Xu Hướng 3/2023 # Quyền Dân Tộc Tự Quyết Và Quyền Của Các Dân Tộc Thiểu Số Theo Pháp Luật Quốc Tế Và Việt Nam # Top 12 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Quyền Dân Tộc Tự Quyết Và Quyền Của Các Dân Tộc Thiểu Số Theo Pháp Luật Quốc Tế Và Việt Nam # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Quyền Dân Tộc Tự Quyết Và Quyền Của Các Dân Tộc Thiểu Số Theo Pháp Luật Quốc Tế Và Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

    1. Quyền dân tộc tự quyết trong pháp luật quốc tế

    

    Tôn trọng quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn con đường và hình thức phát triển là một trong những cơ sở quan trọng để thiết lập các quan hệ quốc tế. Quyền này được thể hiện một cách tập trung nhất trong nguyên tắc dân tộc tự quyết, dựa trên nền tảng chủ quyền dân tộc. Theo đó, quyền dân tộc tự quyết được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc và trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa năm 1960; Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966; Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc của Liên hợp quốc.

    Khoản 2 Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc ghi nhận “phát triển quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết”. Như vậy, khái niệm “dân tộc tự quyết” được nhắc đến trong Hiến chương Liên hợp quốc không phải là quyền đòi ly khai hay đòi độc lập của một hay nhiều nhóm sắc tộc, dân tộc thiểu số vốn đã là những thành phần trong một quốc gia – dân tộc thống nhất. Quyền dân tộc tự quyết ở đây chỉ thuộc về nhân dân theo nghĩa là tất cả dân cư thường xuyên sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định – chủ thể luật quốc tế.

    Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế đã khẳng định “việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia nhập vào nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó cũng như việc thiết lập bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết”. Nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung sau:

    - Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện;

    - Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế xã hội;

    - Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;

    - Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống, lịch sử văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý.

    Tất cả các quyền nêu trên của mỗi dân tộc đều được các dân tộc và các quốc gia khác tôn trọng. Như vậy, “quyền dân tộc tự quyết” được hiểu là việc một “quốc gia – dân tộc” hoàn toàn tự do trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường lối phát triển đất nước. 

Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Trưởng Đoàn công tác số 3 phát biểu tại Hội nghị kiểm tra, giám sát tại tỉnh Bắc Ninh ngày 25-11-2016 (Ảnh Thu Huyền)

    2. Quyền của các dân tộc thiểu số trong pháp luật quốc tế

    Khái niệm “quyền dân tộc thiểu số” được chính thức ghi nhận trong hai Công ước quốc tế là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc (UDHR) năm 1948: “Mọi người sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và tự do không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội” (Điều 2) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 ghi: “Tại những nước có nhiều nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những cá nhân thuộc các dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và các thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng đồng mình, không thể bị tước bỏ quyền được thụ hưởng nền văn hóa riêng, quyền được thể hiện và thực hành tôn giáo riêng hoặc quyền được sử dụng tiếng nói riêng của họ” (Điều 3). Đây là hai văn kiện pháp lý quốc tế nền tảng, ghi nhận các quyền pháp lý cơ bản của con người về dân sự, chính trị mà quyền dân tộc thiểu số được coi là quyền cơ bản trong nhóm các quyền dân sự, chính trị đó, điều đó có nghĩa là người dân tộc thiểu số có đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa như những người thuộc dân tộc đa số trong xã hội, hoàn toàn bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử.

    Bên cạnh việc ghi nhận quyền của các dân tộc thiểu số, pháp luật quốc tế còn quy định trách nhiệm của các quốc gia thành viên Công ước phải bảo đảm cho các cá nhân thuộc các nhóm dân tộc thiểu số quyền được hưởng nền văn hóa, ngôn ngữ trong các điều kiện đặc thù của mình. Trong Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 ghi: “Các quốc gia sẽ bảo vệ sự tồn tại và bản sắc dân tộc hay sắc tộc, văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ của người thiểu số trong phạm vi lãnh thổ thuộc sự quản lý của họ và khuyến khích những điều kiện để thúc đẩy bản sắc đó; các quốc gia sẽ thông qua những biện pháp lập pháp và những biện pháp thích hợp khác để đạt được những mục tiêu này” (Điều 1).

