Bạn đang xem bài viết Một Số Vấn Đề Liên Quan Đến Việc Xác Định Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Chính Quyền Cấp Tỉnh được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Căn cứ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2023 (được sửa đổi, bổ sung năm 2023), có thể thấy văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của CQCT là văn bản do Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức do luật định; trong đó có chứa quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung và được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi địa phương, được nhà nước đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương. Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023 quy định hình thức ban hành văn bản QPPL của HĐND cấp tỉnh là nghị quyết, UBND cấp tỉnh là quyết định.
Để xác định thẩm quyền về nội dung, căn cứ Điều 27, 28 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023 thì HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định về các vấn đề: 1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; 2. Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; 3. Biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; 4. Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; UBND cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định về các vấn đề: 1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; 2. Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; 3. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương.
Thứ nhất, xác định trường hợp ban hành văn bản quy định chi tiết
Theo khoản 1 Điều 27 và khoản 1 Điều 28 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023 thì HĐND và UBND cấp tỉnh đều có thẩm quyền ban hành văn bản để quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản nào quy định, hướng dẫn việc xác định thế nào là văn bản quy định chi tiết hay hướng dẫn việc xác định nội dung “được giao” trong văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên là như thế nào, trong khi đó một số quy định ở văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên trong lĩnh vực chuyên ngành chưa thể hiện rõ ràng, cụ thể nội dung giao cho CQCT quy định chi tiết. Chẳng hạn như, tại khoản 7 Điều 17 Luật Đầu tư công năm 2023 quy định: “7. Hội đồng nhân dân các cấp quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án nhóm B, nhóm C sử dụng vốn ngân sách địa phương, bao gồm cả vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách cấp trên, các nguồn vốn hợp pháp của địa phương thuộc cấp mình quản lý, trừ dự án quy định tại khoản 4 Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định việc giao cho Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định chủ trương đầu tư dự án quy định tại khoản này phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển, khả năng tài chính và đặc điểm cụ thể của địa phương”.
Việc Hội đồng nhân dân quyết định việc giao cho Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định chủ trương đầu tư dự án quy định tại khoản 7 Điều 17 Luật Đầu tư công năm 2023 phải thông qua hình thức bằng văn bản. Văn bản này có phải là văn bản quy định chi tiết khoản 7 Điều 17 Luật Đầu tư công năm 2023 hay không, thực tiễn triển khai quy định này chưa có sự thống nhất[1].
Hay như tại khoản 11 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống thiên tai và Luật Đê điều năm 2023, quy định:
“11. Bổ sung Điều 18a vào sau Điều 18 như sau:
Điều 18a. Bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai đối với việc quản lý, vận hành, sử dụng công trình
1. Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành, sử dụng khu khai thác khoáng sản và khu khai thác tài nguyên thiên nhiên khác; khu đô thị; điểm du lịch, khu du lịch; khu công nghiệp; điểm dân cư nông thôn; công trình phòng, chống thiên tai, giao thông, điện lực và công trình hạ tầng kỹ thuật khác phải thực hiện nội dung bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai trong quy chuẩn kỹ thuật, quy định do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
2. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng công trình, nhà ở thuộc quyền sở hữu của mình có trách nhiệm thực hiện các tiêu chí bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành.
3. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành quy định chung bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai quy định tại khoản 1 Điều này.
4. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, ban hành quy định cụ thể bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai quy định tại khoản 1 Điều này và tổ chức kiểm tra việc thực hiện.”
Theo quy định này thì Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống thiên tai và Luật Đê điều năm 2023 giao cho UBND các cấp (bao gồm: UBND cấp tỉnh; UBND cấp huyện và UBND cấp xã) ban hành quy định cụ thể bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai quy định tại khoản 1 Điều 18a Luật Phòng, chống thiên tai. Như vậy, trường hợp này văn bản quy định cụ thể do UBND các cấp ban hành có phải là văn bản quy định chi tiết văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên hay không và việc phân định phạm vi điều chỉnh (hay còn gọi là phạm vi quy định chi tiết) trong văn bản của từng cấp được xác định như thế nào? Nghĩa là UBND cấp tỉnh sẽ quy định cụ thể, chi tiết nội dung nào, UBND cấp huyện sẽ quy định cụ thể, chi tiết nội dung nào và UBND cấp xã sẽ quy định chi tiết, cụ thể nội dung nào để đảm bảo việc ban hành văn bản quy định chi tiết của UBND các cấp tuân thủ, phù hợp với nội dung giao quy định chi tiết và quy định tại Điều 5, Điều 8, Điều 11 của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023.
