Bạn đang xem bài viết Những Tranh Chấp Và Yêu Cầu Về Dân Sự Thuộc Thẩm Quyền Giải Quyết Của Tòa Án được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Về nguyên tắc, tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự đối với những vụ việc dân sự phát sinh trong quan hệ pháp luật dân sự do pháp luật dân sự điều chỉnh.
Những tranh chấp và yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại điều 26, điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2023.
1. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại điều 26 BLTTDS năm 2023 bao gồm:
– Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
Ví dụ: A (quốc tịch Việt Nam) kết hôn với B (quốc tịch Hoa kỳ). C là con của A và B sinh ra ở Anh. A và B tranh chấp về việc đặt quốc tịch cho C.
– Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
Bao gồm tranh chấp các quyền về chiếm hữu, sử dụng định đoạt hoặc tranh chấp về bồi thường thiệt hại với tài sản. Trong trường hợp đối tượng của việc tranh chấp là các vật khác nhau của thế giới vật chất nhưng không phải tài sản theo quy định của pháp luật dân sự thì tòa án không có thẩm quyền thụ lý giải quyết.
Ví dụ: A cho B mượn 1 chiếc xe máy hon da mang biển kiểm soát 78 – H1 20097, B sau một thời gian sử dụng đã cố ý không trả lại cho A và ngang nhiên cho rằng đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, A kiện B ra tòa để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
– Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
Ví dụ: A và B hợp đồng kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa về linh kiện điện tử, A là bên bán, đã có hành vi giao hàng chậm hơn thỏa thuận của hợp đồng 10 ngày và không đủ số lượng hàng, hai bên không thỏa thuận được với nhau để giải quyết, B kiện ra tòa yêu cầu A giao đủ số lượng hàng hóa trong hợp đồng và yêu cầu A bồi thường tổn thất cho B.
– Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 30 của Bộ luật này.
Ví dụ: A là một ca sĩ nổi tiếng, A có sáng tác 1 bài hát đã đăng ký quyền tác giả. B cũng là một nghệ sĩ, B đã sử dụng bài hát của A để trình diễn nhiều nơi mà không được sự cho phép của A. Do đó, A kiện B ra tòa vì B đã xâm phạm quyền tác giả đối với bài hát mà A đã sáng tác.
– Tranh chấp về thừa kế tài sản.
Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về thừa kế như yêu cầu tòa án buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản thừa kế. Xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
Ví dụ: A con ruột của B, A là người bị mất khả năng lao động do mắc bệnh bại liệt, B mất để lại di chúc trong di chúc B không để lại di sản cho A nên những người thừa kế cùng hàng với A không chấp nhận chia tài sản cho A. A kiện ra tòa với lí do A là người được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc và được hưởng 2/3 một suất thừa kế.
– Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Ví dụ: A đá bóng ngoài lề đường, vô ý đá quả bóng vào gian hàng bán quà lưu niệm của B, làm một số quà lưu niệm bị vỡ, sự kiện đó làm phát sinh việc bồi thường ngoài hợp đồng giữa A và B.
– Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.
– Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
Thứ nhất, về tranh chấp đất đại theo quy định của pháp luật về luật đất đai năm 2013 Theo quy định tại K24 Đ3: Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Thứ hai, tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng được quy định tại điều 84 Luật bảo vệ và phát triển rừng
Điều 84. Giải quyết tranh chấp 1. Các tranh chấp về quyền sử dụng rừng đối với các loại rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng do Toà án nhân dân giải quyết. Các tranh chấp về quyền sử dụng đất có rừng, đất trồng rừng được áp dụng theo quy định của pháp luật về đất đai.
Ví dụ: A và B có hai thửa đất liền kề nhau, A có hành vi lấm chiếm đất của B, sau đó A khẳng định phần đất mà A đã lấn chiếm thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình, B kiện ra tòa để giải quyết.
Ví dụ: A là ca sĩ đang rất nổi tiếng, B là một nhà báo đưa tin thất thiệt về việc A đạo nhạc của người khác. Sau khi A phản ánh B không thực hiện việc cải chính, nên A kiện ra tòa để giải quyết.
Ví dụ: A có mua 1 căn nhà, đã làm hợp đồng mua bán công chứng và đã sang tên A. Nhưng khi đến nhận nhà theo hợp đồng thì bên bán không giao nhà và khởi kiện A ra tòa yêu cầu hủy hợp đồng mua bán, tòa thụ lý, tới ngày ra tòa thì bên bán rút đơn, tòa ra quyết định đình chi vụ án. Sau đó, bên bán lại khởi kiện với yêu cầu là “tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu” Từ những quy định trên, có thể khẳng định việc bên bán khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên văn bản công chứng vô hiệu không trái pháp luật, bên bán có quyền khởi kiện (Điều 52 Luật công chứng năm 2014)
Ví dụ: Vợ chồng AB nhận chuyển nhượng căn nhà của anh C, đã hoàn tất việc sang tên quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Do có nhu cầu vay vốn để kinh doanh vợ chồng AB đã thế chấp nhà cho Ngân hàng, việc thế chấp có lập hợp đồng công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do làm ăn không thuận lợi nên vợ chồng AB không có khả năng trả nợ, Ngân hàng đã khởi kiện và chi cục thi hành án đã cưỡng chế xử lý tài sản thế chấp của vợ chồng tAB để thu hồi nợ. Lúc này thì có anh M có đơn tranh chấp với lý do anh C nợ tiền của anh và hứa bán nhà sẽ trả nợ để không đồng ý cho chi cục thi hành án bán nhà trên để thi hành án.
Trường hợp này tài sản bị cưỡng chế thi hành án có tranh chấp giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 75 luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.
– Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự quy định tại điều 102 luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014
Điều 102: Hủy kết quả bán đấu giá tài sản. 1. Việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản; trường hợp kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy thì việc xử lý tài sản để thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật này. 2. Người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản. 3. Việc xử lý hậu quả và bồi thường thiệt hại do kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy được giải quyết theo quy định của pháp luật.
– Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
2 Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được quy định tại Điều 27 BLTTDS 2023 bao gồm:
– Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
– Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó.
– Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
– Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
– Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
– Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
– Yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
– Yêu cầu công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ, công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 470 của BLTTDS 2023.
– Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
– Các yêu cầu khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Thẩm Quyền Của Tòa Án Về Yêu Cầu Hủy Quyết Định Cá Biệt Trong Vụ Án Dân Sự
Điều 32a của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định:
“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Toà án có quyền hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng.
3.Toà án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Điều này.”
Ngày 6/1/2014, TANDTC – VKSNDTC – Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành điều luật này.
Để khắc phục những hạn chế đã nêu, BLTTDS năm 2023 đã có sự sửa đổi về nội dung của điều luật quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định hành chính cá biệt của cơ quan, tổ chức. Điều 34 quy định thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức như sau:
4.Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
So với quy định tại Điều 32a của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì quy định tại Điều 34 của BLTTDS năm 2023 đã có sự thay đổi về nội dung, cụ thể: Khoản 1 của Điều 34 đã thay cụm từ “quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật” thành cụm từ “quyết định cá biệt trái pháp luật”; khoản 2 của Điều 34 đã bỏ cụm từ “quyết định cá biệt bị yêu cầu hủy” mà bổ sung cụm từ “phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó”. Với việc sửa đổi nội dung điều luật như vậy, có thể hiểu rằng từ ngày BLTTDS năm 2023 có hiệu lực pháp luật thì Tòa án có thẩm quyền xem xét hủy quyết định cá biệt trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà không cần phải có yêu cầu của đương sự, đây cũng là trách nhiệm bắt buộc của Tòa án để đảm bảo giải quyết triệt để vụ việc dân sự. Và thủ tục xem xét hủy quyết định cá biệt này là theo các quy định của BLTTDS chứ không phải Luật tố tụng hành chính – ngoại trừ việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với quyết định cá biệt; quy định này cũng cho thấy việc nêu ra yêu cầu hủy quyết định (hành chính) cá biệt là vụ án hành chính chứ không phải vụ án dân sự. Vì vậy, theo tác giả thì việc đương sự yêu cầu hủy quyết định cá biệt không phải là căn cứ để Tòa án thụ lý trong vụ án dân sự, mà Tòa án chỉ xem xét thụ lý việc hủy quyết định cá biệt, đưa cơ quan, tổ chức người ban hành quyết định cá biệt vào tham gia tố tụng khi trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nếu Tòa án tự mình xét thấy quyết định cá biệt có dấu hiệu trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ví dụ: Trong vụ án “Tranh chấp yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” khi phát hiện bên chuyển nhượng sau khi viết ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho mình nhưng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, lại đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp ngân hàng để vay tiền nên bên nhận chuyển nhượng yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bên chuyển nhượng (trong khi pháp luật quy định điều kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất là bên chuyển nhượng phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); hay vụ án tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng mà tài sản đó là quyền sử dụng đất chỉ có 1 bên vợ (chồng) đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bên không đứng tên trên giấy chứng nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận đứng tên bên kia (trường hợp này nếu xác định đây là tài sản chung thì Tòa án vẫn chia bình thường, rồi căn cứ vào bàn án đương sự sẽ yêu cầu cơ quan hành chính cấp Giấy chứng nhận mới cho phần mình được chia). Thường gặp nhất là đương sự trong các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất luôn có yêu cầu hủy giấy chứng nhận cấp cho bên kia vì cho rằng đã cấp chồng lấn lên đất mình… Trong các trường hợp trên, Tòa án cấp huyện đang giải quyết vụ án sẽ quyết định chuyển ngay hồ sơ vụ án đến Tòa án cấp tỉnh, thậm chí nếu đương sự không biết, không nêu ra thì có Thẩm phán còn “vẽ” cho đương sự nêu ra yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sự dụng đất để né tránh việc giải quyết vụ án.
Điều này dẫn đến số lượng vụ việc dân sự chuyển thẩm quyền đến Tòa án tỉnh nhiều, không đảm bảo quy định của Điều 34 của BLTTDS năm 2023. Và việc Tòa án thụ lý theo yêu cầu của đương sự nên đã đưa cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền vào tham gia tố tụng mà chưa xem xét tính trái pháp luật của quyết định cá biệt bị yêu cầu hủy và yêu cầu hủy quyết định cá biệt của đương sự là có cơ sở hay không, từ đó gây mất thời gian cho các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước.
Vì vậy, theo tác giả cần hiểu điều luật quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức là yêu cầu của đương sự về việc hủy quyết định cá biệt trong vụ việc dân sự không phải là căn cứ để Tòa thụ lý và cũng không phải là căn cứ để chuyển thẩm quyền giải quyết vụ án. Khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự có hay không có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thì Tòa án không chuyển ngay hồ sơ vụ án đến Tòa án cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 4 Điều 34 của BLTTDS mà cần tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự, trong quá trình giải quyết, thu thập, đánh giá chứng cứ có cơ sở xác định quyết định cá biệt trái pháp luật thì chuyển hồ sơ đến Tòa án cấp có thẩm quyền để giải quyết vụ án, nếu không có căn cứ xác định quyết định cá biệt đó trái pháp luật thì tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự theo thẩm quyền của Tòa.
