Bạn đang xem bài viết Phương Pháp Học Tốt Môn Văn Lớp 8 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
gia su mon Van sẽ chỉ ra bí quyết để bạn học tốt văn lớp 8.
Văn chương luôn là một phần thiết yếu trong đời sống tinh thần của mỗi người. Văn chương là những bài thơ sống mãi với thời gian, những tác phẩm văn học đi vào lòng người, những tác phẩm được chuyển thể từ các tác phẩm văn học. Do đó, đối với chương trình học lớp 8, ngữ văn vẫn là một trong những môn chính. Môn học này giúp học sinh rèn giũa kỹ năng cảm thụ ngôn từ tiếng Việt, cách hành văn, lập luận của mình, giúp học sinh phát triển cảm xúc của mình. Để học tốt môn văn không quá khó, chỉ cần bạn áp dụng đúng phương pháp học tập. Bài viết sau đâysẽ chỉ ra bí quyết để bạn học tốt văn lớp 8.
Cách học tốt môn Văn lớp 8
Cách học tốt môn Văn lớp 8
Bạn cần nắm vững kiến thức cơ bản trong chương trình ngữ văn lớp 8
Đối với phần văn bản: Trong chương trình ngữ văn lớp 8, bạn sẽ được tiếp cận với rất nhiều tác phẩm hay. Chẳng hạn như các tác phẩm truyện kí Việt Nam như Tôi đi học (Thanh Tịnh), trong lòng mẹ (Nguyên Hồng), Tức nước vỡ bờ (Ngô Tất Tố), lão Hạc (Nam Cao), v.v…; truyện kí nước ngoài bao gồm Cô bé bán diêm (An – đéc – xen), Chiếc lá cuối cùng (0 – hen – ri),đánh nhau với cối xay gió (Xéc – van – tec),… Bạn còn được học về thơ những năm 1930 – 1945 như nhớ rừng (Thế Lữ), vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (Phan Bội Châu), Tức cảnh Pác Bó (Hồ Chí Minh),… Đặc biệt, bạn sẽ có dịp học qua văn nghị luận cổ như Hịch tướng sĩ (Lý Thường Kiệt), nước Đại việt ta,… và văn bản nhật dụng như Thông điệp trái đất năm 2000, ôn dịch thuốc lá.
Làm sao để có thể học tốt môn Văn
Làm sao để có thể học tốt môn Văn
Chuẩn bị kĩ lưỡng trước khi đến lớp
Dù làm bất kì điều gì đi nữa, chỉ cần có sự chuẩn bị chu đáo, bạn sẽ dễ dàng gặt hái được thành công hơn. Tương tự như vậy, học môn văn cũng cần sự chuẩn bị kĩ lưỡng như thế. Nhiều người nghĩ rằng việc chuẩn bị bài vô cùng đơn giản nên thường bỏ qua bước này nhưng thực ra, bước này lại đem đến hiệu quả rất lớn. Việc chuẩn bị bài sẽ giúp bạn tiếp cận trước về cơ bản những kiến thức hoàn toàn mởi mẻ, xa lạ vào tiết học tiếp theo ở trường. Thứ hai, vì với vỏn vẹn 45 phút học ở lớp, tốc độ giảng dạy của thầy cô thường nhanh và khối lượng bài học theo giáo án cũng rất nhiều nên chuẩn bị trước ở nhà sẽ giúp bạn theo kịp bài vở ở trường. Thứ ba, việc làm này giúp bạn hình thành thói quen chủ động học tập và khả năng tự học. Đây đều là những thói quen tốt cho chặng đường học tập các môn khác của bạn nói chung, môn văn lớp 9, 10, 11, 12 nói riêng.
Học giỏi môn Văn tại nhà
Học giỏi môn Văn tại nhà
Tập trung hoàn toàn vào giờ học ở lớp và đến lớp đầy đủ
Mặc dù đa phần các kiến thức thầy cô giảng dạy cho bạn đều nằm trong sách giáo khoa và bạn có thể tự học bằng cách xem lại trong sách bất cứ lúc nào nhưng việc đến lớp thường xuyên cũng đem đến những mặt tích cực đáng lưu ý. Bởi vì, tham gia lớp học một cách đầy đủ sẽ giúp bạn tận dụng tối đa thời gian đó để hỏi bạn bè, thầy cô những chỗ bạn chưa hiểu. Bên cạnh đó, thay vì ngủ nướng hay ở nhà chơi game, rõ ràng dành thời gian quý báu ấy để đến lớp học là việc làm hợp lí hơn. Ngoài ra, thầy cô là những người đã được đào tạo bài bản để truyền đạt kiến thức từ sách vở đến bạn một cách dễ hiểu nhất. Vì vậy, nghe trực tiếp thầy cô giảng dạy sẽ giúp bạn hiểu bài nhanh nhất.
Tham gia lớp học đầy đủ vẫn chưa thể giúp bạn tiến bộ trong môn ngữ văn lớp 8 nếu như bạn hoàn toàn không tập trung khi học. Mặc kệ thầy cô đang giảng bài, phân tích bài học, bạn ở dưới lớp đang lướt web, facebook, đọc truyện hay bận học bài cho môn khác thì chắc chắn kết quả của môn văn sẽ giảm sút và việc đến lớp nghe giảng về môn ngữ văn lớp 8 sẽ không còn ý nghĩa. Do đó, bạn hãy cân nhắc và sắp xếp thời gian, công việc sao cho có thể thực hiện được câu nói quen thuộc “Giờ nào việc nấy”. Chỉ khi tôn trọng thời gian, bạn mới có thể đạt được điều mình muốn.
Trịnh Hàn Kim Ngọc
Phương pháp học tốt môn Văn Lớp 8
Học Tốt Môn Ngữ Văn Lớp 6
Xúc tích, gần gũi và cơ bản sẽ là cách thầy Nguyễn Phi Hùng đưa những nội dung kiến thức trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 vào khóa học này. Đồng thời, với nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, học sinh còn được thầy chia sẻ rất nhiều vốn sống, nhiều ngữ liệu để bài giảng trở nên sinh động, hài hòa và hấp dẫn.
Hiểu được mục đích, ý nghĩa và cách làm một bài văn kể chuyện (tự sự)
Hiểu được mục đích, ý nghĩa và cách làm một bài văn miêu tả (tả người, tả cảnh vật)
Hiểu được lý do và hình thành kỹ năng viết một lá đơn đủ ý và đúng quy cách (hành chính – công vụ)
Phần 2: Đọc hiểu văn bản (Tìm hiều về tác giả (vị trí, đóng góp của tác giả trong lịch sử văn học và đặc điểm cuộc đời, xã hội đương thời ảnh hưởng đến ngòi bút và sự nghiệp văn chương) & tác phẩm (hiểu được nội dung của văn bản; đặc trưng của thể loại văn học đó; chỉ ra và phân tích được nét đặc sắc về nội dung, về nghệ thuật của văn bản; tóm tắt những nội dung chính, kiến thức cần nhớ về tác phẩm đi sâu chi tiết vào tác phẩm) của:
Nhóm văn học dân gian (truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười)
Nhóm văn học tự sự và trữ tình (truyện trung đại, phong kiến, truyện, thơ hiện đại)
Nhóm văn bản nhật dụng (báo chí, hàng ngày)
Kỹ năng cơ bản phân tích các thể loại khác nhau trong chương trình Ngữ văn lớp 6 (văn học dân gian, văn học viết, văn bản nhật dụng …)
Nắm được đặc điểm, luyện tập và vận dụng được các đơn vị kiến thức hỗ trợ cho đọc hiểu văn bản, tập làm văn và trong quá trình sử dụng ngôn ngữ
Từ loại (cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ, phó từ, chỉ từ, số từ, lượng từ) và ý nghĩa, hiện tượng chuyển nghĩa của từ.
Câu (các thành phần chính của câu và câu trần thuật).
Biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, đảo ngữ, ẩn dụ, hoán dụ).
Phương Pháp Dạy Học Văn Bản Nhật Dụng Lớp 8
phần một: đặt vấn đề Xuất phát từ thực tế đó, là một giáo viên trực tiếp dạy Ngữ văn trong quá trình giảng dạy từ sự tìm tòi học hỏi của bản thân và sự giúp đỡ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy khi tổ chức hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, giáo viên cần chú ý đến phương pháp giảng dạy mới như đảm bảo nguyên tắc tính tích hợp, sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, tình huống tự bộc lộ ... Vai trò của người thầy trong phương pháp mới này sẽ là sức hút kỳ diệu biến giờ học văn đơn điệu trước đây trở nên thi vị hứng thú, phong phú, sâu sắc hơn, khép lại cánh cửa chán học văn của học sinh ngày nay. Trong môn Ngữ văn phần văn bản luôn chiếm số tiết nhiều hơn cả (2 tiết một tuần). Phần văn bản thường là những tiết học đầu tiên của mỗi tuần nên thực sự có ý nghĩa. Nó không chỉ là cơ sở cung cấp ngôn ngữ mới cho phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn mà còn rèn cho học sinh năng lực tổng hợp: nghe, nói, đọc, viết. Từ năm 2002 - 2003 đến nay trong nội dung thay sách đã đưa vào loại văn bản mới có ý nghĩa và vị trí quan trọng trong việc giáo dục học sinh đó là văn bản nhật dụng. Vậy có cần phương pháp dạy kiểu văn bản mới như thế nào (đặc biệt là phần văn bản nhật dụng lớp 8) để đạt hiệu quả cao là vấn đề nhiều giáo viên còn băn khoăn, trăn trở. Từ thực tế giảng dạy tôi chọn đề tài "Phương pháp giảng dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8" làm vấn đề để các đồng nghiệp nghiên cứu trao đổi. phần hai: giải quyết vấn đề I- Cơ sở lý luận: Nghị quyết số 02/NQ-HNTW khoá VIII của Đảng đã nêu bật yêu cầu: "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học". Luật giáo dục của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng nêu rõ: "phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tạo tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý thức vươn lên". Những năm gần đây định hướng đổi mới phương pháp đã được thống nhất theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Như thế một giáo án giờ văn bản kiểu mới không chỉ là bản đề cương nội dung chi tiết về cái hay, cái đẹp của áng văn thấy tâm đắc mà còn là bản thiết kế việc làm của học sinh. Để có sự đổi mới về phương pháp giảng dạy trước hết phải nói đến cấu trúc nội dung văn bản của sách giáo khoa. Qua các văn bản các em không chỉ cảm thụ nội dung nghệ thuật của những hình ảnh cao đẹp, của con người, cuộc sống mà còn giúp các em đến với những vấn đề vừa hiển nhiên vừa bức thiết trong thực tiễn đời sống. Kiểu văn bản nhật dụng lần đầu tiên được đưa vào chương trình Ngữ văn 6, 7, 8 đã thực hiện được sứ mệnh của nó trong con đường tiếp nhận tri thức của học sinh. Không chỉ khoán vấn đề giáo dục môi trường cho môn sinh học, giáo dục truyền thống cho môn lịch sử, giáo dục pháp luật cho môn giáo dục công dân ... môn