Xu Hướng 6/2023 # Phân Tích Các Văn Bản Ngoại Giao Trong Quân Trung Từ Mệnh Tập Nhom 6 Lp Qth K38B Hist110802 Docx # Top 10 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Phân Tích Các Văn Bản Ngoại Giao Trong Quân Trung Từ Mệnh Tập Nhom 6 Lp Qth K38B Hist110802 Docx # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Các Văn Bản Ngoại Giao Trong Quân Trung Từ Mệnh Tập Nhom 6 Lp Qth K38B Hist110802 Docx được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Phân tích giá trị văn bản ngoại giao trong tác phẩm “Quân Trung từ mệnh tập” của Nguyễn Trãi

Trường đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

Khoa: Lịch sử

Chuyên ngành: Quốc tế học

Bộ môn: Nghiệp vụ thư kí văn phòng ngoại giao.

Tên đề tài:

Phân tích giá trị VĂN BẢN NGOẠI GIAO trong tác phẩm

Giảng viên hướng dẫn: Thầy NGUYỄN VĂN KẾT.

Phần 1: Tóm tắt đề tài.

2.1.2. Nội dung giải quyết trong đề tài.

2.1.3. Mục đích và mục tiêu khi thực hiện đề tài.

2.1.3.2. Mục tiêu khi thực hiện đề tài.

2.2.1.2. Phân loại văn bản ngoại giao trong Lịch sử Việt Nam

2.2.1.2.1. Các loại văn bản ngoại giao trong lịch sử

2.2.1.2.2. Các loại văn bản ngoại giao hiện hành

2.2.1.3. Đặc điểm của văn bản ngoại giao

2.2.1.4. Mục đích ban hành văn bản ngoại giao

2.2.2.1. Đôi nét về Nguyễn Trãi

2.2.2.2. Tình hình Việt Nam thế kỉ XV

2.2.2.4.1. Tình yêu nước, không đội trời chung với kẻ thù.

2.2.2.4.2. Sự nhận thức chính xác về chiều hướng thắng bại của ta.

2.2.2.4.3. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thông qua tác phẩm “Quân trung từ mệnh Tập”.

2.2.3. Phân tích giá trị Văn bản ngoại giao thông qua tác phẩm “Quân trung từ mệnh Tập”

2.2.3.2. So sánh Quân trung từ mệnh Tập với văn bản ngoại giao

2.2.3.3.2. Biện pháp chiến đấu thích đáng và hiệu quả chiến đấu cao, đỡ hi sinh xương máu cho hai nước.

1.1. Cấu trúc trình bài của đề tài;

Đề tài của nhóm được trình bày theo cấu trúc sau:

Đầu tiên là phần mở đầu, tại đây nhóm sẽ nêu ra lý do thực hiện đề tài mà mục tiêu hướng đến là gì.

Sau đó đi vào nội dung.

Bắt đầu bằng khái niệm văn bản ngoại giao và phân loại các văn bản ngoại giao của Việt Nam, song song với đó là nêu lên đặc điểm của văn bản ngoại giao và mục đích của nó khi được ban hành là gì.

Và kết thúc đề tài bằng kết luận chung của toàn đề tài.

1.3. Nội dung nổi bật, quan trọng nhất của đề tài.

2.1.2.1. Văn bản ngoại giao

2.1.2.3. Phân tích giá trị VĂN BẢN NGOẠI GIAO thông qua tác phẩm ” Quân trung từ mệnh tập “

Trả lời được phần lớn nội dung mà nhóm đã định sẵn trước khi bắt tay vào thực hiện đề tài được nêu ở hần 2.1.3.1 bên trên.

Trau dồi thêm kỹ năng và kiến thức về văn bản ngoại giao, áp dụng kiến thức học được vào cuộc sống và công việc tương lai, với nền tảng là sự linh hoạt và kiến thức lịch sử, ngoại giao của các vị tiền nhân truyền lại cho hậu thế.

Ngoài ra còn có nhiều kỹ năng mềm như: xử lí nguồn thông tin, hoạt động nhóm, làm việc với Office và kỹ năng thuyết trình.

Văn bản ngoại giao là tất cả các loại văn bản hành chính, được sử dụng làm công cụ giao tiếp, trao đổi thông tin, ghi nhận thỏa thuận … giữa các bên trong hay ngoài nước để biết hoặc để cam kết thực hiện.

– Các loại văn bản ngoại giao đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.

– Các loại văn bản ngoại giao về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Các nước và giao thương, văn hóa quốc tế.

– Các loại văn bản ngoại giao về chính trị, lãnh thổ,…

– Các loại văn bản ngoại giao về tư pháp, lãnh sự, kinh tế, thương mại.

– Các loại văn bản ngoại giao về lễ tân.

– Là loại văn bản mang tính chuyên môn dùng trong công tác đối ngoại.

– Có hình thức đa dạng, nội dung phong phú đề cập đến nhiều vấn đề trong quan hệ đối ngoại: hiếu hỉ, nhân quyền, quan hệ song phương và đa phương… ;

– Đều mang tính chính trị;

– Gửi và tiếp nhận văn bản đều mang tính đại diện (cho cơ quan, tổ chức hay quốc gia);

– Người gởi và nhận văn bản có thể không cùng quốc gia, phong tục, văn hóa, phong tục tập quán, quan điểm chính trị…

– Tính pháp lý và hiệu lực thi hành khác nhau: có văn bản cần phải kí kết hoặc không mà chỉ cần tuyên bố, thông báo hoặc ghi chép diễn biến ; có văn bản mang tính bắt buộc thi hành nhưng cũng có những văn bản tùy thuộc vào sự tôn trọng của các bên;

– Việc ban hành văn bản có thể là đơn phương, song phương hoặc đa phương;

– Có bố cục chặt chẽ; lời văn, từ ngữ trau chuốt; quan hệ giao tiếp trong văn bản thường dùng ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba; ngôn ngữ giao tiếp là tiếng Việt, tiếng nước sở tại (hay đang quan hệ) hoặc nước thứ ba;

– Nội dung và hình thức văn bản được quan tâm đặc biệt vì sẽ ảnh hưởng đến thể diện và quan hệ đối ngoại.

– Dùng để thiết lập, duy trì mối quan hệ giữa các đối tác;

– Trao đổi thông tin;

– Thể hiện quan điểm, đường lối, chủ trương…;

– Thỏa thuận về một vấn đề trong quan hệ song phương hoặc đa phương…

a. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp

– Nguyễn Trãi sinh năm 1380 ở Thăng Long. Quê ở Nhị Khê, Hà Tĩnh, là cháu ngoại của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.

– Năm 1407, giặc Minh sang cướp nước ta, chúng tìm mọi cách dụ dỗ ông theo chúng nhưng Nguyễn Trãi nhất mực cự tuyệt.

– Sau một thời gian dài bị quân Minh nhốt ở Đông Quan, Nguyễn Trãi thoát được và theo Lê Lợi khởi nghĩa, ông chính là người soạn ra Bình Ngô sách. Ngoài ra ông còn nhiều tác phẩm đã chứng tỏ được đường lối ngoại giao hết sức khôn khéo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi.

– Sau khi Lê Lợi lên ngôi vua thì một thời gian sau Nguyễn Trãi xin cáo lão, sống ẩn cư nhưng sóng gió vẫn đổ ập lên ông và thân tộc với oan án Lệ Chi Viên 1442, mãi đến 1464 mới được vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho ông.

Ta thấy được Nguyễn Trãi sống trong một thời đại đầy biến động, chính những biến động đó đã tôi luyện nên một người anh hùng, một quân sư, một nhà thơ lớn của dân tộc.