    Như vậy, quyền dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng của pháp luật quốc tế về quyền con người. Việc thúc đẩy và thường xuyên thực hiện quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ như là một phần gắn liền trong sự phát triển xã hội nói chung và khuôn khổ dân chủ, pháp luật nói riêng, góp phần vào việc tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc và các quốc gia.

    3. Nhận thức về quyền dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc thiểu số theo pháp luật quốc tế trong việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hiện nay ở nước ta

    Từ những quy định trên trong pháp luật quốc tế, có thể thấy nội hàm của quyền dân tộc tự quyết và quyền dân tộc thiểu số là không đồng nhất và hoàn toàn khác nhau. Thứ nhất, chủ thể hưởng thụ của hai nhóm quyền này là khác nhau, đối với quyền dân tộc thiểu số, chủ thể hưởng thụ quyền là các dân tộc thiểu số trong các quốc gia, đồng thời pháp luật quốc tế quy định trách nhiệm của các quốc gia bảo đảm để cho các dân tộc thiểu số trong quốc gia mình được hưởng thụ quyền dựa trên điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia; đối với quyền dân tộc tự quyết chủ thể hưởng thụ quyền là “dân tộc – quốc gia” không đồng nhất với chủ thể quyền “dân tộc thiểu số” là một bộ phận trong “dân tộc – quốc gia”, có nghĩa là tập thể một “dân tộc – quốc gia” chứ không phải là một dân tộc thiểu số trong một quốc gia; Thứ hai, quyền của các dân tộc thiểu số trong pháp luật quốc tế về nhân quyền hoàn toàn không có hàm ý là quyền dân tộc tự quyết, bởi không có bất cứ một quy định của pháp luật quốc tế cho rằng một nhóm dân tộc thiểu số ở một quốc gia nào đó có quyền được ly khai, được thành lập một quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là cư dân đang tồn tại trong quốc gia đó.

    Từ phân tích trên, có thể thấy nhận diện đúng về nội hàm trong quy định của pháp luật quốc tế về hai nhóm quyền này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và công tác giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hiện nay. Thực tế trên thế giới, một số vụ việc đã diễn ra từ việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết là căn cứ cho các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể của luật quốc tế, thực hiện sự nghiệp bảo vệ quyền tự quyết thiêng liêng, bất khả xâm phạm cho dân tộc mình, trong đó cuộc ly khai của người dân Đông Timor và Kosovo là điển hình, dù có sự giúp đỡ từ các thế lực bên ngoài nhưng việc bảo vệ quyền độc lập tự chủ của các dân tộc này là minh chứng về vấn đề bảo đảm quyền dân tộc thiểu số, thực hiện quyền dân tộc tự quyết trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp. Một minh chứng khác, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, không đơn thuần là tương trợ, hợp tác kinh tế đôi bên cùng có lợi, vì những lợi ích khác nhau mà nhiều thế lực đã lợi dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết tạo ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa, cuộc nội chiến, ly khai lấy cớ vì mục đích cao cả chống khủng bố, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, nhưng thực chất lại mang tính vụ lợi trong đó như cuộc chiến tại Iraq, Afghanistan và Libya…

    Có thể khẳng định, trong xu thế toàn cầu hóa, các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau, có quan hệ hợp tác ngày càng rộng rãi và chặt chẽ, đồng thời  phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế sẽ càng khiến cho giá trị của độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết cần được khẳng định hơn bao giờ hết. Với tư cách là một “quốc gia – dân tộc” có chủ quyền, chủ thể của pháp luật quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn vấn đề thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Trong Hiến pháp năm 2013, quyền dân tộc tự quyết tiếp tục được khẳng định “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị” (Điều 11). Hơn nữa, với vai trò là thành viên của các điều ước quốc tế, thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, Việt Nam luôn thể hiện trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm thực thi các quyền con người, trong đó quyền của các dân tộc thiểu số luôn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (Điều 5). Cùng với việc hiến định về quyền của các dân tộc thiểu số, Việt Nam đã và đang thực hiện hiệu quả những chính sách, pháp luật về quyền của các dân tộc thiểu số khiến cho đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày một nâng cao, bên cạnh đó, các quyền đặc thù của các dân tộc thiểu số như quyền được giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa, quyền được Nhà nước hỗ trợ phát triển đã tạo ra sự bình đẳng cho các dân tộc thiểu số khi tham gia các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