Ngữ văn không thể đứng ngoài cuộc. II- Cơ sở thực tiễn. Trong chuẩn học môn tiếng Anh nghệ thuật của bang Niu Óc (Mỹ) công bố tháng 3 năm 1996, người ta có nêu một hồi ký viết về vụ thảm sát Mỹ Lai ở Việt Nam. ở Anh trong "Quy định mới" của chương trình quốc gia công bố năm 1995 có ghi rõ: "yêu cầu cho học sinh tiếp xúc với các kiểu văn bản gần gũi với thực tế cuộc sống. ở Pháp chương trình Ngữ văn chủ trương dạy văn bản thuộc thể loại báo chí, các loại văn bản trên các phương tiện thông tin đại chúng. ở Trung Quốc, trong văn thơ cổ, có mặt cả những bài nặng màu sắc khoa học tự nhiên của Thẩm Quát (đời Tống); trong văn thơ hi ện đại có mặt cả những bài đề cập đến phương pháp toán học của Hoa La Canh. Trong phần cuối của cuốn "Việt Nam văn học sử yếu" xuất bản trước năm 1945, giáo sư Dương Quảng Hàm cũng đã dựa vào trên mười văn bản giống như văn bản nhật dụng theo như quan niệm hiện nay. Nêu những dẫn chứng trên để thấy được việc đưa văn bản nhật dụng vào chương trình Ngữ văn quả là một việc làm cấp thiết và hợp lý không chỉ riêng đối với nền giáo dục nước ta mà còn đối với nền giáo dục của các nước trên thế giới. Trở lại với thực tế giảng dạy môn Ngữ văn, nhiều giáo viên chỉ khai thác các văn bản ở giá trị nội dung, nghệ thuật còn các giá trị về liên hệ thực tế cuộc sống thì hạn chế, hoặc bị bỏ qua. Một số còn vận dụng phương pháp giảng dạy mới một cách máy móc, hoặc chưa được thường xuyên, hoặc trở lại với thói quen dạy học cũ: thầy nói, trò nghe, ghi chép. Về phía học sinh: vẫn còn thói quen thụ động quen nghe chép ghi nhớ những gì giáo viên nói chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học. Đa số học sinh chưa chủ động v ận dụng kiến thức kỹ năng của văn học vào thực tế cuộc sống, ít biết liên hệ giữa thực tế cuộc sống với văn học. Từ đó dẫn đến việc học sinh ít nắm bắt, quan tâm hoặc thờ ơ với những vấn đề nóng hổi bức thiết của đời sống xã hội trong và ngoài nước. Từ thực tiễn trên có thể nói rằng việc tìm ra phương pháp tốt nhất để dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8 nói riêng và kiểu văn bản khác nói chung là một việc làm cần thiết trong xu thế phát triển ở môn Ngữ văn và trong nền giáo dục Việt Nam. III- Phương pháp nghiên cứu đề tài. 1. Thống kê, phân loại. Với phương pháp này tôi chia phần văn bản Ngữ văn lớp 8 thành kiểu bài tự sự, biểu cảm nghị luận, nhật dụng từ đó có cái nhìn toàn diện về kiến thức phần văn lớp 8 và xác định được vị trí nhiệm vụ kiểu văn bản nhật dụng căn cứ vào đó nghiên cứu vấn đề cụ thể của đề tài. 2. Miêu tả và phân tích. Dùng phương pháp này để chỉ rõ những phương pháp cơ bản, cấu trúc tiến hành dạy kiểu văn bản nhật dụng lớp 8. Trên cơ sở miêu tả nội dung của một bài văn bản nhật dụng lớp 8, đề xuất những nhiệm vụ, yêu cầu cùng với biện pháp thực hiện cho phù hợp. IV- Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài. Trong đề tài này, tôi dựa trên phương pháp dạy văn bản nói chung để nghiên cứu phương pháp dạy kiểu văn bản nhật dụng lớp 8. Minh hoạ cụ thể qua bài 10; tiết 39 "thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000". V- Nội dung đề tài. A. Cấu trúc chương trình Ngữ văn lớp 8. - Văn bản tự sự: 8 bài - Văn bản nhật dụng: 3 bài * Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000 * Ôn dịch, thuốc lá * Bài toán dân số - Văn bản biểu cảm: 11 bài - Văn bản nghị luận: 6 bài Nhìn chung hệ thống văn bản Ngữ văn lớp 8 rất phong phú, nhiều thể loại, nhiều bài với nội dung sâu sắc rất có ý nghĩa cho việc giảng dạy hiện nay. Từ sự kế thừa và phát triển nâng cao hơn so với hệ thống văn bản nhật dụng lớp 6, lớp 7 phần văn bản nhật dụng lớp 8 đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa rộng hơn, thiết thực hơn trong cuộc sống. Mặc dù chỉ có 3 tiết, không nhiều so với các kiểu văn bản biểu cảm, tự sự, nghị luận song nó lại có vị trí quan trọng thiết yếu trong việc giáo dục nhân cách cho học sinh. * Sách giáo khoa và sách giáo viên. - Sách giáo viên: Giáo viên dạy phải hiểu rằng, sách giáo viên không thể áp dụng máy móc cho bất kỳ đối tượng nào. Giáo viên sử dụng như một tài liệu tham khảo, hướng dẫn, cần cân nhắc, chọn lọc kiến thức cho phù hợp với học sinh của lớp mình dạy. B. Phương pháp dạy phần văn bản nhật dụng lớp 8. 1. Mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của việc dạy và học văn bản nhật dụng. - Trước hết phải hiểu được thế nào là văn bản nhật dụng; Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại. Nói đến văn bản nhật dụng trước hết nói đến tính chất của nội dung văn bản. Đó là những bài viết có nội dung gần gũi bức thiết đối với đời sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như thiên nhiên, môi trường, dân số v.v... - Mục đích dạy văn bản này là tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp học sinh hoà nhập với xã hội, quan tâm đến những vấn đề xã hội có ý nghĩa lâu dài, đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc, vừa gần gũi hàng ngày, gắn kết với đời sống thực tế (vấn đề môi trường, dân số, tệ nạn xã hội). Mỗi văn bản nhật dụng là một cánh cửa mở ra giúp các em có thêm hiểu biết về thế giới xung quanh, từ đó nâng cao làm phong phú thêm tâm hồn, tình cảm và nhận thức của các em. Ví dụ: ở văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000". Từ việc giúp các em nhận rõ tác hại của bao bì nilông giúp các em có hành động và ý thức bảo vệ môi trường, có suy nghĩ tích cực về các việc tương tự trong vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt, một vấn đề vào loại khó giải quyết nhất trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường. - ở văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" từ việc giúp các em nhận thức được tác hại to lớn, nhiều mặt của thuốc lá đối với đời sống cá nhân, cộng đồng đến việc tạo ra cho các em có ý thức quyết tâm phòng chống thuốc lá ở mọi nơi, mọi lúc. 2. Mục giới thiệu bài. Khi dạy bài "Ôn dịch, thuốc lá" giáo viên có thể trích dẫn câu "Thuốc lá còn đe doạ tính mạng, sức khoẻ con người còn mạnh hơn cả AIDS" vậy vì sao lại có thông tin đó chúng ta sẽ đi tìm hiểu tác hại của việc hút thuốc lá trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá". 3. Mục đọc hiểu văn bản. Trong dạy và học văn, đọc là một khâu rất quan trọng trong hoạt động tiếp nhận văn bản, bao gồm nhiều cách đọc khác nhau: đọc đúng, đọc thần, đọc thành tiếng, cơ bản là đọc diễn cảm. Trong chương trình Ngữ văn mới đọc là một trong bốn kỹ năng mà học sinh phải tương đối thành thạo, cần hướng dẫn cho học sinh đọc có vận dụng của tư duy, tình cảm, góp phần tái hiện nội dung văn bản. Điều cốt tử với mọi giờ học văn là từ đọc văn bản giúp học sinh hiểu - cảm thụ đúng văn bản thấm thía mối liên hệ khăng khít giữa văn bản với cuộc sống. Từ khâu đọc cũng có thể hình thành cho học sinh các kỹ năng phân tích, bình giá, cảm thụ và nghe tốt, nói tốt, viết tốt. Với văn bản nhật dụng khi đọc không cần nhiều ngữ điều như các văn bản tự sự, biểu cảm, yêu cầu đọc rõ ràng mạch lạc chính xác chú ý đến các thuật ngữ chuyên môn cần phát âm chuẩn xác. Nhấn mạnh, dừng lại lâu hơn ở những cấu tạo hình thức đặc biệt ví dụ như là dòng chữ in đậm trong "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000": Một ngày không sử dụng bao bì nilông hay ở bài "Ôn dịch, thuốc lá" "nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu" những câu cảm có dấu chấm than cần đọc với giọng phù hợp. Có thể nêu các câu hỏi đểư học sinh tự tìm ra yêu cầu của mỗi văn bản. Ví dụ: Theo em văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" chúng ta cần phải đọc với giọng như thế nào ? Hãy nêu yêu cầu đọc của văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" ? ở phần chú thích, bên cạnh việc giải nghĩa, ở đây còn có những thông tin khác về lịch sử, xã hội, chính trị ... cần lưu ý học sinh đọc kỹ cả những phần chú thích đó mới hiểu một cách đầy đủ sâu sắc, ý nghĩa của văn bản. Ngoài các từ trong phần chú thích sách giáo khoa giáo viên cần giảng thêm các từ ngữ khó khác. - Ví dụ trong văn bản "Bài toán dân số": giải thích "chàng Ađam và nàng Eva" theo kinh thánh của đạo Thiên chúa, đó là cặp vợ chồng đầu tiên trên trái đất được chúa tạo ra và sai xuống trần gian để hình thành và phát triển loài người. - Tồn tại hay không tồn tại: là câu nói nổi tiếng của nhà văn HămLet trong vở kịch "HămLet" của U.Sêcxpia (Anh). Trong bài "Ôn dịch, thuốc lá" giải thích: - Vi trùng: vi khuẩn gây bệnh - Ký sinh trùng: động vật bậc thấp sống bám vào, nhờ vào một sinh vật chủ nào đó. 4. Mục phân tích. Theo tôi ở phần này cần chú ý những điểm chính sau: a- Đảm bảo nguyên tắc tích hợp. Ngay từ khâu viết sách các nhà biên soạn đã có sự tích hợp, đó là việc thiết kế bài và hệ thống tiết dạy theo hướng đồng quy. ở lớp 6 nội dung chính của các văn bản nhật dụng viết về các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh và thiên nhiên môi trường. ở lớp 7 nội dung chính là những vấn đề về quyền trẻ em, nhà trường, phụ nữ, văn hoá, giáo dục. ở lớp 8 tập trung vào các nội dung cơ bản như vấn đề dân số, môi truờng tệ nạn xã hội. Nguyên tắc tích hợp thể hiện cụ thể ở nội dung từng bài. Ví dụ: ở văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" thực chất là một văn bản thuyết minh về một vấn đề khoa học hiểu được nó một cách cặn kẽ lại không phải đơn giản muốn dạy đạt kết quả cần tích hợp với những kiến thức đang và sẽ học về văn bản thuyết minh ở phần tập làm văn, tích hợp với một số kiến thức khoa học tự nhiên đang và sẽ học như: hoá học, sinh học, địa lý, giáo dục công dân. Ví dụ: nhận xét về cách trình bày bố cục của văn bản ? (Bố cục theo 3 phần: nêu vấn đề, phân tích trình bày cho vấn đề sáng tỏ, kêu gọi mọi người hành động theo vấn đề đã nêu ị cách trình bày rõ ràng chặt chẽ hợp lý, logíc khoa học: tích hợp với bố cục đặc điểm của kiểu văn bản thuyết minh. - Em hiểu gì về đặc điểm tính chất của plastic ? (là chất dẻo nhựa, vật liệu gồm phân tử pôlime, không tự phân huỷ được). - Các chất NH2, CH4 (mêtan), H2S (sunphurơ) là những chất như thế nào? Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá", "Dân số thế giới", tích hợp với môn lịch sử, địa lý, giáo dục công dân, phương pháp cách làm của văn bản thuyết minh nghị luận, tích hợp với phân môn tiếng Việt ở các yếu tố nghệ thuật. Ví dụ: - Khi nêu tác hại của thuốc lá đối với con người tác giả sử dụng những phương pháp thuyết minh nào ? (liệt kê, phân tích, giải thích). - Ngoài ra còn sử dụng phương thức biểu đạt nào khác ? (biểu đạt trực tiếp, gián tiếp). - Tác dụng của các phương thức biểu đạt đó ? - Trong văn bản "Bài toán dân số" có mấy luận điểm chính ? - Vấn đề nghị luận được đặt ra trong văn bản này là gì ? - Em rút ra kinh nghiệm gì về cách viết văn thuyết minh sau khi học văn bản này ? Dù có đề cập vấn đề thời sự bức thiết đến đâu, văn bản nhật dụng đưa vào sách giáo khoa phải đạt đến giá trị nghệ thuật nhất định. Bởi vậy, hoàn toàn có thể dạy văn bản ấy như một văn bản văn học (xét về phương diện phân tích từ ngữ, thủ pháp nghệ thuật). Một văn bản nhật dụng có thể sử dụng nhiều phương thức biểu đạt khác nhau. Giáo viên có thể căn cứ vào các nội dung đang học, đã học và sẽ học ở hai phần Tiếng Việt, Tập làm văn để xác định trọng điểm phân tích về mặt giá trị nghệ thuật cho phù hợp. Ví dụ: Trong văn bản "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000". - Để trình bày tác hại của việc sử dụng bao bì nilông tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nào ? (liệt kê) - Dùng biện pháp liệt kê đó có tác dụng gì ? (nêu được tác hại về mọi mặt của việc sử dụng bao bì nilông). - Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ của văn bản trên ? (ngắn gọn, rõ ràng, khoa học, chính xác, dễ nhớ dễ hiểu) ị Đặc điểm từ ngữ của kiểu văn bản thuyết minh. - Các trình bày câu, trừ ở đoạn cuối của văn bản có gì đặc biệt ? (chữ in to, sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ). - Có tác dụng gì ? (nhằm khuyên bảo, yêu cầu đề nghị mọi người hạn chế sử dụng bao bì nilông giữ gìn sự trong sạch của môi trường trái đất). Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá". - Cách trình bày ở tiêu đề văn bản có gì đặc biệt ? (Dấu phẩy được dùng theo lối tu từ để nhấn mạnh sắc thái biểu cảm - thái độ của tác giả: rất căm ghét thuốc lá, gây được sự chú ý với người đọc thấy được nghiện thuốc lá là một bệnh nguy hiểm). - Nhận xét về cách trình bày và nghệ thuật của câu: "Ôn dịch, thuốc lá đe doạ tính mạng, sức khoẻ con người còn mạnh hơn cả AIDS ?" (dòng chữ in nghiêng, biện pháp nghệ thuật so sánh). - Tác dụng của biện pháp nghệ thuật này ? (nhấn mạnh hiểm hoạ to lớn của việc hút thuốc lá). b- Sử dụng câu hỏi phát huy tính tích cực của học sinh. Muốn phát triển trí sáng tạo của học sinh phải chú ý đặc biệt đến phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Tốt nhất là tổ chức những tình huống có vấn đề, đòi hỏi dự đoán, nêu giả thiết, tranh luận giữa những ý kiến trái ngược nhau, đưa học sinh vào tình huống tự bộc lộ. Ví dụ trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá" có thể sử dụng một số câu hỏi như: - Trước thông tin: "Ôn dịch, thuốc lá còn nặng hơn cả AIDS" em có thái độ như thế nào ? (Ngạc nhiên, bất ngờ hay không ngạc nhiên? ) - Trong số những thông tin về chiến dịch chống thuốc lá, em chú ý nhất thông tin nào ? Vì sao ? (Học sinh tự bộc lộ theo nhận thức của từng cá nhân). - Em dự định sẽ làm gì trong chiến dịch chống thuốc lá rộng khắp hiện nay? Để phát huy tính tích cực của học sinh theo tôi giáo viên nên sử dụng cả những câu trắc nghiệm trong giờ học. Ngoài những câu hỏi quen thuộc như phát hiện, gợi tìm, suy luận ... việc đưa những câu hỏi trắc nghiệm trong khi giảng dạy là cần thiết (không nhất thiết cứ phải giờ kiểm tra, đánh giá mới sử dụng). Câu hỏi trắc nghiệm được xây dựng theo các dạng câu hỏi lựa chọn đúng sai, câu hỏi nhiều lựa chọn (thường là 4 lựa chọn) câu hỏi điền khuyết, câu hỏi đối chiếu, cặp đôi ... Những câu hỏi này sẽ góp phần rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, năng lực đọc hiểu văn bản, nắm vững và sử dụng các kiến thức kỹ năng từ ngữ ngữ pháp cho học sinh; hạn chế được thói quen học tư học lệch của học sinh, học sinh phải bỏ nhiều thời gian đọc và suy nghĩ trước khi trả lời. Ví dụ: ở bài "Bài toán dân số" - Theo em nguyên nhân chính của sự gia tăng dân số là gì ? A. Do khả năng sinh con trong thực tế của người phụ nữ rất lớn B. Do kinh tế thấp kém C. Do không có biện pháp kế hoạch hoá gia đình D. Do con người, nhất là phụ nữ chưa được hưởng quyền lợi giáo dục. - Theo em trong thực tế đâu là con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số ? A. Đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của quốc gia châu lục B. Đẩy mạnh sự phát triển giáo dục đối với phụ nữ C. Tạo nên sự ổn định về chính trị của quốc gia, châu lục ... D. Đẩy mạnh sự phát triển văn hoá, xã hội của quốc gia châu lục ... Tóm lại: có rất nhiều phương pháp giảng dạy để phát huy tính tích cực của học sinh, song giờ dạy chỉ dừng lại ở những câu hỏi gợi tìm, suy luận, khái quát đánh giá thì chưa đủ. Để có không khí học tập sôi nổi, huy động được nhiều học sinh tham gia theo tôi giáo viên cần đặc biệt chú ý đến cách đưa học sinh vào những tình huống có vấn đề để học sinh tự bộc lộc. Ví dụ: Em dự định sẽ làm gì để "Thông tin Ngày Trái Đất năm 2000" đi vào đời sống biến thành hành động cụ thể ?. - Chỉ sử dụng bao bì nilông khi thật cần thiết - Đề nghị mọi người trong gia đình hãy hạn chế sử dụng bao bì nilông - Gom nhặt bao bì nilông vào nơi quy định - Vẽ những bức tranh thể hiện tác hại của việc sử dụng bao bì nlông Đứng trước thực trạng môi trường đang bị huỷ hoại dần em có suy nghĩ như thế nào ? ở văn bản "Bài toán dân số" có thể liên hệ: Em có hiểu biết gì về sự gia tăng dân số ở địa phương em ? Nó có tác động gì tới đời sống kinh tế xã hội ? (Vẫn còn nhiều gia đình sinh con thứ ba, có gia đình sinh con thứ năm đời sống vật chất khó khăn, nhiều người trong họ trong khu đân cư phải trợ giúp, đến nhà trường phải miễn giảm học phí, không có điều kiện cho con ăn ngon mặc đẹp, nuôi dạy chúng trưởng thành cũng rất khó khăn). Theo em tại sao ở địa phương em vẫn có người sinh con thứ ba ? (Vì muốn có con trai có nhiều con cháu mới có nhiều phúc, tư tưởng thích đông con nhiều cháu ...) - Giả sử gia đình em bố mẹ chỉ sinh được 2 con gái, bây giờ có ý định sinh con thứ ba em sẽ làm gì để khuyên bố mẹ đừng sinh đẻ nữa ? Ví dụ: Trong văn bản "Ôn dịch, thuốc lá". - Em sẽ làm gì nếu trong gia đình em có người nghiện hút thuốc lá ? (Dẫn chứng những tác hại của thuốc lá mà em biết sau khi học xong văn bản, khuyên người đó bỏ thuốc bằng nhiều cách, có thể hút ít dần rồi bỏ hẳn, dùng kẹo cai nghiện ...) - Giải thích tại sao trên bao bì thuốc lá lại ghi: "Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ"? Có rất nhiều cách đưa ra những câu hỏi giúp học sinh liên hệ với thực tế cuộc sống, có thể đưa ra những tình huống giả định hoặc những câu hỏi chứa đựng những thông tin nhận thức về thực tế cuộc sống của các em. Có liên hệ với thực tế có đưa học sinh trở về với những vấn đề bức thiết của cuộc sống, khẳng định vai trò vị trí của các em trong hiện tại, tương lai mới thể hiện được giá trị của văn bản nhật dụng. c. Sử dụng tr
Bài Giảng Môn Học Ngữ Văn Lớp 8
– Hiểu được tình cảnh đáng thương và nỗi đau tinh thần của nhân vật chú bé Hồng, cảm nhận được tình yêu thương mãnh liệt của chú đối với mẹ.
– Hiểu được những đặc sắc của thể văn hồi kí qua cách viết của nhà văn Nguyên Hồng; lối tự truyện chân thành, truyền cảm, thấm đượm chất trữ tình.
– Rèn kĩ năng phân tích nhân vật, phân tích cách kể chuyện.