Thứ hai, trường hợp nào thì CQCT ban hành văn bản QPPL quy định chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên. Để xác định thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của CQCT trong trường hợp này, trước hết cần xác định rõ thế nào là “chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên”; Việc xác định một nội dung, quy định nào đó có phải là chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên được dựa trên những tiêu chí nào, do cơ quan/người có thẩm quyền nào xác định. Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên là những văn bản, quy định mang tính “bất biến” trong khi đó tình hình thực tế của mỗi địa phương lại có tính “vạn biến”. Để Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên được đảm bảo thi hành ở các địa phương thì các địa phương có thể có những chính sách, biện pháp giống nhau nhưng các địa phương cũng có thể có những chính sách, biện pháp khác nhau để đảm bảo Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên được đảm bảo thi hành ở địa phương mình một cách hiệu quả, thống nhất và phù hợp nhất.
Thứ ba, trường hợp nào ban hành văn bản QPPL quy định biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương tại khoản 3 Điều 27 và trường hợp ban hành văn bản QPPL quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương tại khoản 3 Điều 28. Tương tự như khó khăn, vướng mắc thứ hai đã nêu ở trên, việc xác định trường hợp nào ban hành văn bản QPPL quy định biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương tại khoản 3 Điều 27 và trường hợp ban hành văn bản QPPL quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương tại khoản 3 Điều 28 còn lúng túng.
Đồng thời, việc phân biệt trường hợp ban hành văn bản QPPL quy định chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định tại khoản 2 Điều 27, khoản 2 Điều 28 với trường hợp ban hành văn bản QPPL quy định biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương tại khoản 3 Điều 27; trường hợp ban hành văn bản QPPL quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương tại khoản 4 Điều 27 và trường hợp ban hành văn bản QPPL quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương tại khoản 3 Điều 28 hiện nay vẫn còn khó xác định.
Thứ tư, xác định trường hợp nào thì CQCT được ban hành văn bản QPPL có chứa quy định về thủ tục hành chính Khoản 4 Điều 14 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023 (được sửa đổi, bổ sung năm 2023) quy định hành vi bị nghiêm cấm: “Quy định thủ tục hành chính trong thông tư, thông tư liên tịch, quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được luật, nghị quyết của Quốc hội giao hoặc trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật này”.
Điều 8. Yêu cầu của việc quy định thủ tục hành chính
1. Thủ tục hành chính phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật theo đúng thẩm quyền được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2. Việc quy định một thủ tục hành chính chỉ hoàn thành khi đáp ứng đầy đủ các bộ phận tạo thành cơ bản sau đây:
a) Tên thủ tục hành chính;
b) Trình tự thực hiện;
c) Cách thức thực hiện;
d) Thành phần, số lượng hồ sơ;
đ) Thời hạn giải quyết;
e) Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính;
g) Cơ quan giải quyết thủ tục hành chính;
h) Trường hợp thủ tục hành chính phải có mẫu đơn, mẫu tờ khai hành chính; kết quả thực hiện thủ tục hành chính; yêu cầu, điều kiện; phí, lệ phí thì mẫu đơn, mẫu tờ khai hành chính; kết quả thực hiện thủ tục hành chính; yêu cầu, điều kiện; phí, lệ phí là bộ phận tạo thành của thủ tục hành chính.
3. Khi được luật giao quy định về thủ tục hành chính, cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm quy định đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, cụ thể về các bộ phận tạo thành của thủ tục hành chính theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Theo Nghị định số 63/2010/NĐ-CP[2] thì thủ tục hành chính (TTHC) sẽ gồm các bộ phận hợp thành và một TTHC chỉ hoàn chỉnh khi đáp ứng đầy đủ các bộ phận tạo thành cơ bản theo quy định. Như vậy, một trong các bộ phận tạo thành cơ bản của một TTHC vẫn chỉ là bộ phận tạo thành TTHC chứ không được xem là một TTHC. Theo đó, hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 4 Điều 14 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023 là hành vi quy định TTHC, nghĩa là hành vi quy định đầy đủ các bộ phận tạo thành cơ bản của một TTHC theo Nghị định số 63/2010/NĐ-CP hay chỉ cần quy định một trong các bộ phận tạo thành cơ bản của một TTHC.