– Ngoài sự nghiệp chính trị thì sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi cũng khiến người đời sau phải ngưỡng mộ, ông chính là tác giả của Bình Ngô đại cáo – một tác phẩm được xem như là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, hay là một số tác phẩm khác như Bình Ngô sách , Quốc âm thi tập , Ức trai thi tập ,..

a. Cuộc xâm lược của nhà Minh và sự thất bại của nhà Hồ

– Tháng 11/1406 lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng lớn gồm 20 vạn quân cùng với hàng chục vạn quân phu do tướng Trương Phụ cầm đầu đã tràn vào biên giới nước ta.

– Ngày 22/1/1407 sau khi đánh bại quân nhà Hồ ở Đa Bang, quân Minh chiếm Đông Đô – Thăng Long. Quân nhà Hồ lui về cố thủ ở Tây Đô.

– Tháng 4/1407 quân Minh tấn công vào Tây Đô, Hồ Qúy Ly chạy vào Hà Tĩnh và bị bắt vào tháng 6/1407.

b. Sự đô hộ của nhà Minh ở nước ta

Chính sách đô hộ phong kiến vô cùng độc ác và dã man: thực hiện chính sách vơ vét triệt để, chính quyền tăng thuế ruộng đất, tất cả các ngành buôn bán đều bị đánh thuế; nhiều phụ nữ, trẻ em, dân phu, đào hát bị bắt đem về Trung Quốc; thủ tiêu quá khứ, thủ tiêu lịch sử, thủ tiêu văn hóa; cướp ruộng đất, biến ruộng đất thành đồn điền; chia rẻ dân tộc và đàn áp tàn bạo các phong trào. Hai mươi năm đô hộ của nhà Minh làm cho nền kinh tế nước ta trì trệ, nhân dân rơi vào cùng cực, đất nước rơi vào thời kỳ khủng hoảng.

– Trong bối cảnh khó khăn, nhiều cuộc nổi dậy chống quân Minh đều bị thất bại. Đầu năm 1416 Bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa được thành lập ở Lũng Nhai gồm 19 người, đây là tiền đề bước đầu cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.

– Ngày 7/2/1418 Lê Lợi dựng cờ Khởi nghĩa Lam Sơn, những năm đầu lực lượng còn yếu nên hay bị đàn áp.

– Cuối năm 1421 nhà Minh huy động 10 vạn quân càn quyét nghĩa quân Lam Sơn, Lê Lợi tạm hoãn phong trào, quân Minh dụ hòa Lê Lợi để làm nhụt chí nghĩa quân.

– Những năm 1424 – 1426, Nghĩa quân giải phóng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa và tiến quân ra Bắc. Đến năm 1427 cuộc khởi nghĩa kết thúc hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt 20 năm đô hộ của nhà Minh ở nước ta.

Sau khi nắm quyền lực, nhà Minh luôn có ý định xâm lược nước ta. Sau nhiều lần do thám thì đến năm 1406 nhà Minh chính thức xâm lược nước ta. Từ năm 1407 nước ta bị nhà Minh đô hộ, nhân dân cơ cực, lầm than dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng đều gặp thất bại. Trong bối cảnh đó Lê Lợi đã đứng lên khởi nghĩa Lam Sơn và năm 1418, trãi qua nhiều khó khăn, gian khổ và đến năm 1427 cuộc khởi nghĩa hoàn toàn giành thắng lợi.

Có thể nói phần lớn các tư tưởng triết học, chính trị, quân sự của Nguyễn Trãi đã nói lên khá cụ thể trong ” Quân trung từ mệnh tập ” . Toàn bộ tập văn sắc sảo này như một cái thòng lọng vô hình mà mỗi bức thư là một cái nút. Cái thòng lọng vô hình ấy trải qua thời gian diễn biến theo mặt trận quân sự mà quấn chặt dần quanh cái cổ tham vọng bá quyền của quân giặc.

Sở dĩ ” Quân trung từ mệnh tập ” không bị xóa mờ bởi thời gian là vì nó cũng là một “giá trị chân chính”, một “cống hiến thật quý cho thời đại và con người”. Đó là một tập thư “địch vận” của Nguyễn Trãi gởi cho giặc Minh, một tập thư mang tiếng nói anh hùng của cả một thời đại chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Đó là tấm gương phản chiếu một cách trung thực những đoạn đường đầy gian nan nhưng cũng đầy triển vọng của nghĩa quân, và những chặng đường bại vong nhục nhã của quân địch. Xuyên qua nội dung tác phẩm, không những ta thấy được chủ trương, đường lối chiến thuật và chiến lược của nghĩa quân Lam Sơn mà đồng thời cũng thấy được cái tình cảm yêu nước thương dân nồng cháy, cái tư tưởng nhân nghĩa chói lòa, cái ý chí giải phóng dân tộc thiết tha của người anh hùng Nguyễn Trãi.

Những bức thư mà Nguyễn Trãi viết cho kẻ địch không phải chỉ là những điều suy nghiệm thuần lí trí mà còn ẩn chứa những tình cảm cháy bỏng, tha thiết với đất nước, nhân dân Việt Nam. Dù rằng trong tập văn luận chiến, lí lẽ là chủ đạo, phương pháp lập luận là quan trọng nhưng thấm trong từng câu văn Ức Trai là một ước vọng quật ngã kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập tự do cho đất nước. Với Nguyễn Trãi, yêu nước trước hết là nỗi thương xót muôn dân phải chịu cảnh đọa đầy dưới sự thống trị hà khắc của quân giặc. Trong nhiều trang thư, ông đã thống thiết nói lên điều đó: ” Song không làm cho nước đã diệt được phục hưng, dòng đã tuyệt được kế nối, mà lại muốn cùng binh độc vũ, khiến người vô tội liền năm thiệt mạng dưới gươm đao, dân hiền lành liền năm dầm gan ở ngoài nội cỏ. Lẽ nào bụng dạ bực nhân nhân quân tử lại như thế ư?” . Những câu hỏi ông đặt ra cho người đối diện, kẻ nắm giữ biết bao sinh mạng con người như xoáy sâu vào tâm can y, khiến y không thể thờ ơ: ” Nước các ngươi trước đây nhân khi họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng thương dân đánh kẻ có tội, kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn nơi làng quê không được sống yên. Lòng nhân nghĩa mà lại thế ư? ” . Câu hỏi như muốn dồn kẻ đối thoại vào đường cùng của cuộc đấu trí. Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự, chính trị, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn. Chính vì thế, yêu nước với ông còn là niềm tự hào về giá trị văn hiến vững bền của dân tộc. Sang xâm chiếm nước ta, giặc Minh đã tàn bạo thi hành rất nhiều chính sách nhằm đồng hóa dân tộc ta, đốt phá mọi của cải văn hóa, tinh thần của người Việt Nam ta.Vì thế ta phải khẳng định rõ ràng với chúng rằng trình độ văn minh của ta không thua kém gì bọn chúng và dân tộc ta quyết tâm bảo vệ nền văn hiến ấy đến cùng. Nguyễn Trãi đặc biệt nhấn mạnh đến truyền thống văn hóa tinh thần riêng biệt của Đại Việt, độc lập với nền văn hóa Trung Quốc. Trong thư dụ hàng thành Bắc Giang ông khẳng định: ” Nước An Nam ta tuy xa ở ngoài Ngũ Lĩnh mà danh tiếng là nước thi thư. Những bậc trí mưu tài thức chẳng đời nào thiếu vắng ” . Ý định dập vùi mọi truyền thống tốt đẹp của nước ta thực sự chỉ là ảo tưởng của quân giặc mà thôi. Nền văn hiến của dân tộc ta không chỉ được khẳng định qua những lời Nguyễn Trãi nói trong thư mà còn được khẳng định qua chính những gì mà nghĩa quân Lam Sơn và Nguyễn Trãi thể hiện trong suốt cuộc đấu tranh chống xâm lược. Đó chính là vẻ đẹp của những con người dũng cảm, kiên cường nhưng cũng rất khoan dung, nhân ái. Họ thông minh và cũng rất hiền hòa. Họ biết trọng chữ “tín”, biết đem tấm lòng thành thực đáp lại với thành thực, biết yêu chuộng hòa bình, biết tự hào về truyền thống đấu tranh quật cường của dân tộc.

