Bạn đang xem bài viết Soạn Bài Ánh Trăng Của Nguyễn Duy được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bài thơ là một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.
Gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
Thể thơ 5 chữ, phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình.
Giọng thơ mang tính tự bạch, chân thành sâu sắc.
Hình ảnh vầng trăng – “ánh trăng” mang nhiều tầng ý nghĩa.
Bài thơ có bố cục ba phần, ở mỗi phần có sự thay đổi giọng thơ:
Phần 1: Ba khổ thơ đầu, giọng kể, nhịp thơ trôi chảy bình thường.
Phần 2: Khổ thơ thứ tư: Giọng thơ đột ngột rất cao, ngỡ ngàng với bước ngoặt của sự việc, của sự xuất hiện vầng trăng.
Phần 3: Khổ năm và sáu: Giọng thơ thiết tha rồi trầm lắng cùng với những cảm xúc, suy tư lặng lẽ.
“Ánh trăng” có sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà thơ cũng theo dòng tự sự này mà bộc lộ. Thời gian, quá khứ đã có những biến đổi, một sự thực đáng chú ý: Hồi nhỏ, hồi chiến tranh sống giữa thiên nhiên thường không bao giờ quên “Vầng trăng tình nghĩa” vậy mà: “từ hồi” về “thành phố” quen sống cùng với tiện nghi, hiện đại, vầng trăng xưa, nay “như người dưng qua đường“.
Câu 2. Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa. Hãy phân tích điều ấy. Khổ thơ nào trong bài thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lí của tác phẩm.
Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ là một hình tượng đa nghĩa.
Trước hết, vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên khoáng đạt, hồn nhiên, tươi mát. Trong hai khổ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian của ruộng đồng, sông biển, núi rừng. Lúc ấy, con người sống bình dị, “trần trụi với thiên nhiên“, “hồn nhiên như cây cỏ“. Vầng trăng trở thành tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa gắn liền với thuở thơ ấu ở quê nhà và trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
Đến khi về thành phố, quen với “ánh điện cửa gương“, vầng trăng ngày xưa đã bị con người quên lãng. Cho đến một đêm nào đó, “thình lình đèn điện tắt – Phòng buyn – đinh tối om” thì mới nhận thấy vầng trăng ngày xưa. Khoảnh khắc “gặp lại cố nhân” đó, bỗng gợi lại những kỉ niệm, làm tỉnh dậy trong tâm trí con người những hình ảnh ngày xưa của tuổi thơ, của quê hương, của đất nước.
Vầng trăng trong bài thơ có ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng cho quá khứ trữ tình, biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống.
Khổ thơ cuối là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng: mặc cho con người vô tình vô nghĩa quên đi tất cả, “trăng cứ tròn vành vạnh“. Đó là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. Phép nhân hóa ” ánh trăng im phăng phắc” khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất tình nghĩa nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên đi quá khứ. Ánh trăng “im phăng phắc” nhưng cũng đủ làm người ta “giật mình“. Con người có vô tình, nhưng quá khứ vẫn vẹn nguyên.
Bài thơ hấp dẫn người đọc bằng vẻ đẹp dung dị của một câu chuyện riêng, một tâm tình riêng. Nhà thơ vừa kể chuyện, vừa bộc lộ cảm xúc một cách tự nhiên và chân thành.
Những câu thơ năm chữ đều đặn cũng góp phần làm nên giọng điệu tâm tình sâu lắng của bài thơ. Ở ba khổ đầu, nhịp thơ trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể. Khổ thứ 4, giọng thơ chợt cất cao trước một bước ngoặt mang tính kịch tính. Giọng thơ trở nên ngân nga thiết tha cảm xúc ở khổ thứ 5 và cuối cùng trầm lắng, suy tư ở khổ cuối.