Việc tuân thủ quy định về thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của CQCT là yếu tố chứng minh tính hợp pháp của văn bản và là yêu cầu để văn bản có thể phát huy hiệu lực pháp lý. Dưới góc độ tổ chức nhà nước, việc tuân thủ quy định về thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của CQCT còn là minh chứng cho kỷ luật và kỷ cương hành chính, thể hiện tính pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước. Quá trình nghiên cứu và thực hiện Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023 cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023, nhận thấy để việc thi hành Luật hiệu quả, đồng bộ, thống nhất hơn nữa thì các cấp có thẩm quyền cần phải tiếp tục tổng hợp, nghiên cứu để hoàn chỉnh Luật Ban hành văn bản QPPL, đảm bảo các quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL rõ ràng, cụ thể, thuận lợi trong quá trình thực hiện…
Lương Thảo
(Bộ Tư pháp)
[1] Nghị quyết số 288/2023/NQ-HĐND ngày 13/3/2023 của HĐND thành phố Đà Nẵng về việc giao thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư các dự án đầu tư nhóm C, Nghị quyết số 01/2023/NQ-HĐND ngày 05/5/2023 của HĐND tỉnh An Giang giao thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư các dự án đầu tư nhóm C sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương do cấp tỉnh quản lý,…; Nghị quyết số 304/NQ-HĐND ngày 03/4/2023 của HĐND tỉnh Kiên Giang giao UBND tỉnh quyết định chủ trương đầu tư một số dự án nhóm C sử dụng vốn đầu tư công thuộc cấp tỉnh quản lý trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Nghị quyết số 234/NQ-HĐND ngày 09/7/2023 của HĐND tỉnh Gia Lai về giao cho UBND quyết định chủ trương đầu tư các dự án đầu tư công thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của HĐND tỉnh;…
[2] Đã được sửa đổi, bổ sung bởi các Nghị định: 48/2013/NĐ-CP; 150/2023/NĐ-CP và 92/2023/NĐ-CP.
Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Chính Quyền Địa Phương Theo Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Năm 2023
Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.
Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2023 (Luật năm 2023) có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2023, được ban hành để thay thế hai đạo luật là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004, đánh dấu một bước phát triển lớn trong tiến trình lập pháp của Việt Nam. Xuyên suốt 173 điều là nhiều nội dung mới, hiện đại với mục đích tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm xây dựng, vận hành hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả thi góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Bên cạnh một số điểm mới nổi bật như việc tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo, Luật năm 2023 đã có những thay đổi đáng kể về thẩm quyền ban hành văn bản của các chủ thể, trong đó có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của chính quyền địa phương. Bài viết đánh giá những điểm mới về thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền địa phương để nhìn nhận những thách thức trong việc triển khai thực hiện Luật trong thời gian tới.
1. Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2023
1.1. Chủ thể ban hành
Luật năm 2023 đã kế thừa những quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004 khi tiếp tục trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho các chủ thể ở địa phương đó là Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, đã bổ sung thêm một chủ thể mới là đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt được xác định là một cấp hành chính, có thể tương đương cấp huyện hoặc cấp tỉnh nhưng thẩm quyền kinh tế được xác định sẽ là tương đương với chính quyền cấp I (ngay bên dưới chính quyền trung ương mà sẽ tạm gọi là cấp tỉnh). Mỗi vùng lãnh thổ chỉ nên được trao quyền quản lý khi nó phải có những tiềm lực nhất định về kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội. Tiềm lực đó phải đủ mạnh, đủ tầm. Nền tảng đó là hệ thống pháp luật đầy đủ, chiến lược phát triển kinh tế với cơ cấu ngành, nghề và quy mô phù hợp, cơ sở vật chất như đất đai, nhà ở, công sở, nhà máy, xí nghiệp; vốn, đầu tư, cơ chế tự chủ, tự quản để trở thành một chủ thể kinh tế độc lập khác biệt với các chủ thể ở các vùng lãnh thổ khác. Dựa vào đó, Nhà nước sẽ trao quyền cho nó để hình thành tổ chức chính quyền ở đơn vị hành chính – lãnh thổ.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2023 đã dành Chương V với 4 Điều (từ Điều 74 – 77) quy định về “chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt”. Theo đó, Điều 74 đưa ra khái niệm đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt là đơn vị do Quốc hội quyết định thành lập, được áp dụng các cơ chế chính sách đặc biệt về kinh tế – xã hội, có chính quyền địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt đó”. Điều 75 quy định về tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt với cơ cấu tổ chức gồm có HĐND và UBND, nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động được thực hiện theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Điều 76, 77 quy định về thẩm quyền thành lập và giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
Có thể nói, việc Luật năm 2023 trao quyền ban hànhVBQPPL cho chủ thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ chủ thể này cũng là một đơn vị hành chính trong hệ thống bộ máy nhà nước do Quốc hội thành lập cũng giống như các đơn vị hành chính khác như tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, xã, phường… Bên cạnh đó, theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2023, tổ chức đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt cũng bao gổm HĐND và UBND cũng tương đương với đơn vị hành chính khác. Do đó, việc trao thẩm quyền ban hành VBQPPL cho chủ thể này là hoàn toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, đồng thời có thể phát huy tốt nhất tiềm năng của các đơn vị này dựa trên cơ sở thế mạnh của từng vùng.