Hiểu như thế là phù hợp với xu hướng của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2023 về tăng thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện; sẽ khắc phục được nhiều hạn chế, cụ thể: Một là, không gây mất thời gian, tốn kém, lãng phí tiền của và công sức của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định cá biệt và của cả đương sự, vì khi vụ án được chuyển đến TAND cấp tỉnh thì đương sự phải di chuyển xa để tham gia tố tụng do nơi phát sinh tranh chấp xa TAND cấp tỉnh; Hai là, tạo điều kiện thuận lợi để Tòa án giải quyết nhanh các vụ việc dân sự, do khi đương sự ở xa thì TAND cấp tỉnh gặp nhiều khó khăn trong việc tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng cho đương sự, các thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ như xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản gây mất thời gian cho Thẩm phán, có nhiều vụ án dân sự khi đi xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản phải mất thời gian một ngày, trong khi số lượng vụ án các loại mà Thẩm phán phải giải quyết nhiều; Ba là, tránh tình trạng “lách thời hiệu”, nghĩa là đối với yêu cầu hủy quyết định hành chính, theo quy định của Luật tố tụng hành chính hiện nay thì thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính là một năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính (Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2023), nhưng nhiều trường hợp đương sự khởi kiện vụ án hành chính bị Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hành chính vì lý do hết thời hiệu khởi kiện, sau đó đương sự khởi kiện vụ án dân sự và yêu cầu Tòa án hủy quyết định hành chính cá biệt mà Tòa án vẫn thụ lý giải quyết là đã phủ nhận quy định “về thời hiệu khởi kiện” đối với quyết định hành chính theo quy định của luật tố tụng hành chính.
Trong nội dung hướng dẫn này, TANDTC vẫn sử dụng cụm từ “phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt “, nên cũng là một nguyên nhân quan trọng làm phát sinh cách hiểu và áp dụng luật như thực trạng nêu trên. Để việc áp dụng điều luật đúng quy định, tránh người áp dụng hiểu theo nhiều cách khác nhau thì TANDTC cần có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng và thống nhất với quy định của điều luật.
Bàn Về Thẩm Quyền, Trình Tự Giải Quyết Tranh Chấp Dân Sự Có Yêu Cầu Hủy Quyết Định Cá Biệt (Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất)
Theo quy định tại Điều 34 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2023 quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức:
“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và trình bày ý kiến của mình về quyết định cá biệt bị Tòa án xem xét hủy.
4. Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.”
Theo giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2023 của Tòa án nhân dân tối cáo hướng dẫn:
Trường hợp quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và phải hủy quyết định đó mới bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà việc hủy quyết định đó không làm thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tiếp tục giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.
Trường hợp việc xem xét hủy quyết định đó dẫn đến thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý giải quyết vụ việc dân sự phải chuyển vụ việc cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.
Thực tiễn, hiện nay có tình trạng khi đương sự nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự kèm theo yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thì Tòa án cấp huyện hướng dẫn đương sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án cấp tỉnh. Một số trường hợp đang giải quyết vụ án dân sự khi đương sự có đơn yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thì Tòa án cấp huyện chưa xem xét tính hợp pháp của các quyết định các biệt bị yêu cầu hủy đó đã chuyển thẩm quyền giải quyết vụ việc cho Tòa án cấp tỉnh. Việc này đã làm cho số lượng vụ việc giải quyết theo trình tự sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh tăng lên, mặt khác còn gây khó khăn cho các đương sự trong vụ án, nhiều trường hợp Tòa án cấp tỉnh chuyển trả hồ sơ do không xác định đúng thẩm quyền làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, gây bức xúc cho người dân.
Qua đây một vấn đề cần được trao đổi đó là: Tòa án cấp huyện hay Tòa án cấp tỉnh sẽ thụ lý vụ án dân sự khi đương sự có kèm theo yêu cầu hủy quyết định cá biệt và thời điểm Tòa án cấp huyện chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thẩm quyền.
Trong quá trình giải quyết tại Tòa án cấp huyện khi có căn cứ xác định quyết định cá biệt trái pháp luật và cần phải hủy mới đảm bảo quyền lợi, ích hợp pháp cho các đương sự thì Tòa án đang thụ lý giải quyết phải chuyển cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết và xem xét hủy quyết định đó. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật chưa quy định rõ thời điểm và thẩm quyền chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thẩm quyền, chưa quy định rõ tại phiên tòa Hội đồng xét xử cho rằng quyết định cá biệt trái pháp luật và cần phải hủy thì Hội đồng xét xử có thẩm quyền chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh hay không.
Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại Và Việc Xác Định Thẩm Quyền Của Tòa Án Đối Với Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại
Để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói chung, kinh doanh thương mại nói riêng, Tòa án phải dựa vào yêu cầu cụ thể của người khởi kiện để xác định quan hệ pháp luật mà đương sự tranh chấp. Từ đó, đối chiếu với các quy định về thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) để xác định yêu cầu khởi kiện của đương sự có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay không. Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung (điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên) trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự.
Tuy nhiên, thực tiễn xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về kinh doanh thương mại không hề dễ dàng bởi các lý do sau: (1) Tùy từng thời kỳ phát triển khác nhau mà cơ quan lập pháp quy định một số quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng quy phạm kinh doanh thương mại; một số quan hệ xã hội khác thì chưa nên không phải cứ có tranh chấp sẽ dễ dàng xác định được quan hệ pháp luật tranh chấp về kinh doanh thương mại; (2) Cùng một quan hệ xã hội nhưng lại thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Mặc dù, mỗi ngành luật đều có những quy định để phân biệt quan hệ pháp luật nào thuộc ngành luật nào điều chỉnh như về chủ thể tham gia quan hệ, mục đích chủ thể, đối tượng của giao dịch… nhưng việc phân biệt cũng không hề dễ dàng; (3) Một số văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về kinh doanh thương mại có quy định phạm vi các giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh nhưng lại quy định một cách chung chung, mang tính mở nên khi có tranh chấp xảy ra để xác định chúng có thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật này hay không cũng gây ra những khó khăn, vướng mắc nhất định; (4) Một số trường hợp do văn bản quy phạm pháp luật nội dung về kinh doanh thương mại không xác định rõ giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh của mình nên để xác định cần dựa vào luật tố tụng (BLTTDS). Bên cạnh việc quy định thẩm quyền theo vụ việc, BLTTDS còn quy định thẩm quyền theo lãnh thổ để phân chia việc giải quyết án giữa Tòa án các cấp, giữa các Tòa chuyên trách với nhau được tương xướng nhưng trong nội dung hướng dẫn thẩm quyền theo lãnh thổ lại giải thích thêm thẩm quyền theo vụ việc.