    Nhận thức đúng đắn về quyền dân tộc tự quyết, quyền dân tộc thiểu số và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong bảo đảm thực hiện những quyền này sẽ góp phần ngăn chặn những hành vi của những kẻ phản dân, hại nước luôn có âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc thiểu số để tiến hành các hoạt động lôi kéo, kích động bạo lực, phá hoại tình đoàn kết dân tộc, thiết nghĩ đây là điều rất cần thiết trong nhận thức đối với mỗi đồng bào dân tộc thiểu số, mỗi cán bộ ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hiện nay.

Ths. Lừ Văn Tuyên

(Ban Nội chính Tỉnh ủy Sơn La)

Quyền Tự Do Tín Ngưỡng, Tôn Giáo Theo Luật Nhân Quyền Quốc Tế Và Trong Pháp Luật Việt Nam

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo luật nhân quyền quốc tế và trong pháp luật Việt Nam

TS. VŨ CÔNG GIAO

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

ThS. LÊ TÚY HƯƠNG

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

1. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo luật nhân quyền quốc tế

 UDHR lần đầu tiên đã ghi nhận quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo trong một văn kiện quốc tế, trong đó tập trung chủ yếu vào việc cấm phân biệt đối xử về tôn giáo. Điều 18 UDHR quy định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm (conscience), và tôn giáo; quyền này bao gồm cả tự do thay đổi tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình, và tự do bày tỏ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình bằng các hình thức truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, theo hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc riêng tư”.

Quy định trên sau đó được khẳng định và cụ thể hóa trong các Điều 18 và 20 Công ước quốc tế về Các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR). Khoản 2 Điều 18 Công ước này quy định: “Không ai phải chịu ép buộc dẫn đến làm tổn hại quyền tự do lựa chọn có hoặc tin theo tôn giáo hay tín ngưỡng của họ”. Khoản 3 Điều 18 xác định quyền này có thể bị giới hạn bởi luật khi cần thiết để “bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xãhội, hoặc các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Khoản 4 Điều 18 yêu cầu các quốc gia thành viên ICCPR phải tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ hoặc những người giám hộ hợp pháp “để đảm bảo việc giáo dục về đạo đức và tôn giáo của con cái họ phù hợp với ý nguyện riêng của họ”. Khoản 2 Điều 20 nghiêm cấm mọi hành động cổ vũ hằn thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo dẫn đến kích động, phân biệt đối xử và bạo lực.

1. Các quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tín ngưỡng bao gồm tự do suy nghĩ và thể hiện sự gắn kết cá nhân với tôn giáo hay tín ngưỡng dưới tư cách cá nhân hay tập thể. Tự do tư tưởng, tự do niềm tin lương tâm cần được bảo vệ tương tự như với tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Đặc điểm cơ bản của những quyền tự do này là nó không thể bị đình chỉ thực hiện, kể cả trong những tình trạng khẩn cấp được nêu trong Điều 4 khoản 2 của ICCPR.

2. Các thuật ngữ “tín ngưỡng” và “tôn giáo” trong Điều 18 cần được giải thích theo nghĩa rộng nhằm bảo vệ cả những niềm tin hữu thần và vô thần, bất kể gắn với những tôn giáo lâu đời hay mới, những tôn giáo, tín ngưỡng có tính chất thể chế, hoặc những tập tục tương tự như tôn giáo truyền thống.

3. Cần phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng. Không cho phép áp đặt bất kỳ sự giới hạn nào đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của các cá nhân. Những quyền tự do này được bảo vệ vô điều kiện, tương tự như với quyền được giữ ý kiến mà không bị can thiệp (khoản 1 Điều 19). Không ai có thể bị ép buộc phải tiết lộ những suy nghĩ của mình hoặc bị bắt buộc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào đó (khoản 2 Điều 18 và Điều 17).