1.2. Thẩm quyền hình thức
Theo quy định của Luật năm 2023, hình thức VBQPPL do HĐND ban hành là nghị quyết, UBND ban hành là quyết định.
Thứ nhất, Luật năm 2023 đã bỏ hình thức chỉ thị của UBND các cấp
Hệ thống VBQPPL của nước ta hiện nay rất đa dạng về hình thức, với nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau ban hành. Với nhiều hình thức VBQPPL khác nhau, dẫn đến hệ thống VBQPPL khá cồng kềnh, nhiều tầng nấc, phần nào làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Do đó, xuất phát từ thực tế này, chủ trương đơn giản hóa hình thức VBQPPL luôn được các cơ quan xây dựng pháp luật coi trọng. Luật năm 2023 cũng không phải ngoại lệ khi giảm bớt hình thức VBQPPL của UBND. Theo đó, UBND các cấp chỉ ban hành VBQPPL với hình thức quyết định, điều này có nghĩa chỉ thị của UBND sẽ không được ban hành với tư cách là VBQPPL nữa.
Với tư cách là một đơn vị hành chính trong hệ thống bộ máy nhà nước, Luật năm 2023 trao thẩm quyền ban hành VBQPPL cho đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Tương tự hình thức VBQPPL của HĐND và UBND các cấp được tổ chức tại các đơn vị hành chính bình thường, theo quy định tại Điều 29 Luật năm 2023, HĐND tại đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ban hành nghị quyết, UBND đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ban hành quyết định.
1.3. Thẩm quyền nội dung
Theo khoa học luật Việt Nam, thẩm quyền nội dung là giới hạn quyền lực mà pháp luật cho phép các chủ thể ban hành VBQPPL để quy định những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Với từng hình thức văn bản được ban hành thì sẽ có những quy định tương ứng về nội dung được thể hiện trong văn bản đó.
Nội dung những văn bản do chính quyền địa phương ban hành quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã có những hạn chế nhất định khi chưa phân định một cách rõ ràng nội dung của văn bản do chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã ban hành, mà chủ yếu căn cứ dựa trên phạm vi ban hành văn bản. Điều đó dẫn đến tình trạng thụ động khi giải quyết những vấn đề phát sinh tại địa phương, cũng như tình trạng sao chép văn bản của cấp trên… Để khắc phục tình trạng này, trên cơ sở sự phân định thẩm quyền quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2023, Luật năm 2023 đã quy định cụ thể nội dung của VBQPPL do từng cơ quan, từng cấp ban hành. Theo đó, HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định: Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên; chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên; biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương ( Điều 27).
UBND cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định: Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên; biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương (Điều 28).
HĐND cấp huyện, cấp xã ban hành nghị quyết, UBND cấp huyện, cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật giao ( Điều 30 )
Như vậy, đối với nghị quyết của HĐND cấp tỉnh và quyết định của UBND cấp tỉnh, Luật năm 2023 đã quy định rõ hơn theo hướng VBQPPL của UBND cấp tỉnh quy định chi tiết những vấn đề được văn bản cấp trên giao; tổ chức, đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương và quyết định những vấn đề cụ thể tại địa phương. Riêng đối với nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND cấp huyện, xã, Luật năm 2023 đã giới hạn chỉ được ban hành để quy định những vấn đề được luật giao.
2. Một số đề xuất đối với việc triển khai thực hiện Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2023
Thứ nhất, Luật năm 2023 quy định HĐND cấp tỉnh có quyền ban hành nghị quyết, UBND cấp tỉnh có quyền ban hành quyết định để quy định chi tiết, điều khoản, điểm được giao trong VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên. Thiết nghĩ, việc giao cho cấp dưới quy định chi tiết văn bản của cấp trên sẽ phù hợp khi cơ quan được giao là một cơ quan có thẩm quyền chung trong cả nước (Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết một số điều của luật) hay cơ quan chuyên môn ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ giao cho bộ quy định chi tiết luật, nghị định), vì như vậy vừa đạt được mục đích của ủy quyền, vừa đảm bảo được sự thống nhất của pháp luật. Còn việc Luật năm 2023 trao quyền cho HĐND, UBND cấp tỉnh ban hành văn bản để quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong VBQPPL của cấp trên không thực sự phù hợp. Bởi có thể đưa ra lý do cho việc ủy quyền này là xuất phát từ sự đặc thù riêng biệt về địa lý, dân cư, điều kiện kinh tế, xã hội… của từng địa phương nên cơ quan nhà nước cấp trên trao quyền chủ động cho địa phương quy định cụ thể. Tuy nhiên, nếu giải thích như vậy sẽ trùng lặp giữa khoản 1 và khoản 4 Điều 27. Còn nếu việc ủy quyền xuất phát từ lý do khác, thì có thể dẫn đến sự thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật từ trung ương đến địa phương, bởi khi trao quyền quy định chi tiết cho địa phương, thì hoàn toàn có thể xảy ra tình trạng các địa phương quy định không giống nhau về cùng một vấn đề được giao.
