Xu Hướng 12/2023 # Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp: Một Chế Định Sai Từ Gốc # Top 20 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp: Một Chế Định Sai Từ Gốc được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Quan điểm có cần người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, pháp nhân hay không được các chuyên gia đặt ra, tuy còn nhiều tranh luận về bản chất pháp lý, nhưng cũng là điều cần bàn, sự tiến bộ nào cũng bắt đầu từ những phản biện.

Là một người hoạt động doanh nghiệp mấy chục năm, tui có suy nghĩ về chế định này như vầy:

Cho dù phân tích dưới góc độ nào, định danh nó là gì, thì cũng phải có người chịu trách nhiệm pháp lý của một pháp nhân, một doanh nghiệp, một công ty.

Tui thành lập doanh nghiệp, làm ông chủ thì tui quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, điều hành doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vậy thì không thể tách rời một ông chủ doanh nghiệp khỏi pháp nhân đó, cho nên chế định người đại điện theo pháp luật được đặt ra để ràng buộc pháp lý về một cái lý đương nhiên.

Cứ mỗi lần sửa Luật Doanh nghiệp (LDN) hay Bộ luật Dân sự (BLDS) thì lại có ý kiến sửa chỗ này vá chỗ kia về chế định “người đại diện theo pháp luật” của pháp nhân/công ty/doanh nghiệp. Bài này sẽ xuất phát từ bản chất của pháp nhân/công ty để chỉ ra rằng chế định ấy thật sự không cần thiết, xa lạ với thế giới và đáng phải bỏ đi toàn bộ.

Bản chất pháp lý của pháp nhân/công ty

Công ty là một loại pháp nhân quan trọng nhất của nền kinh tế. LDN quy định công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tuy nhiên bản chất của pháp nhân là gì là một chuyện rắc rối trong luật Việt Nam.

Pháp nhân ra đời từ thời Đế chế La Mã, về sau ảnh hưởng đến luật giáo hội rồi được tiếp nhận ở châu Âu. Đến nửa sau thế kỷ 19, ba ý tưởng quan trọng nhất về công ty đã được xác lập: (i) tư cách pháp nhân; (ii) có quyền phát hành cổ phiếu; (iii) tính trách nhiệm hữu hạn. Án lệ Salomon v Salomon & Co Ltd [1897] AC 22 đã định hình cách hiểu về bản chất công ty như ta biết ngày nay. Có thể nói sự phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây gắn liền với lịch sử hình thành (luật) công ty.

Trong quá khứ, pháp nhân/công ty không hề có trong luật pháp Á Đông. Người Hoa dùng chữ gongsi (công ty) để gọi Công ty Đông Ấn (British East India Company) từ thập niên 1830. Đến năm 1904 nhà Thanh ban hành luật công ty đầu tiên theo mô hình phương Tây với tên gongsi fa.

Ở Việt Nam, pháp nhân/công ty được người Pháp mang vào từ cuối thế kỷ 19 nhưng chưa kịp bám rễ vào sinh hoạt kinh tế của người Việt thì bị gián đoạn do miền Bắc khởi động quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa từ cuối thập niên 1950. Gần như mọi thành tựu pháp lý thời thuộc địa đều bị hủy bỏ theo Chỉ thị số 772/TATC ngày 10-7-1959 “về vấn đề đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của phong kiến đế quốc”. Kể từ đó bản chất của pháp nhân/công ty gần như bị lãng quên vì nền kinh tế kế hoạch với mô hình xí nghiệp kiểu Liên Xô không cần dùng đến lý thuyết pháp nhân/công ty của tư bản chủ nghĩa.

Ở phương Tây, pháp nhân được ví như con người tự nhiên. Vậy nên luật của họ thường theo mô thức: Pháp nhân/công ty có năng lực chủ thể như một cá nhân. Đúng 20 năm trước, các chuyên gia tư vấn quốc tế một lần nữa mang ý tưởng này vào Việt Nam khi giúp soạn LDN 1999 nhưng đã bị phía ta từ chối tiếp nhận. BLDS 2023 tuy vẫn tránh né mô thức trên nhưng đã mở rộng năng lực chủ thể của pháp nhân bằng quy định rằng năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế (bởi mục đích hoạt động), trừ trường hợp có quy định khác (điều 86.1).