Tấm lòng yêu nước của Nguyễn Trãi trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm không thể không gắn với việc tố cáo tội ác của giặc. Nguyễn Trãi đã đem đối lập giữa cái đẹp của dân tộc ta với cái xấu xa của quân địch, cái nhân nghĩa sáng ngời của ta với cái phản nhân nghĩa của chúng, cái tín nghĩa mà ta thực hiện với cái bất tín mà chúng đã làm, cái chân thành, cao thượng của ta với cái giả trá, thấp hèn của chúng…Ý nghĩa tố cáo kẻ thù nhờ thế càng thêm sắc cạnh, thêm đanh thép, thêm hùng hồn.

Ngay từ bức thư mở đầu, dưới danh nghĩa là thư xin hàng, bằng giọng văn mang tính phân trần, kể lể Nguyễn Trãi đã chất vào đó nỗi căm hờn oán giận về tội ác quân giặc gây ra đối với dân ta: ” Nhữ Hốt liền báo với quan quản binh cùng nội quan Mã Kỳ, vô cớ dẫn quân đến đánh úp bọn chúng tôi, chẳng kể trẻ hay già đều bị chém giết bắt bớ. Họ hàng tôi tan tác, vợ con tôi chia lìa. Lại khai quật mồ mả c ha ông tôi mà phơi bày hài cốt ” . Lời tạ tội cũng đồng thời là lời buộc tội giặc Minh từ to đến nhỏ.

Cùng với thời gian, lực lượng nghĩa quân ngày một lớn mạnh, những cuộc đối đầu với kẻ thù do họ chủ động đưa lại kết quả nhiều hơn, liên tiếp hơn, thì những lời buộc tội của Nguyễn Trãi trong thư từ gửi cho tướng giặc cũng thêm phần cứng rắn, quyết liệt hơn: ” Bớ nghịch tặc Phương Chính. Kể đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy trí dũng làm vốn. Nay bọn bay chỉ chuộng lừa dối, bắt giết kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương là cớ làm sao? ” .

Với Nguyễn Trãi, mỗi tên tướng tá, quan lại giặc Minh hiện ra, không phải chỉ là hình ảnh riêng của cá nhân hắn mà còn có ý nghĩa tượng trưng cho cả tập đoàn chủ tớ của đội quân xâm lăng. Nguyễn Trãi mượn tiếng chửi một tên để lên án cả bọn vua tôi nhà Minh: ” Nước các ngươi trước đây nhân khi họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng thương dân đánh kẻ có tội, kỳ thực làm việc bạo tàn.” . Tất nhiên, không vì yêu cầu tố cáo tội ác chung của cả bọn mà người viết bỏ quên hành vi cụ thể của từng tên. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, bộ mặt tàn ác đủ vẻ của chúng đều bị phơi bày: Phương Chính thì cực kì bất nhân, bất nghĩa, giết chóc không ghê tay, nhưng khi thất thế lại ” đóng thành bền giữ như mụ già “; Vương Thông, vừa đa nghi vừa do dự, không biết giữ chữ tín, mưu kế gian trá ” ngoài nói giảng hòa mà trong lại mưu kế khác “, Liễu Thăng hữu dũng vô mưu hung ác nhưng lại kiêu căng, không biết mình biết người.

Có thể nói, bao nhiêu bức thư là bấy nhiêu cách Nguyễn Trãi bêu riếu kẻ thù. Ông hạ uy thế của chúng bằng cách gieo vào lòng chúng những nghi ngờ về thực chất của tài năng, nhân cách, đạo nghĩa, lí tưởng hành động, chiến đấu… của chính chúng. Những lời tố cáo của ông rõ ràng mang tính chân thực và tính khái quát cao độ. Nó thể hiện một tinh thần yêu nước thiết tha và ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng để giành độc lập cho dân tộc.

Từ sự thấu suốt của mình đối với diễn biến của cuộc chiến, Nguyễn Trãi đã đưa ra hàng loạt những luận điểm khẳng định nhận thức đúng đắn của ông về xu thế tất thắng của ta, tất bại của địch.

Ngày nay vận trời tuần hoàn, không có gì đi rồi mà không quay trở lại… Bảo là tùy thời ứng biến, chính là ở chỗ phải lo liệu từ sớm.” (Lại thư dụ Vương Thông). ” Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi “. ” Tôi nghe: Cái điều đáng quý ở người tuấn kiệt là ở chỗ biết thời thế, hiểu sự biến mà thôi ” .

Phân tích thời và thế, Nguyễn Trãi nêu rõ rằng, lúc trước khác, bây giờ khác. Lúc trước quân Minh mượn danh diệt nhà Hồ là kẻ cướp ngôi, phục hồi nhà Trần là triều đại chính thống cho nên tạm thời có thể thành công.

Bây giờ ở lại chiếm đóng, thống trị, vơ vét, bóc lột lại là một việc làm phi nghĩa để mất lòng dân. Cho nên nếu không sớm rút lui sẽ bị tiêu diệt. Lúc trước, quân Lam Sơn còn ở thế yếu mà quân Minh còn chẳng làm gì nổi nữa là bây giờ quân Lam Sơn đã có phần lớn đất đai. Hơn nữa, binh lính trong quân Minh lại chán nản, nhiều nơi đã đầu hàng. Nếu còn ngoan cố, trì hoãn không chịu rút quân thế tất thua to. Đó là nội dung các bức thư gửi cho Vương Thông khi viên tướng này tuy còn có nhiều quân nhưng đã nao núng. Nguyễn Trãi nhận xét tình hình và tính toán hộ tướng giặc như sau: ” Nay tính hộ các ông thì có sáu điều phải thua. Nước lũ mùa hạ chảy tràn, cầu sàn, rào lũy sụp lở, củi cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất. Xưa Đường Thái Tôn bắt Kiến Đức mà Thế Sung phải ra hàng. Nay các con đường, cửa ải xa xôi hiểm trở đều bị binh lính và voi chiến của tôi đồn giữ, nếu viện binh có đến, thì cũng muôn phần tất phải thua; viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai. Quân mạnh ngựa khỏe nay đều đóng cả ở biên giới phía Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba. Luôn luôn động binh đao, liên tiếp bày đánh dẹp, dân sống không yên, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư. Gian thần chuyên chính, bạo chúa giữ ngôi, người cốt nhục hại nhau, chốn cung đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm. Nay tôi dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc. Còn quân sĩ trong thành thì đều mỏi mệt, tự chuốc bại vong. Đó là điều phải thua thứ sáu ” . Một mặt vạch con đường sáng cho tướng giặc, một mặt Nguyễn Trãi lại nêu cái lẽ tùy thời thông biến cho tướng giặc có thể dựa vào đó để rút quân mà bớt xấu hổ. Đó cũng là một cách thông cảm với sĩ diện của tướng sĩ ” Thiên triều “. Ông viết: ” Nay trộm tính giùm các ông, chẳng gì bằng cùng Thái Đô đốc đem quân về nước là hơn cả… Kinh Dịch có câu: “Cùng thì biến, biến thì thông”. Các ông không nghĩ đến điều đó, lại cứ khư khư ôm giữ cái tiểu tiết của Trương Tuần, Hứa Viễn, ta e sĩ tốt của các ông ngày đêm thiết tha mong về, lại thêm cơm cháo chẳng no, bệnh tật lây lan, dẫu ông muốn đánh với giữ, đã dễ ai theo ” . Từ lí lẽ cho đến thái độ, những bức thư của Nguyễn Trãi đều có sức thuyết phục mạnh mẽ.