Thứ hai, về VBQPPL của HĐND và UBND cấp huyện, xã, Luật năm 2023 quy định các chủ thể được phép ban hành VBQPPL quy định những vấn đề được giao trong luật, tức là khi có sự ủy quyền của Quốc hội. Trên thực tế, thông thường Quốc hội chỉ giao việc quy định những vấn đề chi tiết cho Chính phủ hoặc các bộ, do đó việc giao cho chính quyền địa phương cấp huyện, xã quy định văn bản chi tiết là điều khó xảy ra. Về vấn đề này, có một số quan điểm cho rằng nên cắt bỏ thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền địa phương cấp huyện, xã, tuy nhiên theo tác giả trong những năm trở lại đây nhu cầu ban hành VBQPPL của cấp huyên, xã là hoàn toàn có thực, mặc dù không lớn. Bên cạnh đó, vấn đề tự quản, tự chịu trách nhiệm của cấp huyện, xã được bàn đến sôi nổi và là khuynh hướng xây dựng chính quyền địa phương hiện nay. Nếu nói đến vấn đề tự quản, tự chịu trách nhiệm, thì có lẽ không chỉ dừng lại ở việc tự quản, tự chịu trách nhiệm về việc giải quyết những vấn đề cụ thể mà tự quản, tự chịu trách nhiệm còn bao hàm cả việc tự định ra các chủ trương, biện pháp quản lý áp dụng chung trên phạm vi địa bàn quản lý. Vì vậy, rất nên quy định chính quyền cấp huyện, xã có thẩm quyền ban hành VBQPPL nhưng cần quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn.
Thứ tư, khoản 4 Điều 27 Luật năm 2023 quy định HĐND ban hành quyết định quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Tuy nhiên, Điều 14 Luật năm 2023 lại nghiêm cấm quy định thủ tục hành chính trong VBQPPL của chính quyền địa phương. Việc quy định như vậy sẽ gây khó khăn cho HĐND khi quy định các biện pháp đặc thù cho địa phương mình, vì thông thường địa phương sẽ có những hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện khi ban hành một biện pháp đặc thù nào đó trong khi Luật lại quy định HĐND không được quyền đặt ra thủ tục hành chính.
Tóm lại, mặc dù vẫn còn những quy định gây tranh cãi, tuy nhiên không thể phủ nhận Luật năm 2023 đã có những điểm mới, tiến bộ khi quy định về thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền địa phương, góp phần thống nhất, đồng bộ, minh bạch hệ thống VBQPPL, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý hành chính nhà nước ở trung ương đến địa phương.
ThS. Hoàng Ngọc Hải
Một Số Vấn Đề Liên Quan Đến Thẩm Quyền Của Tòa Án Đối Với Quyết Định Cá Biệt Của Cơ Quan, Tổ Chức
CHU THỊ THU HIỀN & THS. TRẦN MẠNH HÙNG
Về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức khác, trước khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ra đời, tại Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định: “Khi xét xử vụ án dân sự, Toà án có quyền huỷ quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết”.
Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã bãi bỏ quy định này. Sau 7 năm thực hiện Bộ Luật tố tụng dân sự, thực tế việc giải quyết vụ việc dân sự tại các Tòa án cho thấy nhiều trường hợp khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án xét thấy có các quyết định cá biệt của các cơ quan, tổ chức rõ ràng là trái pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án và đương sự có yêu cầu hủy bỏ quyết định đó; nhưng vì Bộ luật tố tụng dân sự không quy định thẩm quyền của Tòa án hủy quyết định cá biệt trong vụ án dân sự nên Tòa án không thể hủy các quyết định cá biệt này. Đương sự muốn Tòa án hủy quyết định cá biệt đó lại phải tiến hành các thủ tục để khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục tố tụng hành chính. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như gây tốn kém về thời gian và tiền của cũng như công sức đối với các đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, để khắc phục hạn chế này, khi tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, nhà làm luật đã bổ sung Điều 32a quy định thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức như sau:
Ví dụ: Trong vụ án dân sự về tranh chấp đất đai giữa ông A và ông B. Ông A khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu ông B phải trả lại ông A thửa đất X. Qúa trình giải quyết vụ án, ông B xuất trình Quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất X cho ông B. Tuy nhiên, với những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Tòa án có đủ cơ sở pháp lý khẳng định Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi của ông A và Tòa án xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông A là có căn cứ pháp luật.