Việc không thừa nhận một cách rõ ràng pháp nhân có năng lực chủ thể như cá nhân đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng tai hại trong tư duy pháp lý nước nhà, mà cụ thể nêu ở đây là chế định “người đại diện theo pháp luật” đã sai từ trong trứng nước.

Pháp nhân/công ty không cần người đại diện theo pháp luật

Theo pháp luật phương Tây, giống một cá nhân, công ty cũng có thể tự mình ký hợp đồng hoặc ủy quyền cho người khác ký thay. Tuy nhiên, công ty là thực thể nhân tạo, do đó nó cần phải hành động thông qua con người bằng xương bằng thịt. Vậy, ai có quyền nhân danh công ty ký hợp đồng có hiệu lực ràng buộc công ty?

Câu trả lời theo luật Việt Nam là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân/công ty. Anh ta có quyền nhân danh pháp nhân “xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Thậm chí BLDS 2005 còn quy định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, chứ không phải chính pháp nhân, có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (điều 143.1). Tuy nhiên cái sai này đã được sửa lại tại điều 138.1 BLDS 2023.

Ngược lại, thông luật (common law) giải quyết vấn đề hoàn toàn khác. Về cơ bản thông luật quy định hành động của (các) cơ quan điều hành (organs) của công ty được coi là của chính công ty đó. Quyền lực của công ty thường được phân cho hai cơ quan theo luật và điều lệ là đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) và hội đồng quản trị (HĐQT). Hai cơ quan này có quyền đương nhiên ký hợp đồng nhân danh công ty(1). Nếu công ty ủy quyền cho người khác, nhân viên bán hàng chẳng hạn, thì công ty là người ủy quyền (principal), còn nhân viên bán hàng sẽ là người được ủy quyền (agent).

Để quy hành động của cơ quan điều hành thành hành động của công ty, thông luật có một lý thuyết gọi là “organic theory” (tạm dịch: lý thuyết tổ chức). Lý thuyết này coi công ty cũng có đầu óc và tay chân như con người. Xác định ai được coi là bộ não và ai là tay chân tương đối phức tạp, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, nhưng chắc chắn ĐHĐCĐ và HĐQT là bộ não còn anh nhân viên bán hành kia nhiều khả năng chỉ là tay chân, hành động theo sự chỉ đạo của bộ não.

Nếu theo logic như trên thì người đại diện theo pháp luật của pháp nhân/công ty trở nên thừa thãi. Hai cơ quan tập thể ĐHĐCĐ và HĐQT, chứ không phải một cá nhân người đại diện theo pháp luật, đóng vai trò là bộ não của công ty. Điều đó lý giải tại sao luật phương Tây không có khái niệm này. LDN của ta cũng học theo ý tưởng giao quyền lực cho các cơ quan của công ty và quy định khá rõ trong từng mô hình quản trị công ty. Những mô hình như vậy tất nhiên không có chỗ cho người đại diện theo pháp luật. (Hãy nhớ lại Luật công ty năm 1990 không có người đại diện theo pháp luật).

Ngược lại, BLDS 2023 tuy có quy định “pháp nhân phải có cơ quan điều hành” (điều 83) nhưng lại không nói rõ hành động của cơ quan điều hành được coi là hành động của pháp nhân. Nhiều luật gia cũng coi cơ quan này là “bộ não” của pháp nhân. Nhưng thật đáng tiếc, do không thực sự hiểu rõ phép so sánh pháp nhân/cá nhân nên BLDS mới thiết kế ra một cơ chế sai như người đại diện theo pháp luật, để rồi được áp dụng sang LDN, gây ra chồng chéo hết sức vô lý.

Doanh nghiệp tư nhân càng không nên có người đại diện theo pháp luật

LDN 2014 định nghĩa doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là “doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Như vậy về mặt pháp lý, DNTN và cá nhân chủ doanh nghiệp ấy là một. Điều này đã trở nên hiển nhiên đến mức ai cũng hiểu. Ấy thế nhưng rắc rối lại xuất phát từ khái niệm “doanh nghiệp”.