Ngày soạn: 30/ 08/ 2008 Tuần: 2 Tiết: 5 - 6 bài 2: văn bản trong lòng mẹ (trích: những ngày thơ ấu) nguyên hồng a. mục tiêu: Giúp h/s: - Hiểu được tình cảnh đáng thương và nỗi đau tinh thần của nhân vật chú bé Hồng, cảm nhận được tình yêu thương mãnh liệt của chú đối với mẹ. - Hiểu được những đặc sắc của thể văn hồi kí qua cách viết của nhà văn Nguyên Hồng; lối tự truyện chân thành, truyền cảm, thấm đượm chất trữ tình. - Rèn kĩ năng phân tích nhân vật, phân tích cách kể chuyện. b. chuẩn bị - GV: Giáo án, tập truyện ''Những ngày thơ ấu'' và chân dung nhà văn Nguyên Hồng, bảng phụ. - HS: Soạn bài trước ở nhà. c. lên lớp I. ổn định tổ chức II. kiểm tra bài cũ 5' - Phân tích tâm trạng và cảm giác bỡ ngỡ của nhân vật '' tôi '' trong buổi tựu trường đầu tiên. - Nhận xét nào đúng nhất những yếu tố góp phần tạo nên chất thơ của tác phẩm? A. Truyện được bố cục theo dòng hồi tưởng, cảm nghĩ của nhân vật ''tôi'' theo trình tự thời gian của buổi tựu trường. B. Có sự kết hợp hài hoà giữa các phương thức tạo lập văn bản như tự sự, miêu tả, biểu cảm. C. Tình huống truyện chứa đựng chất thơ kết hợp với việc sử dụng các hình ảnh so sánh giàu chất trữ tình. (D). Cả A, B, C đều đúng. III. Bài mới 1. giới thiệu bài: 2' GV cho HS quan sát chân dung nhà văn Nguyên Hồng và cuốn hồi kí tự truyện ''Những ngày thơ ấu''. Nguyên Hồng là một trong những nhà văn có tuổi thơ thật cay đắng, khốn khổ. Những kỉ niệm ấy đã được nhà văn viết lại trong tập tiểu thuyết tự thuật ''Những ngày thơ ấu''. Kỉ niệm ấy về người mẹ đáng thương qua cuộc trò chuyện với bà cô và cuộc gặp gỡ bất ngờ là một trong những chương truyện cảm động nhất. 2. Tiến trình bài dạy: 33' Thời gian Hoạt động Thầy Hoạt động Trò ND cần đạt 15' Hoạt động 1: Hướng dẫn h/s đọc, tìm hiểu chú thích, bố cục. - GV nêu yêu cầu đọc: giọng chậm, tình cảm, chú ý các từ ngữ, hình ảnh thể hiện cảm xúc của nhân vật ''tôi''. - Các từ ngữ, h/ả, lời nói của bà cô đọc với giọng đay nghiến, bộc lộ sắc thái châm biếm, cay nghiệt. ? Gv đọc mẫu, gọi 3-4 h/s đọc tiếp? ? Dựa trên phần soạn bài hãy nói vắn tắt về nhà văn Nguyên Hồng? ? Gv cho h/s hỏi đáp chú thích theo 2 nhóm: 6, 8, 12, 13, 14, 17? ? Đoạn trích ''Trong lòng mẹ'' có thể chia làm mấy phần? - HS nối nhau đọc truyện. Nhận xét cách đọc của bạn. - Nguyên Hồng là một trong những nhà văn lớn của nền văn học VN hiện đại. Ông là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết nổi tiếng: ''Cửa biển'', Bỉ vỏ, tập thơ trời xanh, Sông núi quê hương ...... - Thời thơ ấu trải nhiều cay đắng đã trở thành nguồn cảm hứng cho tác giả viết cuốn hồi kí tự truyện cảm động ''Những ngày thơ ấu'' 1938-1940. Tác phẩm gồm 9 chương, mỗi chương kể về một kỉ niệm sâu sắc. Đoạn trích thuộc chương 4 của tác phẩm. HS tự hỏi - đáp chú thích dựa vào SGK/ 19. P1: Từ đầu ... người ta hỏi đến chứ: Cuộc đối thoại giữa người cô và chú bé Hồng, ý nghĩ, cảm xúc của bé Hồng về người mẹ. P2: Còn lại: Cuộc gặp gỡ giữa hai mẹ con bé Hồng. I. Đọc, chú thích, bố cục 1. Đọc 2. Tác giả 1918 - 1982, quê ở Nam Định nhưng sống chủ yếu ở Hải Phòng. - Là nhà văn lớn của nền văn học VN. 3. Tác phẩm Trích từ chương 4 của tác phẩm. 4. Bố cục P1: Từ đầu ... người ta hỏi đến chứ: Cuộc đối thoại giữa người cô và chú bé Hồng, ý nghĩ, cảm xúc của bé Hồng về người mẹ. P2: Còn lại: Cuộc gặp gỡ giữa hai mẹ con bé Hồng. 18' Hoạt động 2: Hướng dẫn h/s đọc - hiểu văn bản. ? Chú bé Hồng được sinh ra trong hoàn cảnh gia đình ntn? GV: Rõ ràng hoàn cảnh gia đình như vậy cho nên chú bé Hồng sống dựa vào những người họ hàng thân thích bên nội trong đó có bà cô. ? Ngay ở phần đầu truyện bà cô xuất hiện với cử chỉ ''cười hỏi'' bé Hồng. Vậy cử chỉ và nội dung câu hỏi có thể hiện được tình yêu thương của bà cô với đứa cháu hay không? ? Em hiểu ''cười rất kịch'' có nghĩa là gì? ? Sau lời từ chối của bé Hồng cuộc đối thoại tưởng chừng chấm dứt, nhưng người cô đâu đã chịu buông tha. Vậy bà hỏi lại bé Hồng những gì? Nét mặt và thái độ của bà thay đổi ra sao? Hãy phân tích? GV: Rõ ràng bà cô quả là cay nghiệt và cao tay trước chú bé đáng thương và bị động. Cho đến khi chú phẫn uất, nức nở, nước mắt ròng ròng, rồi ''cười dài trong tiếng khóc'' hỏi lại, người cô vẫn chưa chịu buông tha. ? Qua việc phân tích trên em thấy bà cô bé Hồng là người như thế nào? GV: Hình ảnh bà cô gây cho người đọc sự khó chịu, căm ghét nhưng cũng chính là hình ảnh tương phản giúp tác giả thể hiện hình ảnh người mẹ và tình cảm của bé Hồng với mẹ mạnh mẽ hơn, mãnh liệt hơn. - Bố chết, cha đoạn tang, mẹ phải đi làm ăn xa và cũng chẳng khá giả gì, đã lâu rồi chú bé không được gặp mẹ. - Người cô ''cười hỏi'' chứ không phải lo lắng, nghiêm nghị hỏi lại, không phải là âu yếm hỏi lại. Lẽ thường, câu hỏi đó sẽ được trả lời rằng có, nhất là đối với chú bé vốn đã thiếu thốn tình yêu thương ấp ủ. Nhưng vốn nhạy cảm, nặng tình thương yêu và lòng kính mến mẹ chú bé Hồng lập tức nhận ra những ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô . Vì thế chú cúi đầu không đáp. - Rất kịch: giống như đóng kịch trên sân khấu, nhập vai, biểu diễn nghĩa là rất giả dối. Bà cô cười, hỏi ngọt ngào, dịu dàng nhưng không có ý định tốt đẹp mà đang có gắp tâm xấu đối với người cháu của mình. * Cô tôi hỏi luôn, giọng vẫn ngọt: hai con mắt long lanh nhìn cháu chằm chặp. Lời nói và cử chỉ càng chứng tỏ sự giả dối và độc ác của bà. Bà vẫn tiếp tục đóng kịch, tiếp tục diễu cợt, lôi kéo đứa cháu đáng thương vào một trò chơi độc ác đã dàn tính sẵn. * Cô tôi liền vỗ vai tôi cười mà nói rằng ''Mày dại quá...'' Rõ ràng cử chỉ ấy không chỉ lộ rõ sự giả dối, độc ác mà còn chuyển sang chiều hướng châm chọc, nhục mạ. Quả không gì cay đắng hơn khi vết thương lòng lại bị chính người cô ruột của mình săm soi, hành hạ. Hai tiếng ''em bé'' mà cô tôi ngân dài ra ..... * Cô tôi vẫn cứ tươi cười kể các chuyện cho tôi nghe. - Tình cảnh túng quẫn, dáng vẻ gầy guộc, rách rưới của mẹ chú bé được người cô miêu tả một cách tỉ mỉ với vẻ thích thú rõ rệt. Đối lập với tâm trạng đau đớn, xót xa như bị gai cào, muối xát của đứa cháu là sự vô cảm sắc lạnh đến ghê rợn của người cô. * Cô tôi bỗng đổi giọng, vỗ vai, nhìn vào mặt tôi nghiêm nghị. Cử chỉ và lời nói tiếp theo của bà cô phải chăng là sự thay đổi đấu pháp tấn công. Dường như đã đánh đến miếng đòn cuối cùng bà ta muốn làm cho đứa cháu đau khổ hơn, thê thảm hơn nữa. Khi thấy đứa cháu đau đớn, phẫn uất đến đỉnh điểm, bà ta mới tỏ ra ngậm ngùi, xót thơng ngời đã mất. Đến đây sự giả dối, thâm hiểm mà trơ trẽn của người cô đã phơi bày toàn bộ. Đó là người đàn bà lạnh lùng, độc ác, thâm hiểm. Đó là hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo hạng người sống tàn nhẫn, khô héo cả tình máu mủ ruột thịt trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. II. Đọc - hiểu văn bản. 1. Nhân vật bà cô (qua cái nhìn và tâm trạng của bé Hồng). (5') Bài tập: Theo em, nhớ lại cuộc trò chuyện với người cô tức là tác giả nhớ lại điều gì? A. Cảnh ngộ tội nghiệp của một đứa trẻ. B. Cảnh ngộ thương tâm của người mẹ hiền từ. C. Sự xảo quyệt và độc ác của người cô. (D). Gồm A và B. Ngày soạn: 30/ 08/ 2008 Tuần: 2 Tiết: 5 - 6 bài 2: văn bản trong lòng mẹ (trích: những ngày thơ ấu) nguyên hồng tiết 2 A. mục tiêu Giúp h/s: - Hiểu được tình cảnh đáng thương và nỗi đau tinh thần của nhân vật chú bé Hồng, cảm nhận được tình yêu thương mãnh liệt của chú đối với mẹ. - Hiểu được những đặc sắc của thể văn hồi kí qua cách viết của nhà văn Nguyên Hồng; lối tự truyện chân thành, truyền cảm, thấm đượm chất trữ tình. - Rèn kĩ năng phân tích nhân vật, phân tích cách kể chuyện. B. chuẩn bị - GV: Giáo án, bảng phụ. - HS: Bài soạn, đọc tiếp văn bản. C. lên lớp I. ổn định tổ chức II. Kiểm tra bài cũ 5' Nhân vật bà cô hiện lên trong cuộc trò chuyện với bé Hồng là một con người ntn? A. Là một người đàn bà xấu xa, xảo quyệt, thâm độc với những ''rắp tâm tanh bẩn''. B. Là một người đại diện cho những thành kiến phi nhân đạo, cổ hủ của XH lúc bấy giờ. C. Là một người có tính cách tiêu biểu cho những phụ nữ từ xưa đến nay. (D). Cả A và B. III. Bài mới 32' 1. Giới thiệu bài 2. Tiến trình bài dạy Thời gian Hoạt động Thầy Hoạt động Trò ND cần đạt 10' 10' ? Hãy cho biết hoàn cảnh sống hiện tại của chú bé Hồng ? ? Diễn biến tâm trạng của bé Hồng khi lần lượt nghe những câu hỏi và thái độ cử chỉ của bà cô ntn? N1: Khi nghe câu hỏi đầu tiên của người cô ''Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hoá ...''