1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tranh chấp kinh doanh thương mại và thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại
Khác với việc xác định các quan hệ tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình và lao động chủ yếu dựa vào luật nội dung, sau đó đối chiếu với quy định về thẩm quyền theo vụ việc do BLTTDS quy định để xác định tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về kinh doanh thương mại lại dựa vào quy định của luật tố tụng, cụ thể là BLTTDS và Phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP).
Nội dung của Điều 29 BLTTDS được cụ thể hóa tại mục 3 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP. Theo đó, “hoạt động kinh doanh thương là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại”. Đối với mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại được hướng dẫn “là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó”. Đối với việc chủ thể có đăng ký kinh doanh hay không dựa vào quy định của Luật Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Về thẩm quyền theo cấp Tòa án, sau khi xác định được tranh chấp kinh doanh thương mại bên trên đối chiếu với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 và điểm a khoản 1 Điều 34 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 để xác định. Theo đó, tất cả các tranh chấp quy định tại khoản 1 Điều 29 đều thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện. Những tranh chấp thuộc các khoản 2, 3 và 4 Điều 29 và trường hợp có đương sự, tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh.
Đối với thẩm quyền của các Tòa chuyên trách thuộc TAND cấp tỉnh, dựa vào quy định của BLTTDS và điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP thì Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận.
2. Một số vướng mắc, bất cập
Mặc dù, quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tranh chấp kinh doanh thương mại cũng như thẩm quyền của Tòa án đối với loại tranh chấp này tương cụ thể nhưng qua thực tiễn áp dụng đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập sau:
2.1. Về việc xác định tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc khoản 1 Điều 29 BLTTDS
Quy định tại Điều 29 BLTTDS quy định rất rõ việc xác định quan hệ tranh chấp nào là tranh chấp kinh doanh thương mại. Theo đó, khi có một trong các loại tranh chấp quy định tại các khoản từ 1 đến 4 của Điều 29 như phân tích bên trên thì tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong đó, quy định tại khoản 4 Điều 29 là quy định mở. Chỉ khi có một văn bản quy phạm pháp luật xác định quan hệ đó là tranh chấp kinh doanh thương mại thì Tòa án vận dụng khoản 4 Điều 29 để thụ lý, giải quyết. Quy định tại khoản 4 Điều 29 BLTTDS có thể dẫn đến các trường hợp sau: (1) tranh chấp giữa các bên có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận nhưng chưa được quy định tại khoản 1 Điều 29; (2) tranh chấp giữa các bên mà cả hai cùng có mục đích lợi nhuận nhưng chỉ một bên có đăng ký kinh doanh hoặc cả hai đều không có dăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, dù thuộc trường hợp (1) hay (2) thì văn bản đó phải chỉ rõ đó là tranh chấp kinh doanh thương mại. Ngoài các tranh chấp được quy định tại Điều 29 BLTTDS thì có thể khẳng định không còn tranh chấp nào khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, khi phân định thẩm quyền cho các Tòa chuyên trách thuộc TAND cấp tỉnh, điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP lại xác định, bên cạnh nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS, Tòa Kinh tế lại có thẩm quyền giải quyết “các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. Từ quy định này có thể hiểu, ngoài các tranh chấp quy định tại Điều 29 BLTTDS thì còn có các tranh chấp về kinh doanh thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận. Chúng tôi cho rằng, hướng dẫn này đã vượt quá phạm vi quy định tại Điều 29 BLTTDS và không phù hợp. Bởi các lý do:
Thứ nhất, nếu có các loại tranh chấp khác được xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại nhưng không được liệt kê tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 29 BLTTDS thì sẽ vận dụng khoản 4 Điều 29 để áp dụng.
Thứ hai, trường hợp một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận được xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại khi chúng thuộc một trong các tranh chấp thuộc khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 29 cho nên không thể có tranh chấp nào là tranh chấp kinh doanh thương mại mà chỉ có một trong các bên không có đăng ký kinh doanh lại không thuộc Điều 29 BLTTDS.
Chính sự hướng dẫn không rõ ràng này mà trong thực tiễn việc vận dụng quy định của pháp luật để xác định thẩm quyền của Tòa án có những quan điểm khác nhau. Chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên 02 ví dụ về vụ án tranh chấp hợp đồng vận chuyển và vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng để chứng minh.