“Doanh nghiệp” là một thuật ngữ kinh tế chứ không phải thuật ngữ pháp lý. Nhưng nó lại được đưa vào LDN và định nghĩa “doanh nghiệp là tổ chức…”. Theo đó thì DNTN cũng là “tổ chức”. Phản bác điều này không khó: Nếu cá nhân tôi đăng ký thành lập DNTN rồi cũng một mình, không thuê ai, mua bán nông sản thì cái tính “tổ chức” thể hiện chỗ nào?

Thậm chí, để bảo vệ cho điều này, một cuốn giáo trình luật đã viết: Dù chỉ có một chủ, DNTN là đơn vị kinh doanh dưới hình thức một tổ chức, trong đó có người quản lý điều hành, có người lao động làm công… Chính vì vậy, DNTN vẫn thỏa mãn dấu hiệu cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp nói chung: là một tổ chức.

Thay vì thừa nhận DNTN mang bản chất cá nhân ngay từ đầu, người ta lại xem nó là tổ chức, để rồi tách DNTN ra khỏi chủ của nó như hai thực thể độc lập. Thế nên mới có quy định chủ DNTN có quyền bán, cho thuê DNTN trong khi không thấy có quy định tương tự với công ty.

Một khi đã xếp DNTN vào loại tổ chức thì người ta lại phải hỏi: Tổ chức ấy có tư cách pháp nhân hay không? Câu trả lời chắc chắn là không. Đến đây người ta kết luận chắc nịch rằng DNTN không phải là chủ thể của giao dịch dân sự!? Vì vậy mới có chuyện nực cười, điển hình như tình huống xảy ra trong hoạt động ngân hàng.

Dựa vào BLDS 2023, Thông tư số 39/2023/TT-NHNN về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng quy định chủ thể vay vốn chỉ bao gồm cá nhân và pháp nhân. Do đó, tổ chức không có tư cách pháp nhân như DNTN sẽ không đủ tư cách chủ thể vay vốn. Thay vào đó lại có quy định rằng cá nhân ông chủ DNTN được vay phục vụ cho nhu cầu sử dụng vốn của DNTN do chính ông ta làm chủ!?

Tóm lại, về bản chất pháp lý, DNTN là cá nhân; cá nhân này có năng lực hành vi đầy đủ. Do đó anh ta không có cái gọi là người đại diện theo pháp luật (vì BLDS không xây dựng khái niệm này cho cá nhân có năng lực hành vi đầy đủ).

Thật ra cơ chế người đại diện theo pháp luật có một lịch sử khá thú vị chứ không phải tự nhiên sinh ra. Theo hiểu biết của tác giả, hiện chỉ Việt Nam và Trung Quốc có chế định này mà thôi. Điều này không phải ngẫu nhiên. Đó là thứ cả hai nước học từ mô hình quản lý xí nghiệp dựa trên nguyên tắc “một người quản lý” theo kiểu cơ quan hành chính có từ thập niên 1950 ở Liên Xô. Lẽ ra sau khi chuyển sang cơ chế thị trường, nguyên tắc ấy phải bị xóa bỏ cùng với quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Nhưng tiếc thay, nó lại được giữ lại, mang vào BLDS (rồi sau sang LDN) của cả hai nước và sống cho đến ngày nay.

Như vậy cần phải loại bỏ chế định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân/công ty/doanh nghiệp ra khỏi hệ thống pháp luật Việt Nam. Muốn thế phải bắt đầu thiết kế lại chế định “đại diện” trong luật gốc, tức BLDS 2023, rồi đến tất cả các luật khác có dính tới khái niệm này.