Nguyễn Trãi rất chú ý đến đối tượng, đến kẻ đọc thư của mình. Đối với những tên ra mặt hung hăng như Phương Chính, Mã Kỳ thì từ cách xưng hô cho đến nội dung và lời văn thường có tính chất đả kích không thương tiếc. Trái lại đối với những hạng người có thể tranh thủ được như Thái Phúc và tướng sĩ cấp dưới, thì từ cách xưng hô cho đến nội dung và lời văn đều có tính chất ôn tồn trọng thị. Đối với hạng tướng tá cấp cao như Tổng binh Vương Thông, nếu thuyết phục được là có thể kết thúc chiến tranh, thì Nguyễn Trãi lại tỏ thái độ kiên nhẫn vừa phê phán, vừa tranh thủ. Còn lời lẽ trong các bài biểu và tấu gửi vua Minh thì lại nhún nhường. Ngay trong thư từ gửi các tướng Minh, khi nói đến vua Minh thì bao giờ cũng ra vẻ suy tôn. Đó chẳng qua chỉ là một thuật ngoại giao, thực tế không ảnh hưởng gì đến chủ quyền quốc gia cả. Nhưng điều đó lại góp phần đưa đến quan hệ hòa bình giữa nước nhỏ và nước lớn trong hoàn cảnh chế độ phong kiến. Vấn đề đối với nghĩa quân lúc bấy giờ là làm sao cho nhà Minh từ bỏ cái tham vọng chiếm đóng nước ta, đừng cho viện binh sang và chịu rút quân về.

Có khi kẻ đối thoại là đám tướng hiệu, quan viên, quân nhân ít học thì Nguyễn Trãi lại lựa một cách nói đơn giản mà hiệu quả là chính những so sánh cụ thể, gần gũi nhất với chúng, để chúng có thể dễ dàng tiếp cận với chữ ” thời “: ” Nếu các ngươi cho là thành cao, hào sâu, lương thực lại nhiều thì thử xe m như ở các xứ Thanh Hóa, Diễn (Châu), Nghệ (An) , thành không phải là không cao, hào không phải là không sâu, lương thực không phải là không nhiều, quân không phải là không mạnh, mà như Thái Đô đốc so với các ngươi chức không phải không to, trí không phải không sáng, mà còn tùy thời ứng biến để bảo toàn tính mệnh cho mấy vạn con người ” .

Nguyễn Trãi cũng đặc biệt nhấn mạnh đến tình hình rối ren trên đất nước Trung Quốc những năm 1425 – 1427 mà tình hình đó theo ông là nhân tố chính yếu của chữ ” Thời “, nhìn từ góc độ nội tại của kẻ địch: “…Huống chi ở nước các ông, quốc vương liền năm tử táng, cốt nhục tàn hại lẫn nhau, giặc phương Bắc xâm lăng, các đại thần bỏ rơi không phò tá. Lại thêm nạn mất mùa liên tiếp, việc thổ mộc luôn bày, chính lệnh phiền hà, giặc cướp nổi lên như ong… ” .

Thời thế là xu thế tất yếu của thời đại, là hướng đi lên không gì cưỡng lại được của lịch sử. Hiểu được thời thế là nắm vững phương hướng phát triển tất yếu và theo quy luật của sự vật khách quan, để xác định hành động của mình cho kịp thời đúng lúc. Không nắm được thực tế lịch sử, nghĩa là không có mắt tức thời. Biết tùy theo tình hình cụ thể trong mối tương quan giữa ta và địch mà xoáy vào chỗ yếu của địch để hạn chế chỗ mạnh của chúng và phát triển chỗ mạnh của ta, để phát triển chỗ mạnh của ta thì đó chính là thức thời là thông biến, nói theo danh từ ngày nay là vận dụng được phép biện chứng vào đường lối quân sự. Chúng ta thấy rõ Nguyễn Trãi không chỉ am hiểu thời thế mà chủ yếu là biết bám sát thời thế để quyết định phương hướng chiến lược chiến thuật của nghĩa quân một cách linh hoạt, và trong công tác địch vận đã biết vận dụng sáng tạo yếu tố thời thế để đánh giặc, làm cho chúng càng thêm hoang mang, rối loạn, mất phương hướng giữa lúc ta bình tĩnh, sáng suốt có thể đứng cao hơn hắn. Trong văn chương bút chiến của Nguyễn Trãi, sự phân tích rất xác đáng về thời thế quả là một ưu điểm nổi bật, cùng với những ưu điểm khác nó tạo nên tính hùng biện, tính chiến đấu, nhất là tạo nên sức mạnh của chân lý tấn công kẻ thù lợi hại vô cùng.

” Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ có đủ nhân nghĩa thì công việc mới vẹn toàn. “. Quân giặc phản nhân nghĩa như thế nào thì Nguyễn Trãi lại vạch rõ: ” Nước các ngươi trước đây nhân khi họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng thương dân đánh kẻ có tội, kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn nơi làng quê không được sống yên. Lòng nhân nghĩa mà lại thế ư?” . Nhân nghĩa vốn là những khái niệm của Nho giáo và có nội dung đạo đức gắn liền với quyền lợi của giai cấp phong kiến. Nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa lại có nội dung lịch sử cụ thể: đó là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, chống xâm lược, chống bóc lột. Điều đáng căm ghét là chính bọn bóc lột, bọn xâm lược lại nhân danh nhân nghĩa. Cho nên, Nguyễn Trãi đã phải đập tan luận điệu lừa bịp ấy. Bọn tướng giặc thường tự nhận mình là có văn minh, có lễ nghĩa và khinh ta là mọi rợ. Đó thực sự là một sai lầm trong nhận thức thiển cận của chúng. Bởi: ” Người còn có kẻ Bắc người Nam, nhưng đạo thì chẳng thế này thế khác. Nhân nhân quân tử, đâu mà không có. Nước An Nam ta tuy xa ở ngoài Ngũ Lĩnh mà danh tiếng là nước thi thư. Những bực trí mưu tài thức chẳng đời nào thiếu vắng. Vì thế phàm những việc ta làm không bao giờ không theo lễ nghĩa, hợp với ý trời, thuận theo lòng người” .

Nguyễn Trãi rất tự hào khẳng định nước ta là một nước có lễ nghĩa, dân tộc ta là một dân tộc văn minh không cần kẻ nào đến khai phá. Trái lại, bọn tự cho mình cái quyền đi ” khai hóa ” thực ta không có văn minh lễ nghĩa gì cả. Trong thư gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi đã vạch rõ sáu điều tất thua của giặc, trong đó có điều thứ năm như sau: ” Ở nước ngươi gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến, đó là điều phải thua thứ năm “. Nội bộ nhà Minh đã mục nát như thế, cương thường điên đảo như thế thì còn làm gì có nhân nghĩa mà đi ban bố cho nước khác. Giặc Minh chỉ là một bọn giả nhân, giả nghĩa mà thôi. Trong điều phải thua thứ sáu, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ tính chất chính nghĩa làm nên sức mạnh của quân ta: ” Nay tôi dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc. Còn quân sĩ trong thành thì đều mỏi mệt, tự chuốc bại vong ” .