Vấn đề đặt ra ở đây là Tòa án sẽ phán quyết thế nào nếu như trong vụ án dân sự trên, ông A không yêu cầu Tòa án hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông B. Hay nói cách khác, trong trường hợp này, Tòa án có quyền hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông B hay không?
Nếu như cho rằng Tòa án chỉ có quyền hủy quyết định cá biệt khi đương sự có yêu cầu thì trong vụ án dân sự nêu trên, Tòa án sẽ không có quyền hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông B. Việc Tòa án hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông B là vi phạm tố tụng vì vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Ngược lại, nếu như cho rằng việc hủy quyết định cá biệt vừa là quyền vừa là nghĩa vụ tố tụng của Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự thì chỉ cần Tòa án phát hiện ra quyết định cá biệt đó rõ ràng trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án là Tòa án sẽ phải hủy quyết định cá biệt đó, mà không nhất thiết phải có yêu cầu của đương sự. Nếu theo quan điểm này thì trong vụ án dân sự trên, mặc dù ông A không có yêu cầu, nhưng Tòa án vẫn có quyền và nghĩa vụ hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông B. Việc Tòa án không hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận đã cấp cho ông B là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Do đó, theo chúng tôi, dự thảo Thông tư liên tịch cần hướng dẫn theo hướng quy định”Đương sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật” là một trong những căn cứ bắt buộc để hủy quyết định cá biệt. Theo đó, trong vụ án dân sự, trường hợp đương sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt, mà trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án xét thấy quyết định cá biệt đó rõ ràng trái pháp luật và xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án phải hủy quyết định cá biệt đó. Còn nếu mặc dù xét thấy quyết định cá biệt đó rõ ràng trái pháp luật và xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng đương sự không có yêu cầu hủy quyết định cá biệt thì Tòa án không có quyền hủy quyết định cá biệt này. Trường hợp này, khi bản án dân sự có hiệu lực pháp luật thì cơ quan hành chính Nhà nước sẽ căn cứ vào quyết định của bản án để ra quyết định hủy hoặc sửa quyết định cá biệt đó cho phù hợp pháp luật, hoặc đương sự sẽ khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định cá biệt đó theo thủ tục tố tụng hành chính tùy theo ý chí của họ.
2. Về vấn đề trách nhiệm nộp tiền tạm ứng án phí, án phí đối với yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ráng trái pháp luật có đặt ra hay không?
Yêu cầu hủy quyết định cá biệt có phải là yêu cầu độc lập của đương sự trong vụ án dân sự hay không? Nếu xác định yêu cầu này là yêu cầu độc lập của đương sự thì có cần xem xét và xử lý vấn đề tiền tạm ứng án phí với yêu cầu này như thế nào?
Chúng tôi cho rằng, yêu cầu hủy quyết định cá biệt về thực chất là việc khởi kiện quyết định hành chính, nên cần coi đây là yêu cầu độc lập, vì vậy cần xác định trách nhiệm nộp tiền tạm ứng án phí và tiền án phí của đương sự giống như quy định trong Luật tố tụng hành chính. Tuy nhiên, hiện nay Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 đang có hiệu lực pháp luật không quy định vấn đề tiền án phí, tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật trong vụ án dân sự. Do vậy, chúng tôi kiến nghị cần nghiên cứu, bổ sung quy định tiền án phí, tạm ứng án phí khi đương sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật trong vụ án dân sự khi sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009.
3. Về vấn đề thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của đương sự
Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính được quy định tại Điều 104 Luật tố tụng hành chính và ngắn hơn thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Do vậy, nếu như quy định việc yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật trong vụ án dân sự phải tuân thủ quy định của Luật tố tụng hành chính về thời hiệu khởi kiện, thì trong nhiều trường hợp đương sự sẽ không có quyền yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật trong vụ án dân sự. Khi đó, quy định tại Điều 32a Bộ luật tố tụng dân sự về quyền yêu cầu của đương sự hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật và Thẩm quyền của Tòa án hủy quyết định cá biệt khi đương sự có yêu cầu sẽ không còn ý nghĩa. Do vậy, chúng tôi nhất trí với quan điểm là khi xem xét hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật, Tòa án không căn cứ vào thời hiệu khởi kiện quy định pháp luật tố tụng hành chính.