Link bài: Người đại diện theo pháp luật…

(https://www.thesaigontimes.vn/286987/nguoi-dai-dien-theo-phap-luat-cua-doanh-nghiep-mot-che-dinh-sai-tu-goc-.html)

Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp

Luật doanh nghiệp 2014 đã có những thay đổi quan trọng trong quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như: Mở rộng số lượng người đại diện theo pháp luật trong công ty TNHH và Công ty CP, có nhiều quy định tiến bộ về ủy quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp,…

, pháp luật đã mở rộng số lượng người đại diện theo pháp luật trong Công ty Trách nhiệm Hữu hạn và Công ty Cổ phần. Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005, Công ty Trách nhiệm hữu hạn và Công ty Cổ phần chỉ có một người đại diện theo pháp luật của Công ty. Đến Luật doanh nghiệp 2023 điều này đã được thay đổi. Tại khoản 2 Điều 13 Luật 2014 có quy định: ” Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.” Quy định mới này hoàn toàn phù hợp với thời kỳ hội nhập như hiện nay, góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ ba, đối với Công ty Cổ phần, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bỏ đi quy định: “Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác” của Luật doanh nghiệp 2005. Việc bỏ đi quy định này sẽ không làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của cá nhân trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau, đồng thời đáp ứng được các yêu cầu của doanh nghiệp lớn.

Thứ tư, Luật Doanh nghiệp 2014 còn đưa ra nhiều quy định tiến bộ về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Tại Điều 13 Luật doanh nghiệp 2014 có quy định:

” 3. Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền. 4.Trường hợp hết thời hạn ủy quyền theo khoản 3 Điều này mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác thì thực hiện theo quy định sau đây: a) Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc tại doanh nghiệp; b) Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của công ty trở lại làm việc tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 5.Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty. 6.Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty bị tạm giam, kết án tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác theo quy định của Bộ luật hình sự thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty. 7.Trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án có thẩm quyền có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật trong quá trình tố tụng tại Tòa án.”

Những quy định mới này của Luật Doanh nghiệp 2014 được đánh giá cao, mang lại nhiều điểm tiến bộ và tạo điều kiện cho quá trình hoạt động của các Doanh nghiệp.

Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào cần trợ giúp, vui lòng liên hệ ngay với Công ty Luật Thái An để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và chính xác nhất.

Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp Theo Quy Định Pháp Luật

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, công ty là ai ? Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật như thế nào ?

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là ai

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp 2014 được quy định khá nhiều điểm mới so với Luật doanh nghiệp trước đây. Cũng như quy định trong Bộ luật dân sự 2023 về chế định đại diện, người đại diện của doanh nghiệp bao gồm: Người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.

Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân.

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào định nghĩa này rất khó để xác định một người là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Vì người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp cũng có thể được ủy quyền một phần hoặc toàn bộ phạm vi nêu trên. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo các quy định nội bộ của doanh nghiệp cũng có thể không có đầy đủ thẩm quyền theo như định nghĩa.

Do đó, tùy vào từng loại hình doanh nghiệp, để xác định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, còn cần phải lưu ý các quy định sau đây của Luật doanh nghiệp.

Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm sau đây:

– Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;

– Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ quy định tại các điều trên.

Người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH một thành viên

– Người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH một thành viên được ghi nhận trong Điều lệ công ty. Đây là quy định tại điểm g khoản 1 Điều 25 Luật doanh nghiệp 2014.

– Người đại diện theo pháp luật trong công ty TNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác ( khoản 2 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2014).

Người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH hai thành viên trở lên

Người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH hai thành viên trở lên n cũng được ghi nhận trong Điều lệ công ty.

Người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH hai thành viên nếu chỉ có hai thành viên thì trong trường hợp người đại diện theo pháp luật bị tạm giam, kết án tù, trốn khỏi nơi cư trú … thì thành viên còn lại đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của Công ty cho đến khi bầu mới.

Người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần

Tương tự hình thức công ty TNHH, công ty cổ phần cũng phải ghi nhận người đại diện trong Điều lệ.

Trong công ty cổ phần trường hợp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Trường hợp Điều lệ không có quy định khác thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Trường hợp có hơn một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 2 Điều 134 Luật doanh nghiệp 2014).

Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty theo quy định tại khoản 1 Điều 179 Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên, chỉ có Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty Hợp danh có các nhiệm vụ ” Đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác ” theo điểm đ khoản 4 Điều 179 Luật Doanh nghiệp 2014.