Ví dụ thứ nhất: Ngày 05/10/2011, Công ty trách nhiệm hữu hạn MH (viết tắt là Công ty MH, trụ sở tại khóm VT1, phường NS, thị xã C, tỉnh A) có thỏa thuận với Nguyễn Văn A (cá nhân, không đăng ký kinh doanh, cư trú tại khóm 1, phường A, thị xã C, tỉnh A) để A vận chuyển hàng cho Công ty MH từ bến phà C thuộc khóm 1, phường A thị xã C bằng xe ô tô thuộc sở hữu của A. Hai bên có lập hợp đồng thể hiện với nội dung: A vận chuyển hàng cho Công ty MH theo chuyến. Khi Công ty MH yêu cầu, tiền thuê vận chuyển mỗi chuyến là 2.500.000 đồng. Vào ngày 15/03/2012, khi A vận chuyển 15 tivi LCD 32 inches theo yêu cầu của Công ty MH đến cầu số 3 thì hàng bị rớt vì A không chằng hàng tốt. Khi A giao hàng đến Công ty TNHH B (đối tác của Công ty MH) thì xác định 06 tivi bị hư hỏng với thiệt hại là 36.000.000 đồng. Sau khi hai bên thương lượng bồi thường không xong, Công ty MH kiện A đến TAND thị xã C, tỉnh A. Việc Công ty A kiện C hiện có 02 quan điểm khác nhau trong việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, quan hệ pháp luật tranh chấp giữa Công ty MH với A là tranh chấp về hợp đồng dân sự vận chuyển tài sản theo quy định tại Điều 535 Bộ luật Dân sự bởi vì chỉ có Công ty MH có đăng ký kinh doanh, còn A không có đăng ký kinh doanh. Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 33 và điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã C. Ý kiến khác lại cho rằng, quan hệ tranh chấp giữa Công ty MH với A là tranh chấp về hợp đồng kinh doanh thương mại vận chuyển hàng hóa theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS. Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP thì vụ án này thuộc thẩm quyền của Tòa Kinh tế TAND tỉnh A vì mặc dù A không có đang ký kinh doanh nhưng cả hai cùng có mục đích lợi nhuận.
Dựa vào các quy định phân tích bên trên, chúng tôi thống nhất với quan điểm thứ nhất. Bởi vì, hợp đồng mà A và Công ty MH ký kết là Hợp đồng vận chuyển thuộc điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS. Mục đích lợi nhuận trong vụ án này đã rõ. Đối với tư cách chủ thể, theo như phân tích bên trên, nếu cả hai cùng có đăng ký kinh doanh thì khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này xảy ra thì tranh chấp giữa các bên mới là tranh chấp kinh doanh thương mại. Trong khi đó, A chưa đáp ứng về mặt chủ thể nên quan hệ pháp luật tranh chấp giữa hai bên là tranh chấp về dân sự và thuộc thẩm quyền của TAND thị xã C.
Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền trong vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng tại các tổ chức tín dụng khi một bên là cá nhân không có đăng ký kinh doanh nhưng có mục đích lợi nhuận cũng gặp khó khăn tương tự.
Ví dụ thứ hai: Theo đơn khởi kiện ngày 26/4/2012 của Ngân hàng B, Chi nhánh Ngân hàng B tại huyện A có cho ông N.T.B (không đăng ký kinh doanh) vay số tiền ba trăm triệu đồng, thời hạn vay 12 tháng (từ ngày 16/6/2011 đến 18/6/2012), lãi suất 21%/năm; mục đích vay bổ sung vốn kinh doanh để mua bán đồ may sẵn (theo Hợp đồng tín dụng số 01/HĐ/2011 ngày 16/6/2011). Khi vay, ông B có thế chấp quyền sử dụng đất (đã được cấp quyền sử dụng cho ông B). Sau khi vay, ông B trả lãi đến ngày 16/12/2011 rồi ngưng. Vì vậy, Ngân hàng B khởi kiện yêu cầu ông B trả nợ và duy trì hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho việc thi hành án. TAND huyện A đã thụ lý giải quyết vụ án với quan hệ tranh chấp là tranh chấp kinh doanh thương mại. Việc thụ lý, giải quyết của TAND huyện A có 2 quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu bên vay trong hợp đồng tín dụng có mục đích lợi nhuận thì khi các bên có tranh chấp đó là tranh chấp kinh doanh thương mại mà không bắt buộc bên vay phải có đăng ký kinh doanh. Nếu bên vay không có đăng ký kinh doanh và mục đích vay là để tiêu dùng thì đó là tranh chấp dân sự nên việc TAND huyện A thụ lý giải quyết là đúng. Ý kiến khác lại cho rằng, theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 29 của BLTTDS thì tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyêt của Tòa án. Do đó, tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa cá nhân không có đăng ký kinh doanh với ngân hàng là tranh chấp dân sự mà không phân biệt tranh chấp giữa cá nhân và ngân hàng đó có mục đích lợi nhuận hay không có mục đích lợi nhuận. Hiện nay, trên thực tiễn các Tòa án giải quyết các vụ án từ hợp đồng tín dụng vẫn áp dụng như quan điểm thứ nhất.
Chúng tôi cho rằng, tranh chấp hợp đồng tín dụng được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 29 cho nên tranh chấp hợp đồng phải đảm bảo tiêu chí mà nội dung của khoản này quy định là các bên phải có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận. Thêm vào đó, nghiên cứu quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2011 cũng như Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 được sửa đổi, bổ sung năm 2004, không có quy định nào quy định về loại quan hệ tranh chấp từ hợp đồng tín dụng như tranh chấp trên là tranh chấp kinh doanh thương mại để áp dụng khoản 4 Điều 29 BLTTDS thụ lý, giải quyết. Vì vậy, hiểu theo quan điểm thứ nhất là phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo Đơn khởi kiện ngày 25/10/2010, người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH Thương mại H (viết tắt là Công ty H) ông N cho rằng, vào năm 2009, ông N cùng với ông M thành lập Công ty H với 2 thành viên sáng lập, được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh B. cấp Giấy phép hoạt động vào ngày 10/7/2009; trụ sở Công ty được đặt tại số 22, đường T, khóm C, phường C, thị xã T, tỉnh B. Ông N được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Công ty; ông M giữ chức Phó Giám đốc Công ty. Đến tháng 10/2009, Công ty mở chi nhánh ở tỉnh L. (viết tắt là Chi nhánh tỉnh L); địa chỉ: số 13, đường N, phường A, thành phố G, tỉnh L (cũng là nơi cư trú của ông M). Ông M. được bổ nhiệm làm Giám đốc Chi nhánh. Trong quá trình hoạt động, từ tháng 7/2009 đến tháng 3/2010, Công ty H có chuyển cho Chi nhánh tỉnh L. tổng số tiền 1,5 tỉ đồng bao gồm: chuyển qua tài khoản cá nhân của ông M. năm trăm triệu đồng; chuyển nhận hàng 02 lần với số tiền 1 tỉ đồng. Sau đó, ông M có chuyển về Công ty với số tiền 350 triệu đồng (tính đến tháng 4/2010), còn lại 1,15 tỉ đồng, ông M không chuyển về Công ty mà giữ lại để nhận hàng. Nhưng đến tháng 3/2010, ông M. báo lại là không còn tiền để hoạt động. Trong thời gian Chi nhánh tỉnh L. hoạt động, ông N. đã nhiều lần yêu cầu ông M. báo cáo hoạt động của Chi nhánh về Công ty nhưng ông M. không thực hiện. Đến ngày 01/6/2010, ông N. có gửi thông báo yêu cầu ông M. trả lời nhưng ông M. vẫn không thực hiện. Vì vậy, ông N. đại diện cho Công ty yêu cầu ông M. giải trình về số tiền 1,15 tỉ đồng mà Công ty đã đầu tư cho Chi nhánh tỉnh L. hoạt động. Nếu không giải trình được thì ông M. phải trả lại số tiền 1,15 tỉ đồng cho Công ty.