Từ khi quân giặc bị nghĩa quân vây ở thành Đông Quan và một số thành khác. Chúng tìm kế hoãn binh, giả vờ xin giảng hòa, nhưng lại thỉnh thoảng lẻn ra ngoài đánh trộm và còn cho gọi viện binh từ Trung Quốc sang. Nghĩa quân một mặt khép chặt vòng vây hơn, một mặt chuẩn bị đòn đánh viện binh. Trong khi đó thì trên mặt trận ngoại giao Nguyễn Trãi kiên quyết đấu tranh với giặc, dùng lí lẽ buộc chúng phải tuân theo lời ước cũ. Khi thì thuyết phục, khi thì đả kích, Nguyễn Trãi đã vạch cho giặc thấy rằng giữ tròn chữ tín chỉ có lợ i cho chúng.

– ” Quân trung từ mệ nh t ậ p ” là tập văn bao gồm những bức thư mà Nguyễn Trãi đã viết để gởi cho quan quân, tướng lĩnh, vua tôi nhà Minh trong suốt thời kỳ khởi nghĩa nên nó cũng được xem như là văn bản dùng trong công tác đối ngoại giữa nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh .

– Hình thức của ” Quân trung từ mệnh tập ” là những bức thư do Nguyễn Trãi thay mặt nghĩa quân Lam Sơn gởi cho quân Minh, mỗi bức thư mang một nội dung khác nhau nhưng đều thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, khát vọng hòa bình của nhân dân, lên án sự tàn bạo của quân Minh. Tùy vào mỗi thời điểm, đối với mỗi đối tượng mà từng bức thư đều thể hiện được cái giá trị riêng của nó. Tất cả đã góp phần tạo nên một ” Quân trung từ mệnh tập ” mang giá trị ngoại giao sâu sắc vào thời kỳ này. Đây là mối quan hệ song phương giữa quân Minh với quân Lam Sơn.

– Tất cả các bức thư trong ” Quân trung từ mệnh tập ” tuy mang những nét riêng khác nhau nhưng đều có chung một đặc điểm là tính chính trị trong một tác phẩm. Bức thư gởi Phương Chính có câu: ” Bảo cho mày nghịch tặc Phương Chính biết: Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng giúp thêm. Nay lũ bay chỉ chuyên lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương. Việc ấy trời đất không dung, thần người đều giận , cho nên liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua… ” (bài số 5) hay là ” Bảo cho mày nghịch tặc Phương Chính biết: Ta nghe nói người danh tướng trọng nhân nghĩa, khinh quyền mưu. Bọn bay quyền mưu còn chưa đủ, huống là nhân nghĩa “. (bài số 7)…

– Ngườ i gởi ở trong Quân trung từ mệnh tập là Nguyễn Trãi đại diện cho Nghĩa quân Lam Sơn, người nhận những bức thư trên là tướng giặc, quan quân, vua tôi nhà Minh.

– Có thể nói Nguyễn Trãi là một cây bút tài giỏi với lời văn đanh thép, sắc sả, giọng văn hào hùng đã góp phần thể hiện được khí phách của một dân tộc quyết chiến đấu bảo chính nghĩa.

– Đều là loại văn bản mang tính chuyên môn dùng trong công tác đối ngoại.

– Đều có hình thức đa dạng, nội dung phong phú đề cập đến nhiều vấn đề trong quan hệ đối ngoại: hiếu hỉ, nhân quyền, quan hệ song phương và đa phương…

– Đều mang tính chính trị;

– Gửi và tiếp nhận văn bản đều mang tính đại diện (cho cơ quan, tổ chức hay quốc gia);

– Người gởi và nhận văn bản có thể không cùng quốc gia, phong tục, văn hóa, phong tục tập quán, quan điểm chính trị…

– Nội dung và hình thức văn bản được quan tâm đặc biệt vì sẽ ảnh hưởng đến thể diện và quan hệ đối ngoại.

– Đều có ý nghĩa quan trọng đối với xây dựng và phát triển đất nước.

– Tính pháp lý và hiệu lự c thi hành khác nhau:

+ Đối với văn bản ngoại giao có văn bản cần phải kí kết hoặc không mà chỉ cần tuyên bố, thông báo hoặc ghi chép diễn biến; có văn bản mang tính bắt buộc thi hành nhưng cũng có những văn bản tùy thuộc vào sự tôn trọng của các bên;

– Việc ban hành văn bản

+ Văn bản ngoại giao có thể là đơn phương, song phương hoặc đa phương;

– Bố cục, lời văn, từ ngữ, ngôn ngữ giao tiếp:

+ Văn bản ngoại giao c ó bố cục chặt chẽ; lời văn, từ ngữ trau chuốt; quan hệ giao tiếp trong văn bản thường dùng ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba; ngôn ngữ giao tiếp là tiếng Việt, tiếng nước sở tại (hay đang quan hệ) hoặc nước thứ ba;

Đối với tên ác tướng Phương Chính, tuy lời lẽ gay gắt nhưng Nguyễn Trãi vẫn lấy cơ sở đạo lý để vạch trần tính chất bịp bợm giả nhân giả nghĩa của bọn chúng. Nguyễn Trãi đã vạch ra hai tội:

Thứ nhất: mồm nói nhân nghĩa mà tay vấy máu xâm lược nước ta.

Thứ hai: vì đưa quân xâm lược nước ta, nên lừa dối nhân dân Trung Quốc, đẩy họ đến chỗ chết chóc thảm hại!

Vậy tóm lại: còn gì là nhân nghĩa?

Tiêu chí chiến đấu phải rõ rệt, xây dựng trên cơ sở quan niệm nhân nghĩa chân chính như vậy, mới có thể đưa đến một biện pháp chiến đấu thích đáng, nhằm loại bỏ chiến tranh để nhân dân cả hai nước trở lại chung sống hòa bình.

Công tác địch vận của ta theo sát mặt trận quân sự, nên thế của ta luôn luôn chủ động, thư từ do Nguyễn Trãi thảo vừa phản ánh được thực tế sinh động của chiến trường, vừa rần rật khí thế đương lên như lửa bốc trong gió lộng của quân dân ta, khiến cho giặc vừa bị uy hiếp về quân sự vừa bị uy hiếp về tinh thần.

Như vậy, với tiêu đề chính nghĩa nhất định thắng gian tà, với biện pháp đấu tranh thích đáng và hiệu quả chiến đấu cao, đỡ hi sinh xương máu cho sinh linh hai nước, Nguyễn Trãi rất khéo khi sử dụng ngòi bút thần kỳ của mình viết thành một hệ thống văn địch vận, vừa đậm đà khí phách dân tộc, vừa đầy đủ tính chất hùng biện của kẻ nhân nghĩa đứng trên đầu thù. Văn địch vận của ông quả thực đã hỗ trợ đắc lực cho mặt trận quân sự và có sức mạnh bằng nhiều sư đoàn tinh nhuệ.