5. Quyền tự do “tin hoặc theo” một tôn giáo hoặc tín ngưỡng cần thiết phải bao gồm quyền tự do lựa chọn tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có quyền cải đổi niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng hiện tại sang một tôn giáo, tín ngưỡng khác; hoặc quyền tin theo các quan điểm vô thần; quyền giữ tôn giáo, tín ngưỡng của mình. Khoản 2 Điều 18 cấm việc cưỡng ép làm ảnh hưởng tới quyền tin hoặc theo tôn giáo, tín ngưỡng, bao gồm việc đe doạ bằng vũ lực hoặc hình phạt để buộc những tín đồ hoặc người không phải tín đồ phải trung thành với tín ngưỡng, tôn giáo và giáo đoàn, hoặc chính thức từ bỏ tín ngưỡng, tôn giáo, hay cải đạo. Những chính sách hoặc hành động có mục đích hoặc gây ảnh hưởng tương tự, chẳng hạn như hạn chế sự tiếp cận với giáo dục, chăm sóc y tế, việc làm hoặc với các quyền được bảo đảm bởi Điều 25 và những điều khác của ICCPR, đều trái với khoản 2 Điều 18. Tất cả mọi người, dù vô thần hay hữu thần, cũng đều được hưởng sự bảo vệ như nhau.

7. Điều 20 nghiêm cấm việc thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng có tính chất tuyên truyền cho chiến tranh hoặc cổ vũ hận thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, hay kích động sự phân biệt đối xử, thù địch hoặc bạo lực. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ ngăn chặn những hành động đó bằng pháp luật.

9. Việc một tôn giáo được công nhận là quốc giáo, hay được thành lập một cách chính thức hoặc theo truyền thống, hay có số lượng tín đồ chiếm đa số trong dân chúng, sẽ không làm tổn hại đến việc được hưởng các quyền theo Công ước, kể cả các quyền quy định trong các Điều 18 và Điều 27, cũng như không được tạo ra sự phân biệt đối xử với tín đồ của các tôn giáo khác, hoặc với những người không theo tôn giáo nào. Đặc biệt, những biện pháp có tính chất phân biệt đối xử đối với tín đồ của các tôn giáo khác hay với những người không theo tôn giáo nào đều là trái với nguyên tắc cấm phân biệt đối xử về tín ngưỡng, tôn giáo và với quy định bảo đảm việc bảo vệ quyền bình đẳng theo Điều 26.

10. Kể cả khi một tôn giáo, tín ngưỡng được coi là hệ tư tưởng chính thức trong hiến pháp, điều lệ, tuyên ngôn của các đảng cầm quyền, hay trong hoạt động thực tiễn thì nó cũng không được dẫn đến việc vô hiệu hóa các quyền và tự do theo Điều 18 hay bất cứ các quyền khác được ghi nhận trong Công ước, cũng như không được tạo ra sự phân biệt đối xử đối với những người không chấp nhận hoặc phản đối tư tưởng đó.

11. ICCPR không quy định cụ thể về quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm nhưng theo Uỷ ban, quyền đó có thể suy ra từ nội dung Điều 18, vì nghĩa vụ sử dụng vũ lực gây chết người có thể mâu thuẫn gay gắt với niềm tin lương tâm và quyền biểu thị tôn giáo và tín ngưỡng của một cá nhân. Khi quyền này được luật pháp hoặc thực tế công nhận thì không được phân biệt đối xử với những người phản đối và từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm dựa trên bản chất của những tín ngưỡng đặc biệt của họ.

2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật Việt Nam

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, gồm cả tôn giáo nội sinh và ngoại nhập. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được ghi nhận ngay trong Hiến pháp đầu tiên (1946) và tiếp tục được tái khẳng định trong các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992, 2013 của nước ta, với những quy định càng về sau càng có xu hướng chi tiết hơn. Cụ thể như sau:

Hiến pháp

Nội dung quy định

1946

Chương 2 Điều 10: Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

1959

Chương 3 Điều 26: Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

1980

Chương 5 Điều 68: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

1992

Chương 5 Điều 70: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

2013

Chương 2 Điều 24: 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Ngoài Hiến pháp, trong từng thời kỳ, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng khác. Ví dụ, ngay sau khi hòa bình lập lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234-SL ngày 14/6/1955 ghi rõ: “việc tự do, tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện” (Điều 15). Một số Thông tư hướng dẫn thi hành Sắc lệnh này sau đó đã được ban hành, bao gồm: Thông tư số 593-TTg (năm 1957) và Thông tư số 60-TTg (11/6/1964) quy định chi tiết về việc thi hành chính sách tôn giáo… Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 297-CP ngày 11/11/1977 về “Một số chính sách đối với tôn giáo”, trong đó nêu các nguyên tắc về tự do tôn giáo. Bước vào thời kỳ Đổi mới, vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và bảo vệ quyền này tiếp tục được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật, bao gồm: Nghị định số 69-HĐBT ngày 21/3/1991 ban hành “Quy định về các hoạt động tôn giáo”; Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày19/4/1999 quy định về các hoạt động tôn giáo; Bộ luật Dân sự 1995 (Điều 43), Bộ luật Hình sự 1999 (Điều 47), Luật tổ chức Chính phủ 2001 (Điều 13), Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 (Điều 5); Luật Giáo dục 2005 (các Điều 9 và 16)… Tuy nhiên, quan trọng nhất là Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (Pháp lệnh TNTG) ban hành năm 2004.

Pháp lệnh TNTG năm 2004 đã thể chế hóa quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó xác định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” [2] . Pháp lệnh lần đầu tiên giải thích các thuật ngữ “hoạt động tín ngưỡng”, “cơ sở tín ngưỡng”, “tổ chức tôn giáo”, “hoạt động tôn giáo”, “hội đoàn tôn giáo”, “cơ sở tôn giáo”, v.v… đồng thời quy định cụ thể về hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng; hoạt động tôn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc; tổ chức tôn giáo và hoạt động của tổ chức tôn giáo; tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc; quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Những vấn đề này sau đó được cụ thể hóa trong các Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 (thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP) của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thực hiện Pháp lệnh TNTG.

Pháp lệnh TNTG 2004 đã tạo sự thông thoáng đáng kể về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo trong xã hội so với thời kỳ trước đó; đồng thời xác lập những định hướng chính sách rõ ràng hơn cho công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Việc phân biệt tín ngưỡng và tôn giáo đã góp phần phục hồi, công nhận nhiều tín ngưỡng đã và đang tồn tại trong dân gian. Quy định về việc công nhận tổ chức tôn giáo đã làm tăng số lượng các tổ chức công giáo được công nhận trên thực tế. Việc chia tách, sáp nhập các tổ chức tôn giáo được thực hiện thuận lợi hơn. Các yêu cầu về đất đai, cơ sở vật chất của một số tôn giáo từng bước được Nhà nước xem xét giải quyết. Hoạt động in ấn, xuất bản, đào tạo của các tôn giáo ngày càng phát triển. Việc sửa chữa, nâng cấp, cải tạo các công trình tôn giáo cũng có những chuyển biến quan trọng, do chính quyền cơ sở được trao quyền giải quyết với các công trình tôn giáo không thuộc diện phải xin giấy phép xây dựng (Điều 35 Nghị định số 92/2012/CP). Quy định về việc đăng ký dự tu cũng thông thoáng, rõ ràng hơn trước, với các thủ tục, giấy tờ đơn giản hơn, thời gian giải quyết các vụ việc có quy định thời hạn cụ thể, nhờ vậy số người đăng ký tu tập theo các tôn giáo ngày càng tăng. Đặc biệt, nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật quốc tế đã được ghi nhận. Điều 38 Pháp lệnh TNTG 2004 quy định: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó”. Điều này mở ra triển vọng tiếp tục nội luật hóa và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong ICCPR và một số văn kiện nhân quyền quốc tế khác vào bối cảnh của Việt Nam.

Tuy nhiên, về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, pháp luật Việt Nam hiện vẫn còn khoảng cách so với luật nhân quyền quốc tế, thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau:

– Pháp luật Việt Nam chưa phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng, với tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng. Theo luật nhân quyền quốc tế, quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng có thể bị hạn chế (không phải là quyền tuyệt đối), song các quốc gia không được phép áp đặt bất kỳ giới hạn nào đối với tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tự do được tin hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng theo lựa chọn của mình. Những quyền tự do này được bảo vệ vô điều kiện, tương tự như với quyền được giữ ý kiến mà không bị can thiệp.

– Luật quốc tế cho phép hạn chế quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng chỉ với điều kiện những hạn chế đó được pháp luật quy định và là cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc các quyền và tự do cơ bản của người khác. Trong khi đó, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 và Điều 15 Pháp lệnh TNTG 2004 quy định một phạm vi rộng hơn nhiều các hành vi có thể dẫn đến đình chỉ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, đó là: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác… Các khái niệm này nội hàm quá rộng và trừu tượng, dẫn đến nguy cơ tùy nghi diễn giải và hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế.