. N2: Lời hỏi thứ hai của người cô. N3: Khi nghe người cô kể về tình cảnh tội nghiệp của mẹ mình. - Gọi h/s nhận xét phần trình bày của nhóm mình. - Gọi h/s nhận xét phần trình bày. - GV: Có đặt cái thất vọng cùng cực trước khi chết khát như vậy mới thấy niềm vui sướng, hạnh phúc vô hạn của đứa con đang khao khát tình mẹ, được gặp mẹ và được nằm trong lòng mẹ. ? Cử chỉ, hành động và tâm trạng của bé Hồng khi bất ngờ gặp đúng mẹ mình ntn? GV bình: Chú bé Hồng bồng bềnh trôi trong cảm giác vui sướng, rạo rực, không mảy may nghĩ ngợi gì. Những lời cay độc của người cô, những tủi cực vừa qua bị chìm đi giữa dòng cảm xúc miên man ấy. - Bố chơi bời nghiện ngập, mất sớm. - Mẹ bỏ nhà tha hương cầu thực, gần năm trời không có tin tức gì? - Hồng phải sống với bà cô trong sự cô đơn, buồn tủi. N1: Mới đầu nghe người cô hỏi, lập tức trong kí ức chú bé sống dậy hình ảnh người mẹ với vẻ mặt rầu rầu và sự hiền từ . Từ ''cúi đầu không đáp rồi cười và từ chối dứt khoát là một phản ứng thông minh xuất phát từ sự nhạy cảm và lòng tin yêu người mẹ của chú bé. Bé Hồng đã sớm nhận ra những ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt của người cô mình . N2: Trước những câu hỏi, lời khuyên như xát muối vào lòng nhưng lại chứa đầy sự mỉa mai, nhục mạ của người cô, lòng bé Hồng càng thắt lại vì đau đớn, vì tủi nhục, xúc động vì thương mẹ, thương thân khiến khoé mắt em đã cay cay, rồi ''nước mắt ròng ròng rớt xuống hai bên mép, chan hoà đầm đìa ở cằm và cổ ''. Nỗi đau xót tức tưởi đang dâng lên trong lòng. N3 : Tâm trạng đau đớn, uất ức của chú bé dâng đến cực điểm khi nghe người cô cứ tươi cười kể về tình cảnh tội nghiệp của mẹ mình. Nguyên Hồng đã bộc lộ lòng căm tức tột cùng ấy bằng các chi tiết đầy ấn tượng. Lời văn lúc này dồn dập bằng các hình ảnh so sánh, các động từ mạnh: ''Giá những cổ tục ...''. Những câu nói cuối cùng bày tỏ sự ngậm ngùi của bà ta đối với người anh ruột cũng chỉ là lời vuốt đuôi, giả nhân giả nghĩa mà thôi. - Tiếng gọi ''Mợ ơi!'' bối rối, mừng tủi, xót xa, đau đớn, hi vọng. Chỉ là bóng của một người trông giống mẹ thôi nhưng bé Hồng đã cất tiếng gọi vang lên giữa đường thể hiện niềm khao khát gặp mẹ đang cháy lên trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ mồ côi. - Hình ảnh so sánh ở đây chỉ mang tính giả định nhưng lại rất độc đáo phù hợp với việc bộc lộ tâm trạng thất vọng rồi đến tuyệt vọng của bé Hồng. Tột cùng hạnh phúc, tột cùng đau khổ, cảm giác gần với cái chết. Đó là phong cách văn chương riêng của Nguyên Hồng. - Cuống cuồng đuổi theo xe mẹ, thở hồng hộc, ríu cả chân lại, oà khóc nức nở. Giọt nước mắt lần này khác hẳn với lần trước (khi trả lời bà cô) dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện. - Cảm giác sung sướng đến cực điểm của đứa con khi ở trong lòng mẹ được Nguyên Hồng diễn đạt bằng những rung động rất tinh tế, cảm nhận bằng nhiều giác quan. + Cảm nhận gương mặt mẹ, đôi mắt, nước da, hai gò má. + Cảm giác ấm áp, êm dịu mơn man khắp da thịt. + Hương thơm: hơi quần áo, mùi trầu nhai: vừa lạ lùng, vừa gần gũi. - Tất cả là hình ảnh về một thế giới đang bừng nở, hồi sinh, một thế giới dịu dàng kỉ niệm và ấm áp tình mẫu tử. - Đoạn văn đã diễn tả niềm sung sướng vô bờ khi được nằm trong lòng mẹ. Đó là những giây phút thần tiên hạnh phúc đẹp nhất của con người. Ngời mẹ, trong lòng đứa con trở nên vĩ đại biết bao. Được sống trong lòng mẹ những sầu đau, phiền muộn, tủi hổ dường như tan biến hết chỉ còn lại tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt. 2, Tình yêu thương của chú bé Hồng đối với người mẹ. b. Tâm trạng của bé Hồng khi gặp mẹ. 10' Hoạt động 3: Hướng dẫn HS tổng kết. ? Qua đoạn trích, hãy chứng minh rằng văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình? ? qua phần tìm hiểu (chương truyện) đoạn trích em hiểu thế nào là hồi kí? Gọi h/s đọc phần ghi nhớ/ sgk? - Chất trữ tình thấm đượm ở nội dung câu chuyện được kể ở những cảm xúc xót xa, căm giận, yêu thương lên đến cực điểm và cách thể hiện (giọng điệu, lời văn) của tác giả. + Tình huống và nội dung câu chuyện: hoàn cảnh đáng thương của chú bé Hồng, câu chuyện về một người mẹ âm thầm chịu đựng nhiều cay đắng. + Diễn biến tâm trạng của chú bé Hồng trong suốt đoạn trích: từ nỗi đau tủi hờn vì hoàn cảnh sống thiếu thốn tình ấp ủ đến sự phản ứng quyết liệt đối với những lời châm chọc của bà cô và cảm giác sung sướng khi nằm trong lòng mẹ. + Cách thể hiện của tác giả cũng góp phần quan trọng tạo nên chất trữ tình của chương hồi. - Các hình ảnh thể hiện tâm trạng, các so sánh gây sinh động và ấn tượng. - Kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể với bộc lộ cảm xúc. - Lời văn (nhất là phần cuối chương) được viết trong dòng cảm xúc dạt dào. - Hồi kí là một thể của kí, ở đó người viết kể lại những chuyện, những điều chính mình đã trải qua, đã chứng kiến. - Hs đọc ghi nhớ. III. Tổng kết 1. Nghệ thuật: - Cách thể hiện của tác giả cũng góp phần quan trọng tạo nên chất trữ tình của chương hồi. - Các hình ảnh thể hiện tâm trạng, các so sánh gây sinh động và ấn tượng. - Kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể với bộc lộ cảm xúc. - Lời văn (nhất là phần cuối chương) được viết trong dòng cảm xúc dạt dào. III. Ghi nhớ 7' Hoạt động 4: Hướng dẫn luyện tập. ? Có nhà nghiên cứu nhận định Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng. Qua đoạn trích ''Trong lòng mẹ'' hãy chứng minh nhận định trên? - Nguyên Hồng là nhà văn viết nhiều về phụ nữ và nhi đồng. Đây là những con người xuất hiện nhiều trong thế giới nhân vật của ông. Ông đã dành cho họ lòng thương yêu và thái độ nâng niu trân trọng. + Nhà văn đã kể lại một cách thấm thía những nỗi cơ cực, tủi nhục mà người phụ nữ và nhi đồng phải gánh chịu thời trước. + Nhà văn trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, đức tính cao quý của phụ nữ và nhi đồng. IV. Luyện tập. BT: CM nhận định. + Nhà văn đã kể lại một cách thấm thía những nỗi cơ cực, tủi nhục mà người phụ nữ và nhi đồng phải gánh chịu thời trước. + Nhà văn trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, đức tính cao quý của phụ nữ và nhi đồng. IV. Củng cố và hướng dẫn về nhà 5' 1. Củng cố: 3' - Tình thương yêu của chú bé Hồng đối với mẹ được miêu tả như thế nào? - Tâm trạng của bé Hồng khi gặp mẹ như thế nào? - Văn bản có nét gì đặc sắc về nghệ thuật? 2. Hướng dẫn về nhà: 2' - Học thuộc ghi nhớ. - phân tích diễn biến tâm trạng bé Hồng trong đoạn trích. - Soạn bài mới: ''Tức nước vỡ bờ''.Sáng Kiến Kinh Nghiệm Vài Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 8 Học Tốt Kiểu Văn Bản Thuyết Minh
đáng kể khi học văn thuyết minh. - Năng lực thực hành còn hạn chế, chủ yếu bám SGK và những gì có sẵn trong SGK để vận dụng Những nhược điểm nêu trên lâu dần thành thói quen thụ động, đối phó, thậm chí "xa lạ" với những gì diễn ra xung quanh, trong đời sống hằng ngày mà ai cũng có thể bắt gặp. 2. Về phía người dạy: Văn bản thuyết minh vốn rất thông dụng, nhưng lần đầu tiên hệ thống thành phương pháp luận, giáo viên ít nhiều còn bỡ ngỡ trong việc định hướng các hoạt động dạy học để đạt hiệu quả cao nhất. Có trường hợp xem nhẹ vai trò của văn bản thuyết minh so với các kiểu văn bản khác đã được đưa vào chương trình từ ban đầu. Vì thế trong quá trình dạy văn bản thuyết minh, người dạy chưa thật sự chú ý tìm ra các biện pháp dạy học tốt nhất, còn chung chung, chủ yếu theo SGK và hướng dẫn trong sách giáo viên. Kết quả, khả năng viết một bài văn thuyết minh của các em chưa tốt, đôi khi không đúng kiến thức về đối tượng thuyết minh đó , thiếu thuyết phục người nghe, thậm chí có nhiều bài viết học sinh trình bày như một bài học của môn khoa học công nghệ . Từ cơ sở khoa học và thực tiễn ấy, chúng tôi nghĩ rằng việc rèn luyện kĩ năng thực hành, thực tế cho học sinh khi viết văn thuyết minh là điều đáng quan tâm. Giúp các em có thêm kiến thức thực tế từ nhiều đối tượng khác nhau để bài học được nhẹ nhàng, linh hoạt hơn. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Cơ sở lí luận: - Văn bản thuyết minh rất thông dụng, từ lâu đã được nhiều nước trên thế giới đưa vào chương trình học cho học sinh. Nó trình bày tính chất, cấu tạo, cách dùng cùng lí do phát sinh, qui luật phát triển, biến hóa của sự vật, nhằm cung cấp tri thức, hướng dẫn cách sử dụng cho con người. Hai chữ thuyết minh bao gồm cả ý giải thích trình bày, giới thiệu cho được hiểu rõ. - Khác với các văn bản tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, văn bản thuyết minh chủ yếu trình bày tri thức một cách khách quan, giúp con người hiểu được đặc trưng, tính chất của sự vật, hiện tượng và biết cách sử dụng chúng vào mục đích có lợi cho con người. Văn bản thuyết minh gắn liền với tư duy khoa học, đòi hỏi chính xác, rạch ròi. Muốn làm được bài thuyết minh, phải tiến hành đìều tra, nghiên cứu, học hỏi, tích lũy tri thức. - Tuy mới đưa vào chương trình, nhưng văn bản thuyết minh không xa lạ đối với học sinh, bởi bài giảng của các thầy cô trong tất cả các môn học chính là bài thị phạm tốt cho văn bản thuyết minh. Chỉ cần giáo viên có ý thức hướng dẫn là học sinh có thể làm được bài thuyết minh. - Trong chương Ngữ văn lớp 8, văn bản thuyết minh được học trong 13 tiết (chưa kể trả bài cũng như các văn bản phục vụ cho văn bản thuyết minh).Cụ thể: + Học kì I : 7 tiết ( 4 tiết lí thuyết, 1 tiết luyện nói, 2 tiết làm bài viết) + Học kì II: 6 tiết ( 2 tiết lí thuyết, 1 tiết thực hành viết đoạn, 1 tiết ôn tập, 2 tiết làm