Đọc ” Quân trung từ mệnh tập ” , chúng ta thấy toát ra một tinh thần yêu nước sâu sắc. Trước hết Nguyễn Trãi tỏ lòng thương xót nhân dân bị đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Trong một bức thư trả lời Phương Chính (bài số 8) có đoạn kể tội giặc như sau: “Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là điếu dân phạt tội, kỳ thực là làm việc bạo tàn; lấn cướp đất nước ta, bóc lột dân ta, thuế nặng hình nhiều, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được yên sống “. Trong bài biểu cầu phong (số 21), tuy tình thế lúc bấy giờ khiến ta vì cần giảng hòa nên không tiện thẳng tay vạch mặt triều đình nhà Minh, nhưng tác giả cũng nói lên được nỗi phẫn nộ, đau xót trước cảnh tàn hại do chiến tranh xâm lược gây ra cho nhân dân ta: ” Dân chúng lưu ly, những nỗi lìa tan khôn kể xiết, binh sĩ đánh chác, luôn năm chết chóc đáng thương thay!”. Đó chính là nỗi lòng thương dân, thương nước nước đã được thể hiện qua các bài trong tập văn của Nguyễn Trãi. Lòng yêu nước thương dân đó lại bao hàm một niềm tự hào của kẻ sĩ phu về nền văn minh của nước mình .

Làm sáng tỏ ” Thủ đoạn ngoại giao ” vô cùng xuất sắc của Nguyễn Trãi và Lê Lợi, chứng tỏ muốn kết thúc chiến tranh ngoài những đòn quân sự chí mạng giáng cho quân giặc, chúng ta cần có thủ đoạn ngoại giao. Khi viết mỗi bức thư trong ” Quân trung từ mệnh tập ” , Nguyễn Trãi luôn chú ý đến đối tượng, đến kẻ đọc thư của mình. Đối với hạng người hung hăng, ngoan cố ra mặt như Phương Chính, Mã Kỳ thì từ xưng hô cho đến nội dung cũng như lời văn trong từng bức thư đều có tính chất đả kích không thương tiế c . Trái lại với hạng người có thể tranh thủ được như Thái Phúc hoặc các tướng sĩ cấp dưới, thì từ cách xưng hô cho đến nội dung cũng như lời văn trong từng bức thư đều có tính chất ôn tồn, thuyết phục. Còn đối với hạng tướng tá cao cấp như tổng binh Vương Thông, nếu thuyết phục được là có thể kết thúc chiến tranh, thì Nguyễn Trãi tỏ thái độ kiên nhẫn, vừa phê phán, vừa tranh thủ. Ông biết rằng Vương Thông là một kẻ lừng chừng, thấy thế nguy thì cũng không hăng hái chiến đấu nữa, nhưng vẫn còn ngoan cố, nghe ngóng tình thế mà chưa chịu cầu hòa ngay. Đối với vua nhà Minh thì lời lẽ và nội dung có thể khiến cho những người ít chú ý đến quan hệ bang giao giữa phong kiến Việt Nam và phong kiến Trung Quốc cũng phải ngạc nhiên. Lời lẽ trong các bài biểu gởi vua nhà Minh, khi nói đến vua nhà Minh bao giờ cũng có ý suy tôn.

Hình tượng mà Nguyễn Trãi dùng để miêu tả quân địch hay quân ta đều có tác dụng khắc rõ nét bộ mặt gian ác hèn hạ của quân giặc, nêu rõ khí thế dũng mãnh đường hoàng của quân ta. Với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, Nguyễn Trãi đã đánh cho kẻ thù phải thua trên mặt trận tinh thần, góp phần xứng đáng vào cuộc kháng chiến thắng lợi.

Sau khi nghiên cứu đề tài giúp cho chúng ta biết thế nào là VĂN BẢN NGOẠI GIAO, nắm rõ được đặc điểm, phân loại và mục đích của các văn bản ngoại giao.

Phân tích được giá trị VĂN BẢN NGOẠI GIAO thông qua “Quân trung từ mệnh tập”. Đây là một tập văn chiến đấu khá có hệ thống mà Nguyễn Trãi viết thay Lê Lợi, nhưng với tất cả bầu máu nóng, với tất cả sự minh mẫn của trí tuệ. Đọc “Quân trung từ mệnh tập” không phải chúng ta chỉ đọc một tập văn quan phương bình thường mà chúng ta đọc cả một thời kỳ chiến đấu oanh liệt của quân và dân ta thời khởi nghĩa Lam Sơn. Tập văn chiến đấu có ý nghĩa lịch sử quan trọng này có tiều đề chiến đấu rõ rệt, luận đề chính nghĩa thắng gian tà, có biện pháp chiến đấu thích đáng nhằm loại bỏ chiến tranh và hận thù, đề cao cả hai dân tộc cùng nhau chung sống hòa bình.

Nắm được ý nghĩa của lối văn địch vận có đặc tính hùng biện trên nghệ thuật “tâm công” nhằm phân hóa cao độ kẻ địch, đánh thẳng vào trí óc, tim gan của chúng, làm cho chúng hoang mang, dao động, nhụt ý chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến tới phải chấp nhận con đường hòa giải, rút quân về nước.

http://www.vnmilitaryhistory.net/

Nhóm 6 – Lớp QTH K38B – Mã học phần: HIST110802

Ngữ Văn Lớp 6: Phân Tích Văn Bản Sông Nước Cà Mau

Ngữ văn lớp 6: Phân tích văn bản Sông nước Cà Mau

Phân tích văn bản Sông nước Cà Mau

Đoạn 1 (từ đầu đến màu xanh đơn điệu): Ấn tượng chung về thiên nhiên Cà Mau.

Đoạn 2 (tiếp theo đến khói sóng ban mai: Đặc tả sông nước Cà Mau.

Đoạn 3 (còn lại): Cảnh chợ Năm Căn.

Cảnh sông nước Cà Mau và cuộc sống nơi đây (thể hiện rõ nhất qua hình ảnh chợ Năm Căn) được miêu tả qua cái nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Như vậy người kể chuyện đứng ở ngôi thứ nhất. Vị trí quan sát của người kể chuyện: Từ trên thuyền. Đây là vị trí thuận lợi để quan sát và miêu tả. Nói cách khác, người kể xuất hiện với tư cách là người trong cuộc đang trực tiếp chứng kiến vẻ đẹp hùng vĩ và hoang sơ của sông nước Cà Mau. Việc lựa chọn điểm nhìn nghệ thuật như trên khiến cho cảnh tượng thiên nhiên hiện lên như những thước phim tư liệu hết sức sống động về đất rừng phương Nam.

2. Ấn tượng chung là sự choáng ngợp trước vẻ hùng vĩ của sông nước Cà Mau. Ấn tượng ấy được thể hiện qua hai loại cảm giác: Nghe – nhìn. Tương ứng với nó là hai hệ thống hình ảnh:

– Hệ thống hình ảnh thị giác: Sông ngòi chi chít như mạng nhện; cả ba lớp không gian: Trên trời, dưới nước, chung quanh đều toàn một sắc xanh cây lá.

– Hệ thống hình ảnh thính giác: Tiếng rì rào bất tận của những khu rừng, tiếng rì rào từ biển.

Tuy nhiên, điều cần nói là bên cạnh hai hệ thống hình ảnh này, cách sử dụng ngôn ngữ tả và kể khá linh hoạt. Có khi người kể chuyện sử dụng lối nói cường điệu (chi chít, bất tận. không ngớt vọng về,…), có khi thì tạo các so sánh để diễn tả cảm giác. Sự xen cài của các lớp hình ảnh và hình thức kể, tả khiến cho ấn tượng chung về sông nước Cà Mau trở nên sống động hơn.