– Pháp luật chưa quy định quyền tự do của bố mẹ hoặc những người giám hộ pháp lý được quyết định việc giáo dục đạo đức và tôn giáo cho con cái họ phù hợp với đức tin của họ.

Pháp lệnh TNTG 2004 còn bộc lộ một số hạn chế khác cần khắc phục, cụ thể như sau:

– Tương tự, quy định tổ chức tôn giáo phải đăng ký chương trình hoạt động hàng năm và phải xin phép UBND cấp xã nếu muốn tổ chức hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đã đăng ký (Điều 12), cũng như quy định tổ chức tôn giáo khi tổ chức các cuộc lễ ở ngoài cơ sở tôn giáo phải xin phép UBND cấp huyện hoặc cấp tỉnh (Điều 25 Pháp lệnh, Điều 31 Nghị định số 92/2012/NĐ-CP) là không phù hợp và khả thi, bởi trên thực tế, không thể hạn chế, kiểm soát việc tín đồ tham gia các hoạt động tôn giáo, bao gồm các buổi lễ, cho dù các hoạt động/buổi lễ đó được tổ chức chính thức hay phi chính thức (xin phép hay không xin phép).

Quan trọng hơn, việc tổ chức và tham gia các hoạt động và buổi lễ tôn giáo về bản chất thuộc về quyền tự do hội họp hòa bình của người dân được Hiến pháp bảo vệ, mà theo khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013, các quyền hiến định chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Như vậy, việc yêu cầu các hoạt động và cuộc lễ tôn giáo phải xin phép trước theo như Điều 25 Pháp lệnh 2004 có thể coi là một hình thức hạn chế quyền nhưng không đáp ứng các yêu cầu tại khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp năm 2013, vì Pháp lệnh không được coi ngang bằng với luật.

Để phù hợp với thực tiễn cuộc sống, với Hiến pháp năm 2013 và luật nhân quyền quốc tế, nên thay thế quy định về việc xin phép trong các Điều 12 và Điều 25 Pháp lệnh TNTG năm 2004 bằng quy định về việc thông báo tổ chức các hoạt động tôn giáo. Việc xin phép chỉ là bắt buộc khi các hoạt động tôn giáo đó được tổ chức tại những nơi công cộng (ngoài các cơ sở tôn giáo được Nhà nước thừa nhận), vì khi đó mới nảy sinh yêu cầu bảo đảm lợi ích của cộng đồng với nghĩa bao gồm cả những người là tín đồ và không là tín đồ của tổ chức tôn giáo sẽ tổ chức hoạt động đó.

– Công tác tôn giáo được coi là nhiệm vụ của các ngành các cấp, nhưng vì không quy trách nhiệm cụ thể cho chủ thể nào nên dễ dẫn đến chồng chéo, hoặc bị bỏ trống. Hiện tại Pháp lệnh TNTG năm 2004 chỉ quy định trách nhiệm của chính quyền và MTTQ các cấp có trách nhiệm phối hợp giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân (Điều 7) nhưng không nêu vấn đề vi phạm và xử lý các hành vi vi phạm Pháp lệnh của các cơ quan, cán bộ nhà nước, trong khi trên thực tế, những vi phạm như vậy về mặt lý thuyết có thể xảy ra.

– Quy định điều kiện phải có sinh hoạt ổn định từ 20 năm trở lên và không vi phạm pháp luật thì một tổ chức tôn giáo mới được công nhận (Điều 16 Pháp lệnh, Điều 8 Nghị định số 92/2012/NĐ-CP) là chưa hợp lý, vì một tổ chức tôn giáo mới khó có thể đảm bảo những điều kiện như vậy để được công nhận là một tôn giáo hợp pháp. Sự giới hạn này cũng không phù hợp với tinh thần của luật nhân quyền quốc tế về tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Thêm vào đó, việc phân cấp thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo còn chung chung, dẫn đến tình trạng tôn giáo ‘mẹ’ do Trung ương công nhận, tôn giáo ‘con’ do địa phương công nhận.

4Văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội 2003, tr. 45-46.