Bài thơ “Ánh trăng” được viết năm 1978 ở Thành phố Hồ Chí Minh, in trong tâm “Ánh trăng“. Nguyễn Duy từng tham gia chiến đấu, sau khi đất nước thống nhất, ông sinh sống và làm việc ở các tỉnh phía nam thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Duy viết bài thơ này vào lúc cuộc kháng chiến đã khép lại được 3 năm. Ba năm sống trong hòa bình, không phải ai cũng còn nhớ những gian khổ và kỉ niệm nghĩa tình trong quá khứ. Nguyễn Duy viết “Ánh trăng” như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ ân tình với chính mình về lẽ sống chung thủy, nghĩa tình, về truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc.
bài giảng Ánh trăng – Nguyễn Duy.
Bài thơ “Ánh trăng” in trong tập thơ cùng tên, được Nguyễn Duy sáng tác vào nãm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ ca ngợi vầng trăng tri kỉ của tuổi thơ, của người lính một thời trận mạc, đồng thời gợi nhắc mọi người biết sống ân nghĩa thủy chung, giữ tròn đạo lí tốt đẹp. Để nắm được nội dung bài học cũng như cách triển khai một bài văn viết hoàn chỉnh về tác phẩm này này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu sau:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.
Hướng dẫn soạn Ánh trăng
Hướng dẫn soạn bài ” Ánh trăng” – Nguyễn Duy – Văn lớp 9
Soạn Văn Bài: Ánh Trăng (Nguyễn Duy)
Đánh giá bài viết Soạn văn bài: Ánh trăng (Nguyễn Duy) Đọc hiểu văn bản Câu 1: Bài thơ có bố cục ba phần, ở mỗi phần có sự thay đổi giọng thơ: Phần 1: Ba khổ thơ đầu, giọng kể, nhịp thơ trôi chảy bình thường. Phần 2: Khổ thơ thứ tư: Giọng thơ đột ngột rất cao, ngỡ ngàng với bước ngoặt của sự việc, của sự xuất hiện vầng …
Đọc hiểu văn bản
Câu 1:
Bài thơ có bố cục ba phần, ở mỗi phần có sự thay đổi giọng thơ:
Phần 1: Ba khổ thơ đầu, giọng kể, nhịp thơ trôi chảy bình thường.
Phần 2: Khổ thơ thứ tư: Giọng thơ đột ngột rất cao, ngỡ ngàng với bước ngoặt của sự việc, của sự xuất hiện vầng trăng.
Phần 3: Khổ năm và sáu: Giọng thơ thiết tha rồi trầm lắng cùng với những cảm xúc, suy tư lặng lẽ.
Câu 2:
a. Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng lớp ý nghĩa. Vầng trăng trước hết là trăng của thiên nhiên, của đất trời. Trăng là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ. Trăng là tình cảm quá khứ hồn nhiên, tươi đẹp. Trăng cũng là phần trong sáng, phần tốt đẹp trong con người luôn soi rọi, chiếu sáng những góc khuất, góc tối mới nảy sinh khi con người sống với nhà lầu, cửa gương, với những tiện nghi vật chất.
b. Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý của tác phẩm”
"Trăng cứ tròn vành vạnh Kể chi kẻ vô tình Ánh trăng im phăng phắc Khiến cho ta giật mình"“Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp dẽ, nguyên vẹn chẳng thể phai mờ. Quá khư đẹp đẽ vĩnh hằng trong vũ trụ : “ánh trăng im phăng phắc” như một người bạn, một nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc. Cái im lặng ấy như đang nhắc nhở nhà thơ, nhắc nhở tất cả chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên nghĩa tình, quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt, hồn hậu và rộng lượng.
Câu 3:
Tác phẩm có kết cấu độc đáo. Bài thơ như một chuyện nhỏ, phát triển theo thời gian. Quá khứ hồn nhiên, trần trụi với thiên nhiên, thân thiết với vầng trăng. Hiện tại, về thành phố, sống với các tiện nghi, cửa gương, điện sáng. Vầng trăng bị lu mờ coi như người dưng qua đường. Nhờ mất điện mà gặp lại vầng trăng, giật mình về thái độ sống vô tình của mình. Chính sự giật mình là một yếu tố quan trọng. Nó là sự bừng thức để soi lại bản thân, xét lại cách sống vô tình, dửng dưng, quay lưng lại với quá khứ tốt đẹp, tình nghĩa.
Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ, nhịp thơ khi tuôn chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga, khi trầm lắng suy tư. Tất cả những điều đó góp phần quan trọng trong việc bộc lộ những cảm xúc sâu xa của một người lính khi nghĩ về chiến tranh, về quá khứ.
Câu 4:
Bài thơ viết năm 1978 sau hòa bình ba năm. Những người kháng chiến gian khổ ở rừng núi đã trở về thành phố. Họ có một cuộc sống mới thời bình. Các phương tiện sống khác xa thời chiến tranh. Câu chuyện riêng này là lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước, bình dị hồn hậu.
Bài thơ không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ mà có ý nghĩa đối với cả một thế hệ. Hơn thế bài thơ có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời, bởi vì nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, với người đã khuất, với cả chính mình.
Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi đạo lý thủy chung tình nghĩa. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Soạn Bài Ánh Trăng Lớp 9 Của Nguyễn Duy
Đề bài: Soạn Bài Ánh Trăng Lớp 9 Của Nguyễn Duy
Bài Làm
Câu 1:
a) Bố cục bài thơ là tâm trạng của tác giả được kể theo trình tự thời gian:
b) Nhận xét về sự kết hợp giữa tự sự với trữ tinh trong bài thơ:
– Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại gắn với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Theo dòng tự sự ấy mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ.
– Dong cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ. Ở quãng thời gian quá khứ đã có một biến đổi, một sự thực đáng chú ý: hồi nhỏ rồi hồi chiến tranh, sống hồn nhiên, gần gũi với thiên nhiên đến tưởng không bao giờ quên ” cái vầng trăng tình nghĩa“; ấy thế mà ” từ hồi về thành phố ” quen sống cùng với những tiện nghi hiện đại, vầng trăng tình nghĩa đã “như người dưng qua đường”.
Câu 2:
Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều ý nghĩa, không chỉ là hình ảnh xuất hiện trong thực tại mà nó còn là những biểu tượng của dòng hồi ức quá khứ, những kỉ niệm sâu sắc mà nhà thơ đã từng trải qua.
+ Trước hết, hình ảnh của vầng trăng là hình ảnh tả thực, đó là hình ảnh nhà thơ chứng kiến trong quá khứ cũng như là hình ảnh xuất hiện trong cuộc sống hiện tại của nhà thơ, hình ảnh trực tiếp khơi dậy những dòng hồi tưởng về quá khứ.
– Nơi thành phố hiện đại lắm ánh điện, cửa gương, người ta chẳng mấy lúc cần, ít khi chú ý đến ánh trăng, coi thường, dửng dưng, vì không còn cần đến nó.
Ý nghĩa triết lí của bài thơ: Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống ” Uống nước nhớ nguồn“, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. ” Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. ” Ánh trăng im phăng phắc ” chính là người bạn – nhân chứng cho nghĩa tình mà nghiêm khắc đang nhắc nhở nhà thơ (và cả chúng ta). Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa là quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Khi thay đổi hoàn cảnh: người ta dễ dàng lãng quên quá khứ, nhất là quá khứ nhọc nhằn, gian khổ. Trước vinh hoa phú quý người ta dễ có thể thay đổi tình cảm với nghĩa tình đã qua, phản bội lại chính mình. Đó chính là quy luật của cuộc sống tình cảm con người, không ít người sống và nghĩ như vậy, coi đó là chuyện bình thường đương nhiên.