3. Đúng là trong đoạn văn này có nhiều địa danh rất lạ tai: Chà Là, Cái Keo, sông Bảy Háp, rạch Mái Giầm, kênh Bọ Mắt, kênh Ba Khía,… và bản thân tên của Cà Mau cũng được giải thích: nói trại đi theo chữ “tức khơ mầu”, tiếng Miên nghĩa là “nước đen”. Những tên gọi này gợi cho người đọc thấy:

Đó là những tên gọi rất giản dị, không cầu kì kiểu Hán Việt mà thường căn cứ vào đặc điểm sự vật để gọi tên.

Gợi về một vùng đất hoang sơ, xa xôi, ít người biết đến.

Người đọc nhận thây sự giao thoa của nhiều nền văn hoá: Không chỉ có văn hoá người Việt mà còn có cả văn hoá của người Khơ-me, người Hoa.

Đoạn văn miêu tả kênh rạch, sông ngòi Cà Mau có thể coi là đoạn văn sinh động nhất trong Sông nước Cà Mau. Tác giả đã sử dụng hàng loạt thủ pháp nghệ thuật để đặc tả vẻ đẹp của vùng đất này:

Trước hết, Cà Mau là vùng đất hùng vĩ, rộng lớn. Các tính từ miêu tả các động từ diễn tả hoạt động, các hình ảnh có tính chất so sánh ví von được sử dụng chính xác:

Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác

Cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch

Con sông rộng hơn ngàn thước… hai bên bờ rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.

– Không chỉ; hùng vĩ, đây còn là miền đất hoang sơ (thể hiện rất rõ qua các chi tiết nói về rừng đước: Cây được mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ,… loà nhoà ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai. Chú ý các từ ngữ mọc dài, tăm tắp, chồng lèn, điệp ngữ màu xanh… Nó vừa cho thấy sự tinh tế trong quá trình quan sát của nhà văn (quan sát kĩ lưỡng sự phát triển của rừng đước, phân biệt chính xác các loại màu xanh), đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên đất nước của nhà văn.

4. Đoạn văn miêu tả chợ Năm Căn thêm một lần nữa cho thấy sự tinh nhạy của nhà văn trong việc miêu tả cuộc sống phương Nam:

– Đó là một bức tranh trù phú, tấp nập, đông vui. Thủ pháp liệt kê được sử dụng một cách hiệu quả: Những túp lều lá thô sơ. Những ngôi nhà gạch văn minh, những đống gỗ cao như núi, thuyền buôn dập dềnh trên sóng,… Điệp từ những (12 lần) cũng góp phần gợi lên sự nhộn nhịp của cuộc sống nơi đây.

– Chợ Năm Căn mang vẻ bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” kiêu hãnh. Nó mang theo hơi thở rất riêng của thứ chợ ven sông nước Nam Bộ. Ớ đó có sự hoà trộn của nhiều màu sắc văn hoá: Món ăn Trung Quốc, món ăn địa phương, những cô gái Hoa kiều xởi lởi, những người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ người Miên bán rượu, nhiều sắc giọng khác nhau, nhiều kiểu ăn vận khác nhau,… Tất cả khiến cho chợ Năm Căn trở thành bức tranh độc đáo nhất trong những xóm chợ vùng rừng Cà Mau.

Quy Định Về Văn Bản Ngoại Giao

Công thư.Khái niệm.Công thư được sử dụng trong các vấn đề giao dịch quan trọng. Công thư được sử dụng tại Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao do Lãnh đạo Bộ, Trưởng cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước ngoài ký.

Trang đầu của công thư được in trên giấy offset vàng. Trang tiếp theo được in trên giấy offset trắg khổ A4.

Chức danh đầy đủ của người gửi được in phía góc trái, cân giữa so với Quốc huy, cách mép dưới của Quốc huy là 0,5 cm, phông Times New Roman, cỡ chữ 10-12, in hoa, đậm và thẳng.

Dấu gạch liền được in phía dưới chức danh, độ dài 1 cm, cân giữa, cách chức danh là 0,5 cm.

Địa điểm soạn thư và thông tin về thời gian được in cùng dòng với dòng cuối cùng của chức danh, căn lề phải, cách mép phải giấy là 1,5-2 cm.

Mẫu công thư: Phụ lục I. SƠ ĐỒ MẪU CÔNG THƯ (Trên một trang giấy khổ A4: 210 mm ( 297 mm)

Ghi chú:Ô số : Thành phần mẫu công thư1: Quốc huy;2: Chức danh;3: Địa danh và ngày, tháng, năm ban hành công thư;4: Nội dung công thư;5: Chữ ký đầy đủ của người gửi;6: Họ tên đầy đủ người gửi;7: Kính gửi: (Ngài TÊN ĐẦY ĐỦ CỦA NGƯỜI NHẬN, CHỨC DANH ĐẦY ĐỦ NGƯỜI NHẬN)

Công hàm thường (note verbale):Khái niệm.Công hàm thường là thư tín ngoại giao có mức độ nghi thức thấp hơn công thư. Công hàm thường được bắt đầu bằng câu chào xã giao. Công hàm thường do cấp vụ/ phòng ký hoặc cấp cao hơn, người được trưởng cơ quan ủy quyền ký tắt ở góc dưới bên phải của trang cuối cùng.Trang đầu của công hàm thường được in bằng giấy offset vàng (conqueror), các trang tiếp theo được in bằng giấy offset trắng.Phụ lục II.

SƠ ĐỒ MẪU CÔNG HÀM THƯỜNG (Trên một trang giấy khổ A4: 210 mm ( 297 mm)

Ghi chú:Ô số : Thành phần mẫu công hàm thường1 : Quốc huy2 : Tên cơ quan3 : Số, ký hiệu công hàm thường4 : Nội dung công hàm thường4a : Ký tắt5 : Địa danh và ngày, tháng, năm ban hành công hàm6 : Dấu của cơ quan, tổ chức7 : Kính gửi: (TÊN CƠ QUAN NHẬN CÔNG HÀM) ĐỊA CHỈ

Công hàm Pro Memoire:Công hàm pro memorie là biên bản trao đổi chính thức về các vấn đề mà Chính phủ ủy quyền hoặc chỉ đạo. Tại Bộ Ngoại giao, văn bản này được trao trực tiếp cho Đại sứ, Công sứ hoặc đại diện. Công hàm loại này do cấp vụ hoặc cấp cao hơn ký tắt ở góc dưới bên phải của trang cuối. Tại cơ quan đại diện ngoại giao, công hàm này có thể trao trực tiếp hoặc chuyển qua giao thông ngoại giao.Trang đầu của công hàm pro memoire được in trưên giấy offset vàng. Các trang tiếp theo được in trên giấy offset trắng.Mẫu công hàm pro memoire (phụ lục 5)

Phụ lục VSƠ ĐỒ MẪU PRO – MEMOIRE(Trên một trang giấy khổ A4: 210 mm ( 297 mm)

Ghi chú:Ô số : Thành phần mẫu PRO – MEMORIA1 : Quốc huy2 : Tên cơ quan (Bộ Ngoại giao nước Công hòa XHCN VN)3a : Số, ký hiệu của Pro – Memoria3b : Tiêu đề4 : Nội dung Pro – Memoria 4a : Ký tắt5 : Địa danh và ngày, tháng, năm ban hành công hàm6 : Dấu của cơ quan, tổ chức7 : Kính gửi: (TÊN CƠ QUAN NHẬN CÔNG HÀM)

Công hàm ngoại giao (diplomatic note):Công hàm ngoại giao là thư tín chính thức giữa các Chính phủ truyền đạt các vấn đề Chính phủ ủy quyền hoặc chỉ đạo. Công thức lịch thiệp không được sử

Phân Tích Những Bài Học Được Rút Ra Từ Văn Bản Mẹ Tôi

Dàn ý phân tích những bài học được rút ra từ văn bản Mẹ tôi

Mở Bài

– Giới thiệu về tác giả Ét-môn-đô đơ A-mi-xi và văn bản Mẹ tôi (trích Những tấm lòng cao cả)

– Nêu vấn đề: Văn bản đã giúp cho mỗi chúng ta nhận ra những bài học về giá trị sống sâu sắc.