Về pháp nhân của các tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tại http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/241/0/1370/Ve_phap_nhan_cua_to_chuc_ton_giao_trong_khuon_kho_phap_luat_Viet_Nam_hien_hanh[3] Xem Nguyễn Khắc Huy,tại http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/241/0/1370/Ve_phap_nhan_cua_to_chuc_ton_giao_trong_khuon_kho_phap_luat_Viet_Nam_hien_hanhBản góp ý xây dựng Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP của Tòa Tổng Giám mục TP.Hồ Chí Minh, ngày 20/5/2011, tại http://vietcatholic.org/News/Html/90073.htm[4] Xem,của Tòa Tổng Giám mục TP.Hồ Chí Minh, ngày 20/5/2011, tại http://vietcatholic.org/News/Html/90073.htmPháp lệnh TNTG: 10 năm nhìn lại, tại [5] Xem, Phạm Huy Thông,, tại http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/4786/Phap_lenh_tin_nguong_ton_giao_10_nam_nhin_lai

Ủy Ban Dân Tộc Và Hội Đồng Dân Tộc Của Quốc Hội Họp Triển Khai Thực Hiện Nghị Quyết Số 88/2019/Qh14 Của Quốc Hội

Ủy ban Dân tộc và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội họp triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội

Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT và đồng chí Hà Ngọc Chiến, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch HĐDT của Quốc hội đồng chủ trì phiên họp; Tham dự có các đồng chí Phó Chủ tịch HĐDT của Quốc hội: Giàng A Chu, Nguyễn Lâm Thành, Cao Thị Xuân, Trần Thị Hoa Ry; các đồng chí ủy viên thường trực, ủy viên chuyên trách của HĐDT của Quốc hội; các đồng chí Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT: Lê Sơn Hải, Hoàng Thị Hạnh; đại diện Văn phòng Chính phủ và lãnh đạo các vụ, đơn vị của 2 cơ quan.

Chủ tịch HĐDT của Quốc hội Hà Ngọc Chiến tặng hoa chúc mừng UBDT nhân dịp đầu Xuân năm mới.

Để triển khai nhiệm vụ xây dựng Tiêu chí phân định vùng DTTS và miền núi theo trình độ phát triển giai đoạn 2021-2025 và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Ủy ban Dân tộc đã xây dựng một số nội dung dự thảo. Tại phiên họp này, UBDT trân trọng đề nghị Thường trực HĐDT của Quốc hội xem xét, thống nhất một số nội dung về: Tên gọi của Đề án; Cách diễn giải về vùng đồng bào DTTS và miền núi; Thẩm quyền ban hành tiêu chí phân định vùng đồng bào DTTS và miền núi. Trên cơ sở đó, cùng thống nhất một số nguyên tắc như: Tiêu chí phân định vùng đồng bào DTTS và miền núi chủ yếu để áp dụng cho triển khai thực hiện chính sách dân tộc; Xã khu vực I, II, III chỉ áp dụng cho chính sách đầu tư, ưu đãi thu hút đầu tư, thu hút nguồn nhân lực, không áp dụng cho chính sách an sinh xã hội; Chính sách an sinh xã hội đối với con người tiếp cận theo tiêu chí hộ DTTS nghèo, hộ DTTS cận nghèo…

Quảng cảnh phiên họp.

Cần Có Nghị Quyết Về Phát Triển Vùng Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số, Miền Núi

Nhìn nhận thực tế đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi còn nhiều khó khăn, nhiều ĐBQH cho rằng rất cần một nghị quyết căn cơ về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, và không nên tiếp tục hỗ trợ theo kiểu… cho không.

Đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi còn nhiều khó khăn

Đa số các đại biểu QH, đặc biệt đại biểu người dân tộc thiểu số hoặc là cán bộ vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi đều bày tỏ sự cảm ơn, khẳng định những năm qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi đã có bước phát triển nhiều mặt về kinh tế, văn hoá, trình độ lao động sản xuất, giáo dục…

Tuy nhiên, khó khăn của đồng bào là hiện hữu và còn không ít vấn đề cần được tiếp tục quan tâm giải quyết. Vẫn còn đó vô vàn khó khăn, so với mặt bằng chung cả nước. ĐB Đoàn Văn Việt (Lâm Đồng) cung cấp thông tin, đến cuối năm 2017 tỉ lệ hộ nghèo của cả nước là 6,7%, ước tính đến cuối năm 2018 thì con số này sẽ giảm xuống còn dưới 6%. Trong đó còn gần 865.000 hộ nghèo, người dân tộc thiểu số chiếm tới 52,66% tổng số hộ nghèo cả nước. Riêng khu vực Tây Nguyên tỉ lệ hộ nghèo khoảng 12,86%, như vậy có đến 175.772 hộ, trong đó tỉ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm đến hơn 73% trên tổng số hộ nghèo. Đáng lưu ý là tỉ lệ tái nghèo vẫn còn cao, tỉ lệ hộ nghèo phát sinh gần bằng 23%.