bài viết) - Ngoài kiến thức trong các văn bản đang học, tất cả các bài học về văn bản thuyết minh (chương trình Ngữ văn lớp 8) đều nhằm tích cực hóa, kích thích sự quan sát và ghi nhận của học sinh về một đối tượng thuyết minh. Qua đó, làm sáng tỏ một chân dung, một thắng cảnh, một đồ vật, một nét sinh hoạt văn hoá đã và đang gắn bó gần gũi với đời sống thực tại. Điều ấy nhằm nâng cao sự hiểu biết tri thức phổ thông của người học, giúp học sinh có thêm vốn sống và biết vận dụng những kiến thức ấy vào bài học, vào cuộc sống. 2. Quá trình thực hiện: - Năm học thứ 1: (2005-2006): Nghiên cứu thực trạng, hình thành ý tưởng cải tiến, vạch kế hoạch thực hiện. - Năm học thứ 2: (2006-2007): Chọn lớp thử nghiệm, thực nghiệm và lớp đối chiếu; từng bước bổ sung, rút kinh nghiệm. - Năm học thứ 3: (2007-2008): Tiếp tục chọn thực nghiệm ở mức độ cao hơn, triển khai thực hiện đại trà trên tất cả các lớp được phân công giảng dạy, tổng kết kinh nghiệm hoàn chỉnh đề tài. - Chúng tôi chỉ làm những việc trên đối với các lớp được thử nghiệm và thực nghiệm. - Riêng lớp đối chứng (không áp dụng đề tài) chúng tôi dạy bình thường, chỉ khơi gợi những điểm có trong đề tài để các em tự học. Từ cách học của các em, chúng tôi tự đúc rút, nhận xét, bổ sung cho việc thực hiện đề tài ở các lớp được áp dụng. - Đối với lớp được áp dụng, chúng tôi cũng chỉ thực hiện và áp dụng từng bước trong phạm vi đề tài, tuỳ theo nội dung bài mà chúng tôi đi nhiều hay ít các bước hoặc chọn lựa thế mạnh ở những nội dung nào mà thực hiện. 3. Các bước tiến hành: 3.1. Chuẩn bị của giáo viên: Để chuẩn bị cho việc thực hiện đề tài, tôi đã đầu tư từ năm học trước và lần lược tiến hành các bước sau: 3.1.1. Nghiên cứu, nắm đặc trưng kiểu văn bản thuyết minh, tìm hiểu nội dung chương trình giảng dạy và sách giáo khoa, sách tham khảo lớp 8, tùy thời lượng được phân bố, tùy nội dung kiến thức bài dạy, chú ý các thế mạnh của các phương pháp được áp dụng. 3.1.2. Tìm hiểu, nắm kĩ lại các phương pháp để tìm cách kết hợp vận dụng theo từng bài, từng lớp khác nhau, chú ý các thế mạnh của các phương pháp được áp dụng. 3.1.3. Ghi chép, lựa chọn nhiều cách làm, tìm cách đối chiếu, khắc phục và bổ sung. 3.1.4. Chọn lọc các đối tượng cần thể nghiệm, đối chứng. 3.2. Tổ chức dạy học trên lớp: Như đã trình bày, trên cơ sở xây dựng cách làm mới về phương pháp nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu bài học, giúp các em bước đầu tìm hiểu đặc trưng của kiểu văn bản thuyết minh so với các loại văn bản khác, nhận diện văn bản thuyết minh, tích luỹ tri thức khách quan, nắm vững các phương pháp thuyết minh, cách viết "văn" trong văn bản thuyết minh. 3.2.1 MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN: 3.2.1.1. Biện pháp giúp HS hiểu rõ đặc điểm của văn bản thuyết minh so với loại văn bản khác: - Như đã biết, văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng nhằm cung cấp tri thức (kiến thức) một cách khách quan, chính xác, về mọi hiện tượng sự vật trong đời sống xã hội. Đây là kiểu văn bản lần đầu tiên được đưa vào chương trình Tập làm văn bậc THCS ở Việt Nam, mặc dù nó là loại văn bản hết sức thông dụng và rất phổ biến từ lâu ở nhiều nước trên thế giới. Cũng chính vì tính chất phổ biến thông dụng ấy mà văn bản thuyết minh rất gần gũi với đời sống. con người, xã hội (Từ một vật dụng, đồ dùng quen thuộc cho đến một danh lam thắng cảnh, từ một lời giới thiệu xuất xứ của một đồ vật bình thường đến những chân dung con người và những kiến thức (tri thức) khoa học rộng lớn nhưng rất gần gũi, thân quen). - Hiểu được đặc điểm ấy để HS có thể rút ra được những kết luận về nhiệm vụ mà văn bản thuyết minh thường làm. Và do vậy, không phải ngẫu nhiên mà sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn 8 (trong bài "Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh") đưa ra một tiêu đề: "Văn bản thuyết minh trong đời sống con người". Sau đó là những đoạn thuyết minh mẫu đã bộc lộ được "đời sống con người" mà các văn bản khác không thể thay thế được. Đó chính là một "kiểu riêng" của văn bản thuyết minh. - Để làm được nội dung trên (hình thành khái niệm, kết luận), chúng ta khai thác ý nghĩa thực tế và thông dụng từ các văn bản mẫu mà SGK đưa ra, đồng thời lấy thêm ví dụ từ các bài dạy của giáo viên ở các môn học minh họa thêm giúp học sinh nắm được đặc điểm của văn bản thuyết minh. Sau đó làm cho HS thấy được nội dung lợi ích, ý nghĩa của những sự vật, hiện tượng, một nét sinh hoạt văn hóa nào đó mà đôi khi đối với các em nó trở thành xa lạ, khó thực hiện, nếu chưa học văn thuyết minh. Thậm chí các em có thể cung cấp (cho lớp học) nhiều đề tài, vật dụng để thuyết minh và tập thuyết minh. Qua đó, HS có kĩ năng nhận biết và thực hành văn thuyết minh như một nhu cầu trong đời sống mà các em đã quan sát, tìm hiểu. 3.2.1.2. Biện pháp giúp HS nhận diện văn bản thuyết minh: - Việc thông hiểu và nhận diện văn bản thuyết minh với đặc điểm cơ bản của nó cũng là điều đáng lưu ý, bởi qua đó HS sẽ có điều kiện để tiếp nhận dễ dàng và dẫn đến làm tốt văn bản thuyết minh. Trên cơ sở phân biệt với các kiểu văn bản khác (như đã nói ở bước một), văn bản thuyết minh làm cho người ta "hiểu" bản chất của sự vật, hiện tượng chứ không phải nặng về diễn biến sự việc, lí lẽ, suy luận, hoặc dùng luận điểm, dẫn chứng như các văn bản khác. Nó hoàn toàn là một kiểu giải thích bằng lí tính, bằng tri thức khoa học khách quan và chính xác, bằng sự quan sát và nhận xét của người viết để phát hiện đặc điểm tiêu biểu, bản chất của sự vật. Có nghĩa là nó cung cấp một tri thức khách quan cho người đọc. - Với cách hiểu và phân biệt như trên, ngoài những câu hỏi tìm hiểu bài ở SGK, chúng tôi thường cung cấp và khai thác bằng những gợi ý như sau để trên cơ sở ấy HS dễ dàng nhận diện một văn bản thuyết minh (mà tự sự, miêu tả, nghị luận, biểu cảmđều không có). Ví dụ: Câu hỏi 1: Em hiểu được điều gì qua đối tượng của bài thuyết minh trên? Câu hỏi 2: Văn bản trên đã cung cấp cho em những kiến thức nào? Muốn có kiến thức ấy, em phải làm gì? Câu hỏi 3: Theo em, văn bản thuyết minh được sử dụng ở phạm vi rộng hay hẹp, vì sao? Câu hỏi 4: Theo em, tác dụng của văn bản thuyết minh đối với đời sống hằng ngày như thế nào? Câu hỏi 5: Vì sao em nhận ra văn bản trên (đã cung cấp) là văn bản thuyết minh? Câu hỏi 6: Thử đặt những đề tài, đối tượng thuyết minh mà em đã biết, muốn biết hoặc chưa biết? Với những gợi ý trên, giáo viên sẽ lần lượt chuyển tải để từng bước, HS nhận rõ văn bản thuyết minh một cách tương đối dễ dàng, gọn nhẹ hơn. Qua đó nhằm tăng thêm tính thực tế, thực dụng của loại văn bản này để bước đầu biết vận dụng thực hành một cách tích cực hơn. 3.2.1.3. Biện pháp giúp HS tích luỹ tri thức khách quan: Tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống (ở một khía cạnh, phạm vi, tác dụng nào đó) đều có thể thuyết minh được và nhờ văn thuyết minh mà người viết, người đọc đều tự cung cấp cho mình một kiến thức nhất định. Vì vậy yêu cầu đầu tiên của văn thuyết minh là phải có "tri thức" về đối tượng. Làm thế nào để có kiến thức ấy? Đối với HS yêu cầu này cũng không phải dễ. Ngoài những điều được SGK cung cấp, trong quá trình dạy văn thuyết minh, chúng tôi thường chú ý và nhấn mạnh những nội dung, việc làm sau đây: - HS phải tìm được những yếu tố thuyết minh có trong văn bản đã và đang học. Chỉ rõ đối tượng ấy được thuyết minh bằng những phương pháp nào? Trình bày những hiểu biết của em (HS) về đối tượng sau khi đọc văn bản thuyết minh ấy. - Tổ chức hoặc gợi ý cho HS quan sát, nhận xét về các sự vật, hiện tượng phổ biến xung quanh đời sống, từ mức độ thấp (đồ vật quen thuộc, cây cối, hoa lá) đến mức độ cao hơn (di tích, thắng cảnh, nét sinh hoạt văn hoá, lễ hội). Sau đó ghi chép những đặc điểm cơ bản rồi trình bày ở lớp. - Quan sát và ghi chép từ những đối tượng gần (trong địa phương hẹp- làng xóm, phố phường, huyện thị đến địa phương rộng- tỉnh thành đến ngoài địa phương (nếu có dịp đi tham quan, du lịch). - HS biết cách tìm và nêu những đối tượng thuyết minh mà mình hoặc người khác chưa biết (hoặc ngược lại) nhằm cung cấp qua lại kiến thức về đối tượng. Những biện pháp nhỏ nêu trên vừa gắn với thực tế đời sống, vừa cung cấp phổ biến được kiến thức vừa tăng tính thực hành một cách sinh động và phong phú hơn, tránh áp đặt nặng nề trong khi học văn thuyết minh, hướng đến tư duy tích cực nhạy bén hơn ở lứa tuổi HS. 3.2.1.4. Biện pháp giúp HS nắm được mô hình dàn ý cho từng đối tượng thuyết minh: Trong đời sống có rất nhiều đối tượng cần thuyết minh. Nếu không có một định hướng và định tính HS rất dễ lúng túng khi gặp một đối tượng cụ thể không có trong SGK. Để giúp các em chủ động xây dựng dàn ý chi tiết cho bài văn thuyết minh về bất kì một đối nào, chúng tôi cung cấp cho các em mô hình dàn ý cho từng nhóm đối tượng một cách ngắn gọn theo bảng sau: NHÓM ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG CHÍNH TỪNG PHẦN Mở bài