Do đó, Người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh là thành viên hợp danh giữ chức vụ hoặc đồng thời giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty và có quyền ” đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác “.

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân

Chủ Doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo quy định tại khoản 4 Điều 185 luật Doanh nghiệp.

Số lượng người đại diện theo pháp luật

So với luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 có điểm tiến bộ hơn khi quy định tăng số người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hơn con số 1 trong một số trường hợp. Khi thành lập doanh nghiệp, cần thống nhất và quy định rõ về số lượng người đại diện theo pháp luật trong hồ sơ, điều lệ để làm cơ sở thực thi.

Số người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH một thành viên, Công ty TNHH hai thành viên trở lên, Công ty Cổ phần

Theo khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Số lượng cụ thể, chức danh quản lý, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật được quy định cụ thể tại Điều lệ doanh nghiệp.

Là 01 trong trường hợp thành viên hợp danh được Hội đồng thành viên bầu làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc hoặc giữ một trong các chức vụ này và Điều lệ công ty quy định của có một trong các chức vụ này có quyền đại diện theo điểm đ khoản 4 Điều 179 Luật doanh nghiệp 2014.

Có thể là 02 thành viên nếu thành viên hợp danh được bầu làm Chủ tịch hội đồng thành viên không đồng thời là Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc mà thành viên hợp danh khác được cử giữ các chức vụ này, đồng thời Điều lệ công ty quy định cả hai chức vụ này đều có thẩm quyền đại diện theo điểm đ khoản 4 Điều 179 Luật doanh nghiệp 2014.

Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một người đại diện theo pháp luật. Vì chỉ có Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp phải luôn đảm bảo có một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam

một * Trường hợp doanh nghiệp chỉ có người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam.

Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền. Trường hợp hết thời hạn ủy quyền mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác thì thực hiện theo quy định sau đây:

+ Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của công ty trở lại làm việc tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

* Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty.

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong một số trường hợp đặc biệt

* Đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty bị tạm giam, kết án tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác theo quy định của Bộ luật hình sự thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty.

* Trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án có thẩm quyền có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

Luật Doanh Nghiệp 2014: Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp

Điều 13. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền.

Trường hợp hết thời hạn ủy quyền theo khoản 3 Điều này mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác thì thực hiện theo quy định sau đây:

a) Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc tại doanh nghiệp;

b) Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của công ty trở lại làm việc tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty.

Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty bị tạm giam, kết án tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác theo quy định của Bộ luật hình sự thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty.

Trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án có thẩm quyền có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

Điều 14. Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm sau đây:

a) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;

b) Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này.

Doanh nghiệp

HÀ NỘI

Địa chỉ: Tòa nhà Anh Minh, 36 Hoàng Cầu, p. Ô Chợ Dừa, quận Đống ĐaĐiện thoại: 02422612929Mobile: 0899.888.404 Email: [email protected]