Một cách cụ thể hơn, ĐB Lò Thị Luyến (Điện Biên) nói: “Dân tộc thiểu số chiếm 14,6% dân số của cả nước nhưng tỉ lệ hộ nghèo chiếm tới 52,7%. Hiện có khoảng 21% người dân tộc thiểu số trên 15 tuổi chưa đọc thông viết thạo chữ phổ thông, kết cấu hạ tầng, điện, đường, trường trạm đều thấp kém”.

Cho “cần câu” thay cho “con cá”

Đánh giá về nguyên nhân, nhiều ĐB cho rằng, dù đã có nhiều chương trình, dự án đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi với niềm tin, hy vọng và tình cảm lớn lao nhưng khi thực hiện đã không thể như kỳ vọng vì nguồn lực còn hạn chế. ĐB Hoàng Văn Hùng (Thái Nguyên) nói: “Rất nhiều chính sách được ban hành, nhưng nhiều chính sách manh mún, dàn trải, chồng chéo, có chính sách được ban hành song không có nguồn lực thực hiện”.

Nhiều đại biểu cho rằng, lâu nay việc hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi rất nhiều dự án kiểu cho không như cấp không sách báo, giống, gạo… Những điều đó rất cần, đã góp phần hỗ trợ kịp thời giúp đồng bào bớt khó khăn, đặc biệt trong lúc thiên tai, mất mùa. Tuy nhiên, trong tình hình mới, cần có những chính sách thiết thực, căn cơ hơn.

ĐB Hoàng Văn Hùng nói: “Chính sách hỗ trợ trực tiếp đã làm một bộ phận người dân có tư tưởng trông chờ chính sách, không tích cực lao động sản xuất, thiếu ý chí vươn lên mặc dù có sức lao động, có đất sản xuất, có đủ các điều kiện để canh tác, làm ra sản phẩm nhưng không làm vì đã có Nhà nước cho không.

Còn ĐB Triệu Tài Vinh (Hà Giang) nói: “Về hỗ trợ hộ nghèo hiện nay, chúng ta thường nói cho cần câu hay cho con cá. Thực tế chúng ta đã cho nhiều cần câu rồi, vấn đề hiện nay là có cần câu thì câu ở đâu? Như vậy, chúng ta phải tạo ra những môi trường tốt hơn, đó là những ao để nông dân có thể câu được”.

Theo ĐB Triệu Tài Vinh, lâu nay chúng ta hỗ trợ cho không người dân quá lâu, nó đã trở thành chế độ, tính ỷ lại như một tập quán và đã đến lúc tập quán này phải thay đổi.

Từ các phân tích trên, các đại biểu cho rằng, Quốc hội, Chính phủ xem xét và có những giải pháp tổ chức thực hiện chính sách phù hợp, làm sao để khuyến khích được người nghèo cũng vươn lên, người khá giả, người giàu được khích lệ. Trước hết, cần có lộ trình bỏ dần những chính sách hỗ trợ trực tiếp, cho không người dân, chuyển dần sang thực hiện các chính sách hỗ trợ có điều kiện. Ví dụ, cho vay tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp, vay không lãi, hỗ trợ khởi nghiệp v.v…

Đa số đại biểu phát biểu về phát triển đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi đều thống nhất đề xuất của Hội đồng Dân tộc, là đề nghị Quốc hội có nghị quyết về chương trình mục tiêu mang tính tổng thể, toàn diện, lâu dài để phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn tới.

Cập nhật thông tin chi tiết về Quyền Dân Tộc Tự Quyết Và Quyền Của Các Dân Tộc Thiểu Số Theo Pháp Luật Quốc Tế Và Việt Nam trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!