Thân bài Kết bài Một đồ vật Giới thiệu chung về đồ vật ( nêu định nghĩa về đồ vật ) - Cấu tạo - Công dụng - Cách sử dụng, bảo quản Nhấn mạnh vai trò của đồ vật trong cuộc sống con người Một loài vật Giới thiệu chung về loài vật trong đời sống con người - Đặc điểm về giống, loài - Đặc điểm về tập tính, sinh trưởng - Lợi ích các mặt của loài vật - Cách nuôi dưỡng Nhấn mạnh vai trò của loài vật đối với đời sống con người Một loài cây Giới thiệu chung về loài cây trong đời sống con nguời - Đặc điểm về giống loài, hình dáng - Đặc điểm sinh trưởng (khí hậu, thổ nhưỡng, thời vụ) - Lợi ích các mặt đối với đời sống tự nhiên, đời sống con người - Cách trồng trọt, chăm sóc Nhấn mạnh vai trò của loài cây đối với con người Một phương pháp (cách làm) Giới thiệu chung về phương pháp (cách làm), nhu cầu phải có phương pháp (cách làm) - Nguyên vật liệu - Cách làm : trình tự các công việc - Yêu cầu thành phẩm Công dụng của phương pháp (cách làm) Một thể loại văn học Giới thiệu chung về thể loại ( nêu định nghĩa chung về thể loại văn học) - Đặc điểm về hình thức theo từng thể loại văn học cụ thể - Nội dung khái quát của thể loại Vai trò của thể loại văn học trong việc phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm Một danh lam thắng cảnh Giới thiệu chung về danh lam thắng cảnh (nhận định chung về danh lam thắng cảnh) - Vị trí địa lí -Quang cảnh chung - Các đặc điểm tiêu biểu - Lợi ích các mặt của danh lam, thắng cảnh Vị trí của danh lam thắng cảnh trong đời sống tình cảm của con người 3.2.1.5. Biện pháp giúp HS biết cách viết văn bản thuyết minh: Từ việc phân biệt văn thuyết minh và các loại văn bản khác (đã nói ở phần trên và trong nhiều tiết). GV cũng chú ý cách viết của HS với loại văn bản này. Dù quen thuộc, gần gũi nhưng văn thuyết minh vẫn là mới so với HS lần đầu tiên được đưa vào chương trình THCS. Nếu xét riêng về miêu tả, tự sự thì các em đã được làm quen từ bậc Tiểu học. Từ lớp 6 trở lên HS được tiếp tục nâng cao. (Riêng thuyết minh không được như vậy HS chỉ được học trong chương trình lớp 8,9). Do vậy, đã phân biệt được thể loại, cũng cần phân biệt được cách viết. Tựu trung lại, chúng tôi đã hướng cho HS chú ý những cách viết sau: - Biết dùng thuật ngữ về đối tượng thuyết minh (nếu có) (do xuất phát nhu cầu của tri thức khách quan, khoa học). - Cách hiểu của văn thuyết minh phải xuất phát từ tri thức về sự vật, hiện tượng được thuyết minh chứ không phải cách hiểu của người giải thích. Và do vậy, cách diễn đạt và từ ngữ của văn thuyết minh cần chính xác, gần gũi, khúc chiết, sáng tỏ, tránh mơ hồ, suy diễn. Thậm chí những đối tượng có tính khoa học thì khó tránh được sự khô khan. Song, không vì vậy mà văn bản thuyết minh kém hấp dẫn. Sự hấp dẫn ấy chính là tri thức nó cung cấp với một giọng văn gọn gàng, dễ hiểu, trong sáng và khách quan. 4. Kết quả thực hiện đề tài: Tất nhiên, khi chưa áp dụng đề tài các tiết dạy kiểu văn bản thuyết minh cũng phải đạt mục tiêu bài học đã được xác định, nhưng mức độ khắc sâu về kiểu văn bản thuyết minh thì chưa đạt được. Qua thực hiện đề tài, chúng tôi nhận thấy kết quả giờ dạy không dừng lại ở mức độ chung như các tiết dạy bình thường, mà đáng quan tâm hơn là nó đã giúp HS hứng thú hơn, biết cách làm một bài văn thuyết minh hơn. Chúng tôi xin nêu một số kết luận về kết quả cụ thể ở từng mặt như sau: 4.1. Về kiến thức, kĩ năng: - Học sinh nắm rõ, nắm sâu về kiểu văn bản thuyết minh mà các em đang học. Qua đó, các em mới có điều kiện tự trang bị cho mình để hiểu đúng, hiểu sâu về kiểu văn bản thuyết minh mà các em đang học hoặc được đọc, được nghe. - Tính hấp dẫn có được bởi bám sát thực tế hằng ngày mà các em thường bắt gặp, quan sát nhưng chưa có điều kiện bộc lộ, thể hiện. - Có được một số thông tin, kiến thức có tính chất phổ thông mà lứa tuổi các em thường bỏ qua hoặc thiếu quan tâm. - Tăng cường, nâng cao được kĩ năng làm bài văn thuyết minh. - Biết tìm, phân tích, đánh giá một bài văn thuyết minh hay. 4.2. Về thái độ: - HS ham thích và nhiệt tình, tích cực hơn khi học văn thuyết minh, dù đây là loại văn bản Tập làm văn lần đầu được đưa vào chương trình, dễ có sự khô khan, nhàm chán khi dạy và học văn bản này. - Có sự chăm chỉ, tích cực và nghiêm túc trong hoạt động xây dựng bài học, giờ học có hứng thú. - Thể hiện được kĩ năng thực hành, thực tế để có tri thức khách quan về một đối tượng thuyết minh nào đó. - Có cảm hứng thích thú, học sinh ham thích hoạt động yêu mến khi học kiểu văn bản thuyết minh. - Kết quả khảo sát: So với lớp đối chứng, ở các lớp thực hiện đề tài tỉ lệ HS nắm vững khái niệm, kiểu văn bản thuyết minh, có kĩ năng làm một bài văn thuyết minh tăng lên rõ rệt: Năm học Tỉ lệ tăng ( % ) Nắm vững kiểu văn bản Kĩ năng làm bài văn thuyết minh 2005 - 2006 35 25 2006 - 2007 40 36 2007- -2008 44 45 III. KẾT LUẬN: Xuất phát từ cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn như đã trình bày trên, chúng tôi thấy rằng việc hướng dẫn, xây dựng cho học sinh có được những kĩ năng thực hành, thực tế để thực hiện một bài văn thuyết minh hoàn chỉnh là không dễ. Trong khi nhiều năm, dù cố gắng hết sức, bản thân chúng tôi cũng chưa làm được nhiều, được tốt như yêu cầu mong muốn và thực tế giảng dạy đặt ra cho học sinh lớp 8 đối với văn thuyết minh nói riêng. Thêm nữa, khi lên lớp 9 HS sẽ được nâng cao hơn về văn thuyết minh biết kết hợp với một số biện pháp nghệ thuật giúp sự diễn đạt được sinh động, linh hoạt hấp dẫn hơn (nhưng vẫn không quên tính chất thuyết minh là chủ yếu). Thiết nghĩ, nếu học tốt văn thuyết minh, ngoài những yêu cầu cơ bản, còn giúp cho HS có thói quen quan sát và cảm nhận cuộc sống xung quanh một cách nhạy bén, tích cực hơn. Qua đó tự làm cho kiến thức của mình thêm phong phú, da dạng, nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay và vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc. Mặc dù việc làm trên không mới mẻ, tuy nhiên, nội dung lại phong phú. So với cách đi bình thường theo lí thuyết từ các bài học ở SGK (phần văn thuyết minh), vấn đề trên đã tạo được tình huống học tập, khơi gợi được sự động não tìm tòi của học sinh. Chúng tôi nhận thấy giờ học sôi nổi, sinh động và hứng thú, tránh được sự nặng nề, khô khan trong phân môn Tập làm văn. Qua việc giảng dạy và kiểm tra, chúng tôi đã khẳng định được tính khoa học và tính khả thi của nội dung vấn đề này. Bài học kinh nghiệm: Đạt được những kết quả trên là cả một quá trình nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm, tôi xin được trình bày với các đồng nghiệp một số kinh nghiệm sau: - Ngoài việc nghiên cứu thật kĩ kiểu văn bản thuyết minh trong chương trình Ngữ văn 8, giáo viên còn phải có định hướng rõ ràng và cụ thể cho từng tiết dạy. Trên cơ sở định hướng, xác định yêu cầu khắc sâu kiến thức, rèn luyện kĩ năng, bồi dưỡng tình cảm, giáo dục thái độ cho HS một cách phù hợp. - Thiết kế giáo án hợp lí, khoa học, cụ thể, có định hướng nội dung, phương pháp, biện pháp, hình thức hoạt động tương ứng với từng loại đối tượng. - Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp sát với giáo án, xử lí linh hoạt các tình huống sư phạm nảy sinh trong giờ học. - Đề ra các yêu cầu kiểm tra, khảo sát kết quả cụ thể, sát hợp với từng loại đối tượng để đánh giá chính xác mức độ đáp ứng các yêu cầu đã xác định. - Rút kinh nghiệm kịp thời để điều chỉnh cho tiết dạy sau. - Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện đề tài, tiến tới triển khai đại trà cho tất cả các tiết dạy học kiểu văn bản thuyết minh. 2. Kiến nghị, đề nghị: Để đề tài đạt hiệu quả hơn, chúng tôi xin đề nghị với các đồng nghiệp một số điểm sau: - Cần nhiều thời gian hơn để cung cấp, gợi mở cho các em chuẩn bị những yêu cầu cần thiết trước khi tiến hành tiết dạy ( có thể bằng phiếu yêu cầu chuẩn bị tiết học). Chú ý tính hệ thống của chương trình, khả năng tích hợp kiến thức của các bài học cùng thuộc kiểu văn bản thuyết minh - Tăng cường các hoạt động ngoại khoá để giúp HS rèn luyện kĩ năng thực hành, thực tế khắc sâu thêm hiểu biết của các em . Những hoạt động này trên lớp không đủ thời gian và đáp ứng hết được, rất cần dành nhiều thời gian cho hoạt động ngoại khóa sẽ có hiệu quả cao hơn. Quá trình thực hiện đề tài dù đã được đầu tư kĩ, rút kinh nghiệm nhiều lần, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót hoặc còn có chỗ chưa thoả đáng. Vì thế chúng tôi rất mong muốn nhận được sự góp ý của quý đồng nghiệp để việc thực hiện đế tài đạt hiệu quả cao hơn. Xin trân trọng cảm ơn mọi đóng góp của quý đồng nghiệp./. Đà Nẵng, ngày 06 tháng 02 năm 2009 Người thực hiện đề tài Nguyễn Thị Hồng Vân
Đề Cương Ôn Tập Học Kì 1 Môn Ngữ Văn Lớp 8
Đề cương ôn tập học kì 1 môn Ngữ văn lớp 8 bao gồm các kiến thức về phần văn học, tiếng việt và tập làm văn được tổng hợp chi tiết và cụ thể, giúp các bạn học sinh tự ôn luyện kiến thức môn văn lớp 8 dễ dàng hơn. Mời các bạn tham khảo nhằm đạt điểm cao trong các bài thi giữa kì, thi cuối kì.