Vào ngày 10/8/2010, TAND tỉnh B thụ lý đơn khởi kiện của Công ty H và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “tranh chấp công ty với thành viên công ty, đòi tài sản”. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông M. thừa nhận có nhận tiền từ Công ty H. như ông N. trình bày nhưng không chấp nhận yêu cầu kiện của Công ty vì số tiền đó ông M. đã dùng vào hoạt động của Chi nhánh tỉnh L. Ngày 21/02/2011, TAND tỉnh B ban hành Quyết định chuyển vụ án số 201 chuyển vụ án đến TAND thị xã T. giải quyết theo thẩm quyền với nhận định: (1) Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa Công ty H. với ông M. là tranh chấp dân sự “đòi tài sản” theo khoản 3 Điều 25 BLTTDS nên không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh B; (2) Ngày 10/10/2011, đại diện Công ty H. có đơn yêu cầu chọn TAND thị xã T. giải quyết tranh chấp. Do đó, vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã T.
Trường hợp ông M. tham gia với tư cách thành viên Công ty (Giám đốc Chi nhánh) thì việc TAND tỉnh B căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36 BLTTDS để xác định nguyên đơn được chọn TAND thị xã G. để giải quyết cũng không phù hợp. Bởi vì, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36 BLTTDS chỉ áp dụng khi tổ chức và chi nhánh của tổ chức cùng là bên bị kiện chứ không bao hàm trường hợp bên khởi kiện là tổ chức và bên bị kiện là chi nhánh của tổ chức như TAND tỉnh B. xác định. Cho nên, trong trường hợp này thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn không được chấp nhận. Do đó, việc TAND tỉnh B. chuyển vụ án cho TAND thị xã T. giải quyết là không đúng thẩm quyền mà phải chuyển cho TAND thành phố G., tỉnh L.
2.3. Việc giải thích thuật ngữ tranh chấp kinh doanh thương mại
Tuy nhiên, việc giải thích thuật ngữ “hoạt động kinh doanh thương mại” trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP cũng chưa tương tích với quy định của luật chuyên ngành. Sự khác nhau này được thể hiện qua bản so sánh sau:
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005:
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005:
“Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.”
Theo khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997:
Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội
Theo khoản 3 Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999:
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Theo tiểu mục 3.3 mục 3 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP:
Hoạt động kinh doanh thương là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại
Qua bảng so sánh trên, chúng ta thấy, khái niệm “hoạt động kinh doanh thương mại” trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP tương thích với khái niệm hoạt động thương mại được quy định tại khoản 2 Điều 5 và Điều 45 (liệt kê 14 hành vi thương mại)[1] Luật Thương mại năm 1997 bởi vì khi đó Luật Thương mại năm 1997 đang có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm “hoạt động kinh doanh thương mại” trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP chưa bao hàm khái niệm kinh doanh như quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999 vì thời điểm đó Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng đang có hiệu lực. Nếu cho rằng, nội dung “… Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại” bên cạnh “hành vi thương mại” trong khái niệm “hoạt động kinh doanh thương mại” của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP tương xứng với khái niệm “kinh doanh” trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng chưa thật sự đúng bởi vì nội dung này chỉ để giải nội dung “việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại”.
Không những thế, hiện nay, khái niệm về “hoạt động thương mại” quy định trong Luật Thương mại năm 2005 đã có sự thay đổi khi không còn đề cập đến hành vi thương mại như Luật Thương mại năm 1997. Trong khi đó, khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 hầu như không thay đổi so với khái niện được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 1999. Vì vậy, cần có sự sự sửa đổi, bổ sung thuật ngữ “hoạt động kinh doanh thương mại” trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP sao cho bao quát hết khái niệm “hoạt động thương mại” và “kinh doanh” theo các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành hiện hành hoặc chỉ cần hướng dẫn theo phương pháp dẫn chiếu đến các nội dung đó.
2.4. Về hình thức quy định các hoạt động kinh doanh thương mại tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS
Thứ nhất, điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS quy định thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động “Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa” và điểm k khoản 1 Điều 29 BLTTDS quy định thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động “Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển”. Chúng ta thấy, quy định tại 02 nội dung này là tương tự nhau, chỉ khác nhau là phương tiện vận chuyển. Hơn nữa, để giải quyết tranh chấp trong từng điểm, Tòa án không chỉ áp dụng một luật nội dung mà tùy theo mỗi loai tranh chấp mà áp dụng luật nội dung khác nhau. Chẳng hạn, đối với quy định tại điểm i, Tòa án phải dùng đến luật đường sắt, luật đường thủy nội địa, luật giai thông đường bộ và tại điểm k phải dùng đến luật hàng không dân dụng, luật giao thông đường biển. Ngoài ra, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLTTDS năm 2011 thì thẩm quyền của Tòa án đối với quy định tại điểm i và điểm k đã được giao cho TAND cấp huyện. Vì vậy, để đơn giản nội dung điều luật, cần gộp điểm i và điểm k vào một điểm với nội dung bao quát.