Điểm Mới Về Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật
Điểm mới về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Điểm mới về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2023 được xây dựng trên cơ sở hợp nhất hai luật, đó là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2004 để áp dụng thống nhất việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên phạm vi cả nước. Luật mới này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2023, gồm 17 chương, 173 điều với nhiều điểm mới quan trọng; cụ thể như về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có sự thay đổi so với luật cũ:
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2023 đã xác định lại nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Cụ thể:
– Đối với luật, nghị quyết của Quốc hội:
Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2023 đã quy định rõ ràng, cụ thể những nội dung Quốc hội phải ban hành luật và những nội dung Quốc hội ban hành nghị quyết. Theo đó, Quốc hội ban hành luật để quy định về tổ chức, bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia…Quốc hội ban hành nghị quyết để quy định việc thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành; tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân…
– Đối với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Nếu như Khoản 1 Điều 12 quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008:”Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật”, thì nay, Điều 16 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2023 đã không còn quy định việc pháp lệnh sau một thời gian thực hiện phải trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật nữa. Đồng thời, bổ sung một số nội dung Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết gồm: Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội; Bãi bỏ pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội…
– Đối với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước:
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định:
“Điều 13. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định”
Còn Luật mới quy định tại Điều 17 như sau:
“Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để quy định:
1. Tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được;
2. Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước”
Như vậy, so với Luật năm 2008 thì Luật mới năm 2023 đã có quy định rõ ràng hơn về thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
– Đối với nghị định của Chính phủ:
Theo Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2023:
“Chính phủ ban hành nghị định để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
3. Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh, tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy banthường vụ Quốc hội”
– Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
“Điều 27. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
2. Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
3. Biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;
4. Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Điều 28. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
2. Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;
3. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương”.
Ngoài ra, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2023 cũng quy định rõ ràng hơn thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước tại Điều 17; bổ sung một số nội dung Chính phủ ban hành Nghị định tại Điều 19; giới hạn nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số chủ thể như Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 18). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 25), Hội đồng nhân dân cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp xã (Điều 30).
Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Pháp Luật Của Cơ Quan Nhà Nước
Hàng năm có rất nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhằm thay thế những văn bản pháp luật cũ, không còn hiệu lực và không phù hợp với thực tế đời sống xã hội nữa.
Có thể mỗi chúng ta đều đã từng nghe rất nhiều đến các loại văn bản pháp luật, tuy nhiên không phải ai cũng biết đến thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cụ thể ra sao.
– Để biết được thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật thuộc về cơ quan nhà nước nào thì trước tiên ta cần hiểu “văn bản pháp luật” là gì?
Văn bản pháp luật hay văn bản quy phạm pháp luật là một loại giấy tờ tồn tai dưới hình thức văn bản với một số đặc điểm cơ bản sau đây:
+ Về nội dung: là các quy tắc xử sự chung, mang tính chất bắt buộc chung phải thực hiện.
+ Về đối tượng áp dụng: Tùy thuộc vào phạm vi điều chỉnh của mỗi văn bản pháp luật mà có đối tượng điều chỉnh là các cá nhân, tổ chức, cơ quan khác nhau có trách nhiệm cũng như nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp từ khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và bắt đầu có hiệu lực.
+ Về phạm vi điều chỉnh: Có thể là trên cả nước, toàn lãnh thổ Việt Nam hoặc cũng có thể chỉ có hiệu lực điều chỉnh trong phạm vi một hay một số đơn vị hành chính nhất định nào đó.
+ Về thẩm quyền ban hành: là các cơ quan nhà nước nói chung và một số người cụ thể có quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói riêng.
+ Những văn bản quy phạm pháp luật này thì sẽ được đảm bảo thực hiện dựa trên chính quyền lực và sức mạnh của Nhà nước.
– Tiếp đến, khi đi vào nội dung chính về thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước thì theo như quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì đối với mỗi văn bản quy phạm pháp luật khác nhau thì thẩm quyền ban hành cũng thuộc về chủ thể khác nhau tương ứng.