Ngoài ra, chúng tôi đã thành lập group chia sẻ tài liệu học tập THCS miễn phí trên Facebook: Tài liệu học tập lớp 8. Mời các bạn học sinh tham gia nhóm, để có thể nhận được những tài liệu mới nhất.
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 8 HKIA – PHẦN VĂN HỌC:I. Truyện kí Việt Nam: 4 văn bản: Cần nắm được tác giả, xuất xứ văn bản, tóm tắt văn bản, nội dung, nghệ thuật, cảm nhận được về nhân vật, vận dụng làm bài văn tự sự hoặc thuyết minh về tác giả – tác phẩm.
II. Văn học nước ngoài: 4 văn bản: Cần nắm được tác giả, xuất xứ văn bản, tóm tắt văn bản, nội dung, nghệ thuật, cảm nhận được về nhân vật.
Cô bé bán diêm (Truyện cổ An -đec-xen)
Đánh nhau với cối xay gió (trích Đôn-Ki-hô-tê của Xéc-van-tét)
Chiếc lá cuối cùng (O.Hen-ri)
Hai cây phong (trích Người thầy đầu tiên – Ai-ma-tốp)
III. Văn bản nhật dụng: 3 văn bản: Cần học nội dung ý nghĩa, áp dụng viết đoạn văn vận dụng liên hệ thực tế cuốc sống bản thân và Viết Bài văn Nghị luận xã hội
IV. Thơ Việt Nam đầu TK XX: 5 bài thơ: Cần nắm được tác giả, thể thơ, thuộc thơ, nội dung, nghệ thuật, phân tích được những câu thơ, khổ thơ đặc sắc.
Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (Phan Bội Châu)
Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu Trinh)
Muốn làm thằng Cuội (Tản Đà)
Hai chữ nước nhà (Trần Tuấn Khải)
Ông đồ (Vũ Đình Liên)
V. Văn học địa phương: VB: Nước lụt Hà Nam (Nguyễn Khuyến)
Cần nắm được tác giả, thể thơ, thuộc thơ, nội dung, nghệ thuật đặc sắc của bài thơ, áp dụng bài tập làm văn TM: Giới thiệu về danh nhân NK
Câu hỏi tự luận:
Câu 1: Tình cảm của Nguyễn Khuyến với quê hương Hà Nam qua bài thơ Nước lụt Hà Nam được biểu hiện như thế nào?
Gợi ý:
Giọng điệu thơ xót xa, buồn, thấm đẫm tình cảm. Ông thấy được cuộc sống của người dân vùng nông thôn Hà Nam lay lắt, vô cùng cực khổ, khốn khó, con người đói khổ và lam lũ.
Ông gắn bó với số phận người nông dân, với vận mệnh của quê hương, đất nước.
Là người có tình cảm sâu nặng với người nông dân và nông thôn Hà Nam.
Câu 2: Nội dung và nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ Nước lụt Hà Nam
(Học thuộc phần Ghi nhớ/Sách Tài liệu ĐP)
* PHẦN THỰC HÀNH BÀI TẬP ỨNG DỤNG
Kể tóm tắt những văn bản sau và nêu nội dung chính + nghệ thuật.
Tôi đi học: Ý nghĩa văn bản: Buổi tựu trường sẽ mãi không thể nào quyên trong kí ức của nhà văn Thanh Tịnh.
Trong lòng mẹ: Ý nghĩa văn bản: Tình mẫu tử là nguồn tình cảm không bao giờ vơi trong tâm hồn con người.
Tức nước vỡ bờ: Ý nghĩa văn bản: Với cảm nhận nhạy bén, nhà văn Ngô Tất Tố đã phản ánh hiện thực về sức phản kháng mãnh liệt chống lại áp bức của những người nông dân hiền lành, chất phác.
Lão Hạc: Ý nghĩa văn bản: Văn bản thể hiện phẩm chất của người nông dân không thể bị hoen ố phải sống trong cảnh khốn cùng.
Cô bé bán diêm: Ý nghĩa văn bản: Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của nhà văn đối với những số phận bất hạnh.
Đánh nhau với cối xay gió: Ý nghĩa văn bản: Kể câu chuyện về sự thất bại của Đôn Ki-hô-tê dánh nhau với cối xay gió, nhà văn chế giễu lí tưởng hiệp sĩ phưu lưu, hão huyền, phê phán thói thực dụng, thiển cận của con người trong đời sống xã hội.
Chiếc lá cuối cùng: Ý nghĩa văn bản: Câu chuyện cảm động về tình yêu thương giứa những người nghệ sĩ nghèo, qua đó tác giả thể hiện quan niệm của mình về mục đích của sáng tạo nghệ thuật.
Hai cây phong: Ý nghĩa văn bản: Hai cây phong là biểu tượng cảu tình yêu quê hương sâu nặng gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ của người họa sĩ làng Ku-ku-rêu.
Ôn dịch thuốc lá: Ý nghĩa văn bản: Với những phân tích khoa học, tác giả đã chỉ ra tác hại của việc hút thuốc lá đối với đời sống con người, từ đó phê phán và kêu gọi mọi người ngăn ngừa tệ nạn hút thuốc lá
Thông tin ngày trái đất năm 2000: Ý nghĩa văn bản: Nhận thức về tác dụng của một hành động nhỏ, có tính khả thi trong việc bảo vệ môi trường trái đất.
Bài toán dân số: Ý nghĩa văn bản: Văn bản nêu lên vấn đề thời sự của đời sống hiện đại: Dân số và tương lai của dân tộc, nhân loại.
Đập đá ở Côn Lôn: Ý nghĩa văn bản: Nhà tù của đế quốc thực dân không thể khuất phục ý chí, nghị lực và niềm tin lí tưởng của của người chí sĩ cách mạng.
* Ôn tập câu hỏi tự luận: Câu 1 Em hãy cho biết nguyên nhân và ý nghĩa cái chết của lão hạc? Qua đó ta thấy đuợc nhân cách gì của lão Hạc? TL
– Tình cảnh nghèo khổ đói rách,túng quẫn đã đẩy Lão Hạc đến cái chết như một hành động tự giải thoát.
– Lão đã tự chọn cái chết để bảo toàn căn nhà, đồng tiền, mảnh vườn, đó là những vốn liếng cuối cùng lão để lại cho con.
Cái chết của Lão Hạc có ý nghĩa sâu sắc:
– Góp phần bộc lộ rõ số phận và tính cách của Lão Hạc: nghèo khổ, bế tắc, cùng đường, giàu lòng tự trọng.
– Tố cáo hiện thực xã hội thực dân nữa phong kiến, đẩy người nông dân vào đường cùng.
Lão Hạc là người cha hết lòng vì con,là người tình nghĩa và biết tôn trọng hàng xóm
Truyện ngắn Lão Hạc cho em những suy nghĩ gì vè phẩm chất và số phận của người nông dân trong chế độ cũ?
– Chắt chiu, tằn tiện
– Giàu lòng tự trọng (không làm phiền hàng xóm kể cả lúc chết )
– Giàu tình thương yêu (với con trai, với con Vàng)
Câu 3 Qua hai nhân vật chị Dậu và Lão Hạc em hãy viết bài văn ngắn nêu suy nghĩ về số phận và tính cách người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ? (5 điểm)
TL
Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao và đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” của ngô Tất Tố đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp và số phận bi kịch của người nông dân Việt nam trong xã hội thực dân phong kiến (0,5)
– Số phận cùng khổ người nông dân trong xã hội cũ, bị áp bức chà đạp, đời sống của họ vô cùng nghèo khổ. (2 đ)
+ Lão Hạc một nông dân già cả sống cực kì nghèo khổ vất vả kiếm sống qua ngày. Cuộc sống ,sự áp bức của xã hội cũng như sự dồn ép của tình cảm và sự day dứt … lão đã tìm đến cái chết để giải thoát cho số kiếp của mình.
+ Chị Dậu một phụ nữ thủy chung, hiền thục, thương chồng , thương con . Do hoàn cảnh gia đình túng quẫn, lại gặp lúc sưu cao thuế nặng, chị một mình chạy vạy bán con bán chó …để nộp sưu cho chồng. Sự tàn bạo của xã hội bóc lột nặng nề và tình thế bức bách chị đã vùng lên đánh lại Cai lệ để bảo vệ chồng để cuối cùng bị tù tội và bị đẩy vào đêm sấm chớp và tối đen như mực….
– Nhưng ở họ có phẩm chất tốt đẹp chung thủy với chồng con, yêu thương mọi người, cần cù đảm đang, không muốn liên lụy người khác…. (1,5 đ)
+ Lão Hạc Sống cần cự chăm chỉ và lão tím đến cái chết là để bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ sự trong sạch, bảo vệ tình yêu, đức hi sinh và trách nhiệm cao cả của một người cha nghèo…
+ Chị Dậu suốt đời tần tảo vì gia đình, chồng con, khi chồng bị Cai lệ ức hiếp, Chị sẵn sàng đứng lên để bảo vệ….
– Bằng ngòi bút hiện thực sâu sắc, kết hợp với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, khắc họa nhân vật tài tình… Nam Cao cũng Như Ngô Tất Tố đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám một cách sinh động và sâu sắc. Qua đó để tố cáo xã hội bất công, áp bức bóc lột nặng nề, đồng thời nói lên lòng cảm thông sâu sắc của các nhà văn đối với những người cùng khổ … (1 đ)
Qua ba văn bản truyện ký Việt Nam: “Trong lòng mẹ”, “Tức nước vỡ bờ” và “Lão Hạc”, em thấy có những đặc điểm gì giống và khác nhau? Hãy phân tích để làm sáng tỏ.
– Thời gian sáng tác: Cùng giai đoạn 1930 – 1945. – Phương thức biểu đạt: tự sự.
– Nội dung: Cả 3 văn bản đều phản ánh cuộc sống khổ cực của con người trong xã hội đương thời chứa chan tinh thần nhân đạo. – Nghệ thuật: Đều có lối viết chân thực, gần gũi, sinh động.
– Thể loại: Mỗi văn bản viết theo một thể loại: Trong lòng mẹ (Hồi kí), Lão Hạc (Truyện ngắn), Tức nước vỡ bờ (Tiểu thuyết)
– Đều biểu đạt phương thức tự sự nhưng mỗi văn bản yếu tố miêu tả, biểu cảm có sự đậm nhạt khác nhau. – Mỗi văn bản viết về những con người với số phận và những nỗi khổ riêng.
Lão Hạc có một con trai, một mảnh vườn và một con chó. Con trai lão đi phu đồn điền cao su, lão chỉ còn lại cậu Vàng. Vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con, lão đành phải bán con chó, mặc dù hết sức buồn bã và đau xót. Lão mang tất cả tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ ông trông coi mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn, lão kiếm được gì ăn nấy và từ chối những gì ông giáo giúp. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó, nói là để giết con chó hay đến vườn, làm thịt và rủ Binh Tư cùng uống rượu. Ông giáo rất buồn khi nghe Binh Tư kể chuyện ấy. Nhưng bỗng nhiên lão Hạc chết – cái chết thật dữ dội. Cả làng không hiểu vì sao lão chết, chỉ có Binh Tư và ông giáo hiểu.
Tài liệu còn nhiều mời các bạn tải về để tham khảo trọn vẹn nội dung
Cập nhật thông tin chi tiết về Phương Pháp Học Tốt Môn Văn Lớp 8 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!