Thứ hai, điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS quy định về “cung ứng dịch vụ là rất rộng. Nội dung này bao trùm các nội dung quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i, k, n và o khoản 1 Điều 29 BLTTDS. Nghiên cứu quy định của luật chuyên ngành về “cung ứng dịch vụ” chúng tôi thấy rằng, trong 14 hành vi thương mại được quy định trong Luật Thương mại năm 1997 trước đây, hành vi cung ứng dịch vụ được giới hạn trong phạm vị dễ áp dụng như: dịch vụ giao nhận hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa (được quy định tại các khoản 9 và 10 Điều 45). Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định về các hoạt động thương mại cũng chỉ ra “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” và tại khoản 9 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 giải thích rõ “Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận”. Như vậy, nội dung của hoạt động “cung ứng dịch vụ” không chồng lần lên các hoạt động khác nên cần quy định loại trừ tại điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS đối với những hoạt động được quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i, k, n và o khoản 1 Điều 29 BLTTDS.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện
Để khắc phục các vướng mắc trên, chúng tôi kiến nghị hoàn thiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, gộp quy định tại điểm k khoản 1 Điều 29 BLTTDS vào điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS và điểm i khoản 1 Điều 29 BLTTDS mới có nội dung sau: “i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa, đường hàng không, đường biển.”
Thứ hai, bổ sung vào điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS nội dung loại trừ các hoạt động kinh doanh, thương mại được quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i, k, n và o khoản 1 Điều 29 BLTTDS và điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS mới có nội dung như sau: “b) Cung ứng dịch vụ trừ các hoạt động được quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h, i, k, n và o khoản 1 Điều 29 Bộ luật này”.
Thứ ba, sửa đổi bổ sung thuật ngữ “hoạt động kinh doanh thương mại” được hướng dẫn tại tiểu mục 3.3 mục 3 Phần II Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP theo 02 hướng: Hoặc là giải thích thuật ngữ này theo hướng bao quát cả thuật ngữ “kinh doanh” hoặc là chỉ cần hướng dẫn viện dẫn “hoạt động kinh doanh thương mại” được xác định theo quy định của luật chuyên ngành (Luật Doanh nghiệp và Luật Thương mại).
Thứ tư, bổ sung vào khoản 3 Điều 29 BLTTDS hoặc bổ sung vào tiểu mục 3.5. mục 3 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP nội dung khái quát về “việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty” rồi liệt kê các tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty để có cơ sở xác định tranh chấp mới phát sinh khi chúng không thuộc các trường hợp được liệt kê, tránh vướng mắc như hiện nay.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP thành nội dung như sau: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS” bỏ nội dung “các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”.
Thẩm Quyền Của Hội Đồng Xét Xử Trong Vụ Án Dân Sự Yêu Cầu Hủy Quyết Định Cá Biệt
Trong các vụ án dân sự mà Tòa án thụ lý giải quyết như vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất hoặc tranh chấp về chia thừa kế quyền sử dụng đất… thì có rất nhiều vụ án đương sự có yêu cầu Tòa án hủy quyết định cá biệt là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Như vậy, quy định tại Điều 34 BLTTDS năm 2023 chỉ quy định về cấp Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự có xem xét việc hủy quyết định cá biệt. Tuy nhiên, theo tác giả có hai vấn đề cần đặt ra để nghiên cứu như sau:
Hai là, trường hợp có căn cứ cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng một phần thì Hội đồng xét xử có quyền hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó không.
Nghiên cứu thẩm quyền của HĐXX theo quy định tại Điều 193 LTTHC năm 2023 thì thấy rằng hiện nay về mặt lý luận và thực tiễn vẫn còn có quan điểm khác nhau.
Tuy việc tặng cho có tranh chấp nhưng ngày 14/3/2023 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B vẫn cấp GCNQSDĐ số CA 773157 cho bà Đt đối với toàn bộ diện tích 12.902,2 m2 được bà R tặng cho. Trên cơ sở đó Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Th thu hồi GCNQSDĐ số BD770032 ngày 04/10/2012 của bà R. Đến ngày 02/11/2023, Sở Tài nguyên và Môi trường lại ban hành Quyết định số 501/QĐ-TNMT thu hồi GCNQSDĐ số CA 773157 ngày 14/3/2023 đã cấp cho bà Đt với lý do có tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà R với ông Đ và ngày 15/11/2023, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp GCNQSDĐ số CE629835 cho bà R với lý do GCNQSDĐ cũ bị hư hỏng.
Điển hình như vụ án sau: Ông Nguyễn Văn A khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc hộ ông Trần Văn B trả lại thửa đất diện tích 570m2 thuộc thửa 12, tờ bản đồ số 3 hiện do hộ ông Nguyễn Văn A đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông B yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông A vào năm 1995 và công nhận toàn bộ diện tích 570m2 thuộc thửa 12, tờ bản đồ số 3 vì toàn bộ diện tích này hộ gia đình ông đã sử dụng từ năm 1987 cho đến nay. Qua thu thập chứng cứ trong vụ án thể hiện như sau: Theo văn bản phúc đáp của UBND huyện X thì việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông A tại thửa 12, tờ bản đồ số 3, diện tích 570m2 là không đúng đối tượng sử dụng đất, vì hộ ông A từ trước đến nay không sử thửa đất này mà do hộ ông B sử dụng ổn định liên tục từ năm 1987 cho đến nay.