Cụ thể như sau:
Cơ quan nhà nước (chủ thể ban hành)Văn bản quy phạm pháp luậtQuốc hội
Hiến pháp, bộ luật, luật, nghị quyết
Ủy ban thường vụ quốc hội
Nghị quyêt liên tịch, nghị quyết, pháp lệnh
Chính phủ
Nghị quyết liên tịch, nghị định
Chủ tịch nước
Lệnh, quyết định
Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Thông tư,
Thông tư liên tịch
Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao
Nghị quyết
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Thông tư, thông tư liên tịch
Viện trưởng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thông tư, thông tư liên tịch
Tổng kiểm toán nhà nước
Quyết định
Hội đồng nhân dân
Nghị quyết
Uỷ ban nhân dân
Quyết định
CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC
1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”
Cơ Quan Nào Có Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Pháp Luật?
Ngày đăng: 16/11/2014 02:46
Trên thế giới chỉ có một số nước quy định về khái niệm văn bản pháp luật (VBPL), trong đó đưa ra 3 tiêu chí xác định: VBPL là văn bản chứa đựng quy tắc chung; do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thông qua; có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần. Đa số các nước quy định hình thức VBPL tương đối đơn giản. Đối với VBPL do cơ quan nhà nước ban hành hầu như các nước chỉ quy định từ 3 đến 4 hình thức văn bản như Hiến pháp, luật, nghị định hoặc quy chế, quy tắc, nếu có thông tư thì chỉ có tính chất hướng dẫn, ít đặt ra các quy phạm mới. Địa phương cũng chỉ ban hành 1 đến 2 hình thức văn bản.
Tại bất cứ quốc gia nào, Nghị viện/Quốc hội, cơ quan đại diện của nhân dân cũng là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Cơ quan hành pháp được ủy quyền ban hành văn bản pháp luật đối với một số lĩnh vực nhất định hoặc được ủy quyền ban hành văn bản trong từng luật cụ thể (Canada, Trung Quốc, Lào…). Rất nhiều nước quy định thẩm quyền ban hành văn bản của chính quyền địa phương (Kyrgyzstan, Lào, Trung Quốc…), thậm chí trao thẩm quyền ban hành văn bản cho đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt (Trung Quốc).
Ở hầu hết các quốc gia, nhiệm vụ chính của cơ quan lập pháp là thẩm tra, xem xét và thông qua luật. Hầu hết các luật được Quốc hội thông qua đều do cơ quan hành pháp trình, thường là do chính Bộ trưởng chịu trách nhiệm soạn thảo sẽ trình. Bên cạnh đó, cơ quan lập pháp có trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật. Ở các nước có Thượng viện và Hạ viện, dự thảo luật phải được cả hai viện đồng ý thông qua trước khi gửi nguyên thủ quốc gia ký.
Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng trình dự luật ra Nghị viện và chịu trách nhiệm đối với dự luật. Các Bộ trưởng sẽ bảo trợ cho dự án luật được thông qua trong từng công đoạn của quy trình lập pháp tại Nghị viện. Các bộ đồng thời được ủy quyền trong từng luật về thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi tiết hướng dẫn luật và chịu trách nhiệm thực thi các đạo luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
Nhiều nước quy định Chính phủ được ủy quyền ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật và tổ chức thi hành pháp luật. Với vai trò là cơ quan thực thi pháp luật, cơ quan hành pháp ngoài việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật còn có thẩm quyền ban hành các văn bản dưới luật (nghị định, quyết định, quy chế) để tổ chức việc thi hành luật. Các nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ chỉ là văn bản hướng dẫn để chấp hành và thi hành luật nên phải căn cứ vào Luật và nội dung quy định phải trong phạm vi luật cho phép. Các văn bản này tồn tại vì nội dung của luật trong nhiều trường hợp không thể quy định chi tiết bởi chúng đòi hỏi những chuyên môn kỹ thuật nhiều hơn khả năng của cơ quan lập pháp. Một số nước quy định Chính phủ được ban hành văn bản dưới luật về những vấn đề chưa được pháp luật quy định, nhưng sau một thời gian kiểm nghiệm trong thực tế phải nâng lên thành luật.
Rất nhiều quốc gia quy định về việc ủy quyền lập pháp cho nhánh hành pháp. Trong đó, điển hình là Hiến pháp của Cộng hòa Pháp quy định rõ các nội dung thuộc thẩm quyền ban hành luật của Quốc hội. Sự tách biệt giữa quyền lập pháp và quyền lập quy được thể hiện rõ trong Hiến pháp. Theo tinh thần này, quyền lập quy không được xem là quyền phái sinh từ quyền lập pháp mà được xem là loại quyền năng riêng của Chính phủ trong việc đặt ra pháp luật để điều chỉnh các vấn đề, các nội dung nằm ngoài phạm vi ban hành luật của Quốc hội (nằm ngoài quyền lập pháp).
Theo: daibieunhandan.vn
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Vấn Đề Liên Quan Đến Việc Xác Định Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Chính Quyền Cấp Tỉnh trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!