình chỉ văn bản pháp luật sai trái:

Theo từ điển Tiếng Việt “tạm” là “làm việc gì đó ngừng lại trong một thời gian, khi có điều kiện sẽ thay đổi” . Do đó, “tạm đình chỉ văn bản pháp luật” có thể được hiểu là “ngừng việc thi hành văn bản pháp luật trong một gian nhất định”.

Khác với biện pháp đình chỉ văn bản pháp luật, tạm đình chỉ thi hành là biện pháp xử lí độc lập, chỉ áp dụng đới với các văn bản áp dụng pháp luật. Cụ thể, tạm đình chỉ thi hành được áp dụng trong hai trường hợp sau đây:

Thứ nhất, chủ thể không có thẩm quyền xử lí văn bản áp dụng pháp luật nhưng có cơ sở cho rằng văn bản đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì có quyền tạm đình chỉ việc thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lí. Văn bản pháp luật bị tạm đình chỉ, hết hiệu lực khi cấp có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, tiếp tục có hiệu lưc khi cấp có thẩm quyền tuyên bố không hủy bỏ văn bản đó.

Ví dụ: Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh thi hành án dân sự quy định: “Người đã kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đó. Thời hạn tạm đình chỉ thi hành án không quá 6 tháng, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án…”.

Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ việc thi hành văn bản trong thời gian nhất định nếu có cơ sở cho rằng, việc thi hành văn bản pháp luật có thể gây cản trở hoạt động công quyền. Việc tạm đình chỉ nhằm mục đích giúp cho hoạt động công quyền được diễn ra thuận lợi hơn. Trường hợp này, người ra quyết định tạm đình chỉ phải ra văn bản bãi bỏ việc tạm đình chỉ đó nếu xét thấy việc tạm đình chỉ không còn cần thiết. Văn bản đã bị tạm đình chỉ sẽ tiếp tục có hiệu lực.

Ví dụ: Khoản 4 Điều 10 Nghị định 71/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định Chánh Thanh tra Sở có quyền: “Kiến nghị Giám đốc Sở tạm đình chỉ việc thi hành quyết định của đơn vị thuộc quyền quản lý của Sở khi có căn cứ cho rằng các quyết định đó trái pháp luật hoặc gây cản trở hoạt động thanh tra”.

Nói tóm lại, việc lựa chọn biện pháp xử lí kỉ luật phù hợp với từng trường hợp là rất quan trọng. Chúng ta phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau để đảm bảo việc áp dụng đúng thẩm quyền cũng như đem lại hiệu quả cao nhất, góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ban Hành Quyết Định Của Uỷ Ban Nhân Dân Xã

Xã H thuộc huyện T vừa tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ XV với nội dung trọng tâm nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng, chủ trương chung của huyện. Sau khi Nghị quyết của Đảng bộ xã được ban hành, Uỷ ban nhân dân xã H đã căn cứ vào đó để cụ thể hoá thành chương trình hành động và ban hành Quyết định của Uỷ ban nhân dân xã số 01/2006/QĐ-UB về Chương trình phát triển kinh tế – xã hội xã H đến năm 2010. Trong Quyết định này, phần căn cứ ban hành văn bản được viết như sau: UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ H – Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; – Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; – Căn cứ ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện T tại Công văn số 12/CV ngày 14 tháng 02 năm 2006 về việc xây dựng Chương trình phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010; – Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XV xã H”. ………….. QUYẾT ĐỊNH: Quyết định nói trên của Uỷ ban nhân dân xã H có được ban hành đúng quy định của pháp luật?

Trước hết, cần thấy rằng việc Uỷ ban nhân dân cấp xã bám sát tinh thần chỉ đạo của cơ quan quản lý cấp trên và Nghị quyết của Đảng bộ cơ sở để cụ thể hoá thành việc ban hành Chương trình phát triển kinh tế – xã hội cho địa phương với quy hoạch tầm nhìn đến năm 2010 là việc làm đáng hoan nghênh, thể hiện sự quan tâm đến việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước. Tuy nhiên, Quyết định của Uỷ ban nhân dân xã về Chương trình phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương là một văn bản quy phạm pháp luật, do đó việc ban hành nó phải tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Từ đó, vấn đề pháp lý đặt ra trong tình huống này là cần xét xem việc thể hiện phần căn cứ pháp lý để ban hành Quyết định đó có phù hợp với quy định của pháp luật về việc ban hành Quyết định của Uỷ ban nhân dân hay không?

Theo hướng dẫn tại điểm 2.1 Mục I Thông tư số 01/2004/TT-BTP ngày 16/6/2004 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật thì:

“Căn cứ pháp lý làm cơ sở ban hành văn bản quy phạm pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên đang có hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản đó, bao gồm:

a) Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ban hành văn bản;

b) Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền quy định về vấn đề thuộc đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản”.

Như vậy, để ban hành một văn bản quy phạm pháp luật cần phải có hai loại căn cứ pháp lý:

– Loại căn cứ pháp lý thứ nhất là căn cứ về thẩm quyền quản lý nhà nước và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

– Loại căn cứ pháp lý thứ hai là căn cứ pháp lý về nội dung văn bản (đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản).

Điều quan trọng cần lưu ý là những căn cứ pháp lý này đều phải là văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên đang có hiệu lực.

Cập nhật thông tin chi tiết về Luận Văn Đề Tài Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa Trong Xây Dựng Và Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Nghệ An trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!