Thân Bài

– Khái quát nội dung văn bản : Câu chuyện về bức thư của bố gửi En-ri-cô.

– Bài học cuộc sống sâu sắc thông qua câu chuyện:

+ Tình cảm gia đình là điều thiêng liêng và phải trân quý.( bài học thứ nhất)

+ Sự khéo léo trong ứng xử và nuôi dạy con cái của người bố. ( bài học thứ 2)

+ Phải biết nhận ra lỗi lầm của bản thân và sửa sai. (bài học thứ 3)

Kết Bài

Khẳng định giá trị nhân văn mà văn bản Mẹ tôi mang lại: đó không chỉ là những bài học mà còn là những điều khiến chúng ta phải suy ngẫm.

Phân tích những bài học được rút ra từ văn bản Mẹ tôi

Nhà văn người I-ta-li-a: Ét-môn-đô đơ A-mi-xi, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Những tấm lòng cao cả” đã cho thấy được vai trò của nhà trường và cha mẹ trong việc dạy dỗ trẻ em. Một câu chuyện nhỏ trích từ cuốn sách là văn bản “Mẹ tôi”, ở đó, tác giả khiến người đọc nhận ra được những bài trị nhân sinh sâu sắc về cuộc đời và đạo làm người.

Văn bản “Mẹ tôi” được viết dưới dạng một bức thư. Câu chuyện xoay quanh sự việc cậu bé En-ri-cô đã nhỡ thốt ra một lời thiếu lễ độ khi nói với mẹ lúc cô giáo đến thăm nhà. Chứng kiến sự việc, bố của cậu đã viết một thức thư gửi cậu. Đó là một bức thư thật xúc động! Trong bức thư đó có cả thất vọng, cả trách mắng, cả động viên, hơn hết đó là những tâm sự chứa chan tình cảm của một người bố gửi cho đứa con trai mới chập chững vào đời. Tất cả mang lại cho người đọc nhiều suy ngẫm đáng trân quý.

Bài học thứ nhất hẳn thật dễ dàng nhận ra: tình cảm gia đình là điều thiêng liêng và phải nâng niu. Trong bức thư, bố En-ri-cô đã thể hiện sự thất vọng, đó “như một nhát dao đâm vào tim bố vậy!”. Hình ảnh En-ri-cô thiếu lễ độ với mẹ khiến người bố nhớ lại những vất vả, nhọc nhằn khi người mẹ ấy lo lắng cho En-ri-cô khi cậu ốm nặng, “người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn” . Rõ ràng, người mẹ đó có thể từ bỏ hết tôn nghiêm và tự trọng, sức lực và tính mạng để con mình khỏe mạnh, một người có thể nhận hết mọi điều tồi tệ của để con được bình an. Vậy thì, điều mà mẹ xứng đáng được nhận nhất không phải là sự vô lễ kia. Chúng ta đều hiểu rằng, cho dù mình lớn lên, trưởng thành thì trong lòng cha mẹ, chúng ta cũng chỉ là những đứa trẻ mà thôi và tình yêu thương, sự sinh và cam chịu của mẹ cha thì vẫn thế. “Trong đời, con có thể trải qua những ngày buồn thảm, nhưng ngày buồn thảm nhất tất sẽ là ngày mà con mất mẹ”. Trái tim người mẹ là vĩ đại nhất, bao la và rộng lớn nhất. Nếu dùng sự bội bạc để đối đãi sẽ làm cho trái tim đẹp đẽ ấy đau đớn, tổn thương, thế nhưng tình yêu đối với con sẽ không bao giờ thay đổi. Bố En-ri-cô đã nhấn mạnh rằng: Dù con có thành công bao nhiêu, giàu có bao nhiêu nhưng nếu làm mẹ buồn phiền thì cậu sẽ sống không thanh thản, day dứt và cắn rứt. Hơn tất cả, sự kính trọng với cha mẹ- người đã sinh ra và nuôi con trưởng thành chính là món quà đáng trân quý nhất để đền đáp những công ơn mà bố mẹ đã dành cho con.

Trong văn bản “Mẹ tôi”, ta sẽ tự đặt câu hỏi: Tại sao người bố không ngay lập tức thể hiện thái độ trực tiếp với con? Qua đó, người đọc nhận ra sự tinh tế trong việc giáo dục con cái của người bố. Ở đây, sự phẫn nộ của người bố bộc phát tuy kín đáo nhưng rất mạnh mẽ, tâm lý nhưng rất quyết liệt. Có lẽ, chính sự giáo dục đặc biệt này sẽ mang lại hiệu quả hơn cả những lời nạt nộ, răn đe hay đòn roi. Bóng dáng của người bố ấy qua cách dạy con cũng rõ rệt hơn, đó là người tràn ngập tình yêu đối với con nhưng không dung túng cho điều sai trái của con. Bố En-ri-cô lựa chọn phương pháp đánh vào nhận thức để cậu hiểu việc làm sai của mình, tuy cực kỳ bực tức trước thái độ của con nhưng ông vẫn nhẹ nhàng, bình tĩnh giúp con nhận ra và sửa đổi.

Bài học cuối cùng ta mong chờ và nhận ra có lẽ đó sẽ là thái độ của En-ri-cô. Đầu văn bản, người viết chỉ nói “tôi xúc động vô cùng”. Thế nhưng, thông qua sự xúc động đó, người ta thấy được sự ăn năn của En-ri-cô. Người viết không thể hiện một lời xin lỗi nào, nhưng có lẽ sự ân hận của cậu không chỉ qua lời nói mà còn cả hành động với người mẹ kính yêu của mình. Bởi lẽ, ai trong đời cũng phạm phải một sai lầm nào đấy, nhưng, điều cần thiết nhất là nhận ra và sửa lỗi sai đó. Đó không chỉ là bài học của En-ri-cô mà còn là bài học lớn, lan tỏa đến mỗi chúng ta.

“Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình yêu thương”, đó lời từ tâm can người cha gửi đến con, cũng là lời thức tỉnh để mỗi chúng ta nhận ra được giá trị cuộc sống này. Cha mẹ, gia đình chính là điều ta cần gìn giữ và vun đắp vì đó là cội nguồn, là cốt lõi. Gia đình là nơi sinh ra ta hình hài , dưỡng dục ta nên người, cũng chính là nơi để ta trở về sau những va vấp của cuộc đời. Vậy nên, đừng làm gì thương tổn đến thứ tình cảm thiêng liêng đó và hãy trân trọng những gì mà mình đang có!

Văn bản Mẹ tôi của A-mi-xi đã mang lại những giá trị nhân văn sâu sắc, đó là những bài học về cuộc đời và cách để trở thành một con người hoàn thiện. Đó là lời khẳng định mạnh mẽ vai trò của giáo dục trong gia đình đối với sự phát triển mỗi cá nhân. Một người biết trân trọng nguồn cội, gốc gác, biết ơn người sinh thành thì ắt hẳn sẽ là một con người lương thiện.

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Các Văn Bản Ngoại Giao Trong Quân Trung Từ Mệnh Tập Nhom 6 Lp Qth K38B Hist110802 Docx trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!