Câu 3:
Bài thơ kết cấu như một câu chuyện nhỏ phát triển theo thời gian. Quá khứ hồn nhiên, gắn bó thân thiết với vầng trăng. Hiện tại sống với các tiện nghi hiện đại, đủ đầy, vầng trăng bị con người lãng quên, bị coi như là người dưng qua đường. Nhờ mất điện mà gặp lại vầng trăng, giật mình về thái độ sống “vô tình” của mình. Chính sự giật mình là một yếu tố quan trọng. Nó là sự thức tỉnh của con người, con người soi lại bản thân, xem lại cách sống vô tình, dửng dưng, quay lưng lại với quá khứ tôt đẹp, nghĩa tình. Giọng điệu bài thơ như là lời tâm tình, suy tư, cảm động.
Câu 4:
* Chủ đề của bài thơ: Từ 1 câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.
* ý nghĩa khái quát của bài thơ:
– Ánh trăng không chỉ là chuyện riêng của nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ từng trải qua những năm tháng dài gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, nhân dân tình nghĩa giờ được sống trong hòa bình, được tiếp xúc với nhiều tiện nghi hiện đại. Hơn thế bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình.
Ánh trăng năm trong mạch cảm xúc “uống nước nhớ nguồn”, gợi lên đạo lý sống thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta.
Hướng Dẫn Soạn Bài Ánh Trăng (Nguyễn Duy)
Tài liệu hướng dẫn soạn bài Ánh trăng của Đọc Tài Liệu biên soạn sẽ giúp các bạn nắm vững các kiến thức quan trọng và trả lời tốt các câu hỏi trang 157 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập 1.
Cùng tham khảo…
Kiến thức cơ bản– Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở làng Quảng Xá, nay thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hoá. Năm 1966, Nguyễn Duy gia nhập quân đội, vào binh chủng Thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường. Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977, Nguyễn Duy là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
– Nguyễn Duy đã được trao giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1972 – 1973. Ông trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Tập thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984.
– Bài thơ này được viết ra khi tác giả sống tại một chung cư cao tầng ở quận ba, thành phố Hồ Chí Minh, năm 1978. Lúc ấy chiến tranh vừa kết thúc được ba năm, những người chiến sĩ và đồng đội của tác giả đang hòa mình vào cuộc sống hòa bình chung, với nhiều hoàn cảnh, tâm trạng và tính cách rất khác nhau. Đó có lẽ là tứ thơ cho bài Ánh trăng này.
Gợi ý trả lời câu hỏi đọc hiểu soạn bài Ánh trăng trang 157 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập 1:
Hướng dẫn soạn bài Ánh trăng Đọc – hiểu văn bản1 – Trang 157 SGK
Em có nhận xét gì về bố cục của bài thơ ?
Bài thơ gồm ba đoạn:
* Khổ 1 – khổ 3: Vầng trăng tình nghĩa từ quá khứ đến hiện tại.
* Khổ 4: Vầng trăng xuất hiện khi điện tắt.
* Khổ 5, khổ 6: Ánh trăng gợi lại bao nhiêu nghĩa tình.
Bài thơ như một câu chuyện được kể lại theo trình tự thời gian. Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà thơ thể hiện theo những dòng tự sự. Hồi nhỏ sống hồn nhiên, gần gũi với thiên nhiên ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa. Về thành phố rực ánh điện, vầng trăng như người dưng qua đường.
2 – Trang 157 SGK
Trả lời
Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa. Hãy phân tích điều ấy. Khổ thơ nào trong bài thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lí của tác phẩm ?
– Nơi thành phố hiện đại lắm ánh điện, cửa gương làm người ta chẳng mấy lúc cần và cũng có ít khi chú ý đến ánh trăng. Ở tình huống đặc biệt mới tự nhiên gây ấn tượng mạnh.
– Vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn tri kỉ suốt tuổi thơ tới thời chiến tranh ở rừng. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm của năm tháng gian lao, bao hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu Như là đồng là bể – Như là sông là rừng hiện hình trong nỗi nhớ, trong hồi ức rưng rưng “của một con người đang sống giữa phố phường hiện đại.
– Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế, trăng còn là vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống.
3 – Trang 157 SGK
– Trong ba khổ thơ đầu, nhịp thơ trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể.
– Trong khổ 4 giọng thơ biến đổi, như ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của vầng trăng. Giọng điệu tâm tình qua thể thơ năm chữ.