Ngoài ra, khi Tòa án thu thập hồ sơ cấp GCNQSDĐ đất thửa 12 cấp cho hộ ông A thì có Quyết định cấp GCNQSDĐ số 273/UBND-QĐ ngày 12/5/1995 của UBND huyện X . Do hòa giải không thành, Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Đối với GCNQSDĐ cấp cho hộ ông A tại thửa 12, tờ bản đồ số 3, diện tích 570m2 thì rõ ràng trái pháp luật nên Tòa án có quyền hủy GCNQSDĐ này. Tuy nhiên, có hủy Quyết định cấp GCNQSDĐ số 273/UBND-QĐ ngày 12/5/1995 của UBND huyện X không thì còn quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: HĐXX không có quyền hủy Quyết định cấp GCNQSDĐ số 273/UBND-QĐ ngày 12/5/1995 của UBND huyện X và không cần thiết phải hủy quyết định này. Bởi vì Điều 34 BLTTDS năm 2023 chỉ quy định về thẩm quyền cấp Tòa án giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt mà không có quy định cụ thể thẩm quyền của HĐXX khi xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt. Nếu HĐXX xem xét tính hợp pháp và hủy Quyết định cấp GCNQSDĐ số 273/UBND-QĐ ngày 12/5/1995 của UBND huyện X là giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện của đương sự, vi phạm quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2023 về quyền định đoạt và quyết định của đương sự. Ngoài ra, đây là vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất nên Tòa án đã hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông A và công nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông B thì Quyết định cấp GCNQSDĐ số 273/UBND-QĐ ngày 12/5/1995 của UBND huyện X cũng không còn giá trị gì trên thực tế.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Nếu như HĐXX chỉ hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông A mà không hủy luôn Quyết định cấp GCNQSDĐ số 273/UBND-QĐ ngày 12/5/1995 của UBND huyện X thì coi như quyết định này vẫn còn hiệu lực trên thực tế. Coi như vụ án không được giải quyết một cách triệt để. Vì không thể tồn tại Quyết định cấp GCNQSDĐ số 273/UBND-QĐ ngày 12/5/1995 của UBND huyện X cấp GCNQSDĐ cho hộ ông A nhưng thực tế GCNQSDĐ lại cấp cho hộ ông B.
Như vụ án như sau: “Ông Nguyễn Văn A khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất diện tích 120m2 trong tổng diện tích 1.500m2 thuộc thửa 12 hiện GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Nguyễn Văn B. Vì ông cho rằng phần đất này là của gia đình ông sử dụng từ trước đến nay. Gia đình ông B chưa từng sử dụng phần đất này. Quá trình thu thập chứng cứ thể hiện việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông B đối với diện tích 120m2 trong tổng diện tích 1.500m2 thuộc thửa 12 mà hộ ông A đang sử dụng là không đúng. Do hòa giải không thành, Tòa án đưa vụ án ra xét xử”.
Có quan điểm cho rằng cho trường hợp này Tòa án không cần thiết phải hủy GCNQSDĐ mà chỉ cần kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông B theo đúng diện tích hộ ông B đang sử dụng và cấp GCNQSDĐ cho hộ ông A theo đúng diện tích hộ ông A đang sử dụng. Cho nên thẩm quyền giải quyết vụ án là của TAND cấp huyện. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng Tòa án phải hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông B để cơ quan có thẩm quyền cấp lại GCNQSDĐ cho hộ ông A và hộ ông B theo diện tích đất thực tế hai bên đang sử dụng. Cho nên thẩm quyền giải quyết vụ án là của TAND cấp tỉnh. Vì nếu Tòa án chỉ kiến nghị cơ quan hành chính thực hiện một công việc nhất định mà không phải là quyết định của Tòa án thì nhiều trường hợp bản án của Tòa án sẽ không thi hành được trên thực tế.
Vấn đề nêu trên xuất phát từ nhận thức áp dụng pháp luật khác nhau. Thiết nghĩa TANDTC cần có giải đáp hoặc hướng dẫn cụ thể để việc áp dụng pháp luật được thống nhất trong thực tiễn.
(*) Dương Tấn Thanh – Một số sai sót cần rút kinh nghiệm trong giải quyết vụ án hành chính – https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mot-so-sai-sot-can-rut-kinh-nghiem-trong-giai-quyet-vu-an-hanh-chinh
Thẩm Quyền Giải Quyết Khiếu Nại Thi Hành Án Dân Sự
Cấp nào có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự?
1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên thuộc quyền quản lý của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.
2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh giải quyết đối với các khiếu nại sau đây:
a) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên thuộc quyền quản lý của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
b) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện;
c) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.
3. Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ tư pháp giải quyết đối với các khiếu nại sau đây:
a) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
b) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ tư pháp có hiệu lực thi hành.
4. Bộ trưởng Bộ tư pháp giải quyết các khiếu nại sau đây:
a) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ tư pháp quy định tại điểm a khoản 3 Điều này. Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ tư pháp có hiệu lực thi hành;
b) Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ tư pháp có quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
5. Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên cơ quan thi hành án cấp quân khu.
6. Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ quốc phòng giải quyết các khiếu nại sau đây:
a) Khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu;
b) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu. Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ quốc phòng có hiệu lực thi hành.
7. Bộ trưởng Bộ quốc phòng giải quyết các khiếu nại sau đây:
a) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ quốc phòng. Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ quốc phòng có hiệu lực thi hành;
b) Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ quốc phòng có quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án thuộc Bộ quốc phòng được quy định tại điểm b khoản 6 Điều này.
Cập nhật thông tin chi tiết về Những Tranh Chấp Và Yêu Cầu Về Dân Sự Thuộc Thẩm Quyền Giải Quyết Của Tòa Án trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!