Người Đại Diện Theo Pháp Luật Theo Luật Doanh Nghiệp

Khó xác định được phạm vi quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của người thứ ba ngay tình. Khi doanh nghiệp có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì doanh nghiệp phải quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của từng người. Nội dung này được thể hiện cụ thể trong Điều lệ Công ty hoặc các văn bản nội bộ khác. Tuy nhiên, việc người thứ ba ngay tình có thể tiếp cận được với các văn bản này là việc rất khó khăn.khi một doanh nghiệp cử nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật. Trong nội bộ doanh nghiệp sẽ có quy định rõ thẩm quyền của mỗi người để tránh chồng chéo và tăng cường hiệu quả quản lý. Tuy nhiên các chủ thể bên ngoài (đối tác…) sẽ khó mà biết được người đại diện mà mình đang đàm phán có thẩm quyền quyết định trong giao dịch mà mình hướng tới hay không.Bên cạnh đó, đứng dưới khía cạnh đảm bảo an toàn trong giao dịch cũng như quyền lợi của đối tác doanh nghiệp, quy định trong Luật doanh nghiệp vẫn chưa giải quyết được sự phân định trách nhiệm của doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong trường hợp người đại diện thực hiện các giao dịch không đúng thẩm quyền. Bản thân đối tác kinh doanh của các công ty này cũng rất khó có cơ chế để kiểm tra xem người đại diện theo pháp luật mà mình đang đàm phán có đầy đủ thẩm quyền để xác lập giao dịch với mình hay không?Luật doanh nghiệp cũng chưa tính đến biện pháp xử lý trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của công ty đã bị bãi nhiệm nhưng cố tình ký hợp đồng nhân danh công ty trong thời gian công ty đang làm thủ tục đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật với cơ quan đăng ký kinh doanh. Cụ thể, tại Điều 63 và Điều 148 của Luật doanh nghiệp đã quy định, hiệu lực của Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng thành viên (công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên) và Đại hội đồng cổ đông (công ty cổ phần) sẽ phát sinh hiệu lực từ thời điểm Nghị quyết, Quyết định đó được thông qua hoặc theo quy định tại chính văn bản đó. Như vậy, trong trường hợp Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng thành viên/Đại hội đồng cổ đông về việc bãi nhiệm người đại diện theo pháp luật cũ và cử người đại diện theo pháp luật mới của công ty có hiệu lực từ thời điểm được thông qua thì người được cử làm đại diện theo pháp luật mới có thẩm quyền đại diện từ thời điểm quyết định đó có hiệu lực. Tuy nhiên, việc cử người đại diện theo pháp luật phải được đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời gian chờ để thay đổi người đại diện mới, người đại diện cũ vẫn có tên trong Hệ thống Thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, trong trường hợp này, nếu đối tác kiểm tra thông tin thông qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia sẽ chỉ biết về người đại diện theo pháp luật cũ, trong khi trên thực tế, kể từ thời điểm Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng thành viên và Đại hội đồng cổ đông được thông qua, người đại diện theo pháp luật cũ đã không còn thẩm quyền đại diện. Chính vì vậy, có thể nói, từ phía đối tác ký kết hợp đồng, họ khó mà biết được thẩm quyền đại diện theo pháp luật của người ký kết hợp đồng với mình đã bị bãi nhiệm, bởi trên thực tế, khi kiểm tra thông tin trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, người ký hợp đồng vẫn nằm trong danh sách người đại diện theo pháp luật của công ty. Vấn đề đặt ra là, trong trường hợp người đại diện theo pháp luật đã bị bãi nhiệm thực hiện các giao dịch nhân danh công ty với các chủ thể khác thì giao dịch đó có ý nghĩa gì với công ty không? Về nguyên tắc, theo quy định của Điều 145 Bộ luật Dân sự 2005, giao dịch này được thực hiện bởi người không có thẩm quyền đại diện thì bản thân chủ thể đó có nghĩa vụ phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hoặc đối tác ký hợp đồng với họ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, dù xảy ra trong trường hợp nào chăng nữa thì các giao dịch nêu trên cũng sẽ gây phiền toái không đáng có cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và bản thân các đối tác cũng sẽ phải chịu những rủi ro và thiệt hại nhất định.

1. Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, Luật Doanh nghiệp mới cần phải có quy định trong trường hợp một doanh nghiệp đăng ký có hơn một người đại diện theo pháp luật như sau:(i) Quy định rõ: “Trong trường hợp doanh nghiệp có hơn một người đại diện theo pháp luật thì thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật phải được thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn… ngày, kể từ ngày có quyết định cử người đại diện theo pháp luật”.(ii) Xác định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong giao dịch với chủ thể khác: “Mọi quy định hạn chế của công ty về phân công thẩm quyền giữa những người đại diện theo pháp luật của mình đều không có hiệu lực đối với bên thứ ba”.Hoặc cụ thể hơn: “Trường hợp người đại diện theo pháp luật xác lập giao dịch vượt ngoài thẩm quyền đại diện được phân công theo quy định của công ty với người thứ ba, thì giao dịch đó vẫn có giá trị đối với doanh nghiệp được đại diện, người đại diện sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp với doanh nghiệp, trừ trường hợp, người thứ ba biết hoặc phải biết người đại diện đó không có thẩm quyền xác lập giao dịch với mình“.Kiện toàn hệ thống Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia để có thể cập nhật một cách chính xác và nhanh chóng nhất thông tin về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, giúp các bên có giao dịch với doanh nghiệp có thể tiếp cận được thông tin một cách chính xác trước khi giao dịch. Tạo ra một thói quen kiểm tra thông tin doanh nghiệp đối với các bên trước khi giao dịch để tránh rủi ro. Đồng thời, Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia cũng là một kênh thông tin để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định được chính xác người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong các mối quan hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.Bên cạnh việc kiên toàn hệ thống thông tin doanh nghiệp trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia thì Luật Doanh nghiệp cũng cần phải bổ sung thêm các quy định theo hướng giảm thiểu rủi ro cho các chủ thể trong nền kinh tế trong giao dịch với người đại diện theo pháp luật đã bị bãi nhiệm và có cơ chế để doanh nghiệp phải cập nhật thông tin lên cơ quan đăng ký kinh doanh ngay khi quyết định có hiệu lực hoặc cần phải tính đến việc, một người chỉ được coi là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khi đã cập nhật sự thay đổi thông tin với cơ quan đăng ký kinh doanh. Có như vậy, quyền lợi của doanh nghiệp cũng như của các đối tác khác của doanh nghiệp mới được đảm bảo, đồng thời cũng không làm mất đi quyền tự quyết về người đại diện của doanh nghiệp.

Quy Định Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Luật Doanh Nghiệp 2023

II. Quy định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Pháp luật có đặt ra yêu cầu đối với người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp: Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Khi chỉ còn lại một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam thì người này khi xuất cảnh khỏi Việt Nam phải ủy quyền bằng văn bản cho cá nhân khác cư trú tại Việt Nam thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền.

1. Người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH một thành viên

Nếu hết thời hạn ủy quyền mà người này chưa trở về Việt Nam và không thực hiện ủy quyền khác thì sẽ xử lý theo hai cách được liệt kê tại khoản 4 Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2023.

Nếu người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không thực hiện ủy quyền hoặc thuộc các trường hợp đặc biệt không thể đại diện cho doanh nghiệp theo khoản 5 Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2023 thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty.

Tùy từng loại hình công ty thì việc quy định người địa diện theo pháp luật lại khác nhau, cụ thể:

2. Người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH hai thành viên trở lên

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật.

Điều lệ công ty cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty. Nếu công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật thì Điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Điều này được khẳng định tại điểm g khoản 1 Điều 24 Luật Doanh nghiệp 2023 cụ thể: Điều lệ công ty quy định số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; phân chia quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong trường hợp công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật.

3. Người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần

Công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật.

Cũng giống như Công ty TNHH một thành viên, số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật được quy định tại Điều lệ của công ty.

Trong trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty chết, mất tích, đang bị truy cứu trách nhiệm bình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, trốn khỏi nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 6 Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2023).

Công ty cổ phần lên có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật.

Cúng tương tự như Công ty TNHH, số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật được quy định tại Điều lệ của công ty.

4. Người đại diện theo pháp luật của Công ty hợp danh

Trường hợp công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Trường hợp Điều lệ chưa có quy định thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Trường hợp công ty có hơn một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty (khoản 2 Điều 137 Luật Doanh nghiệp năm 2023).

5. Người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp tư nhân

Do tính chất đối nhân của mình nên việc quy định người địa diện theo pháp luật của Công ty hợp danh cũng khác với các loại hình công ty khác. Cụ thể:

Các thành viên hợp danh là người đại diện theo pháp luật của công ty và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty (khoản 1 Điều 184 Luật Doanh nghiệp năm 2023).

Do doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và tài sản không có sự tách bạch với tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân nên doanh nghiệp tư nhân không được nhân danh chính mình để tham gia hoạt động tố tụng với tư cách độc lập mà tham gia với tư cách là chủ doanh nghiệp tư nhân.

Cập nhật thông tin chi tiết về Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp: Một Chế Định Sai Từ Gốc trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!