– Giọng thơ thiết tha cảm xúc (khổ 5) rồi trầm lắng suy tư (khổ 6).
Giọng thơ của bài đã góp phần thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa phương thức biểu đạt tự sự và trữ tình
4 – Trang 157 SGK
Ánh trăng không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ (thế hệ từng trải qua những năm tháng dài gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, sống với nhân dân tình nghĩa, giờ được sống trong hoà bình, được tiếp xúc với nhiều tiện nghi hiện đại. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, với những người đã khuất và cả đối với chính mình.
Soạn bài Ánh trăng phần Luyện tậpGợi ý trả lời:
Yêu cầu: Tưởng tượng mình là nhân vật trữ tình trong bài Ánh trăng, em hãy diễn tả dòng cảm nghĩ trong bài thơ thành một bài tâm sự ngắn.
– Về quá khứ trước đây: sự gắn bó khăng khít của nhân vật trữ tình và vầng trăng.
– Hòa bình lập lại có sự thay đổi thế nào?
– Sự kiện nào khiến “tôi” nhận ra những sai lầm của mình.
– Rút ra bài học, ý nghĩa cho mình và những người khác.
Ghi nhớ bài Ánh trăngVới giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống ” uống nước nhớ nguồn “, ân nghĩa thuy chung cùng quá khứ.
[ĐỪNG SAO CHÉP] – Bài viết này chúng tôi chia sẻ với mong muốn giúp các bạn tham khảo, góp phần giúp cho bạn có thể để tự soạn bài Ánh trăng một cách tốt nhất. “Trong cách học, phải lấy tự học làm cố” – Chỉ khi bạn TỰ LÀM mới giúp bạn HIỂU HƠN VỀ BÀI HỌC và LUÔN ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ CAO.
Bài Thơ: Ánh Trăng (Nguyễn Duy
Cát trắng và Ánh trăng là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ toả mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê:
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cáNíu váy bà đi chợ Bình LâmBắt chim sẻ ở vành tai tượng PhậtVà đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm.(Đò Lèn)
Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Đò Lèn… là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ Ánh trăng rút trong tập thơ cùng tên, được tác giả viết vào năm 1978, tại Thành phố Hổ Chí Minh, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên.
Nếu như trong bài thơ Tre Việt Nam, câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ Ánh trăng này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, kỉ niệm?
Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la: “Hồi nhỏ sống với đồng – với sông rồi với bể”. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông); từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Tuổi thơ của chúng ta dễ có mấy ai được cái cơ may ấy như nhà thơ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: “Ông trăng tròn sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em… Chỉ có trăng sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em…” (Trích Trăng sáng sân nhà em).
Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời. Hai câu thơ tiếp theo nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành “tri kỉ”:
Hồi chiến tranh ở rừngvầng trăng thành tri kỉ.
Và vầng trăng, vầng trăng đất nướcVượt qua quầng lửa, mọc lên cao.(Phạm Tiến Duật)
Các tao nhân ngày xưa thường “đăng lâu vọng nguyệt”, còn anh bộ đội Cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vành trăng cao nguyên. Thật là thú vị khi đọc vần thơ Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng: “Hồi chiến tranh ở rừng – Vầng trăng thành tri kỉ”.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa xuất hiện – Một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:
Trần trụi với thiên nhiênhồn nhiên như cây cỏ.
Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “Ngỡ không bao giờ quên – Cái vầng trăng tình nghĩa.”
Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có lúc dễ trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang: buyn-đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương… Và “vầng trăng tri kĩ”, “vầng trăng tình nghĩa” đã bị người lãng quên, dửng dưng. Cách so sánh thấm thía làm chột dạ nhiều người:Trăng được nhân hoá, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.
Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co, uốn khúc, cuộc đời cũng có nhiều biến động li kì. Ghi lại một tình huống “cuộc sống thị thành”của những con người mới ở rừng về thành phố, nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ. Các từ “thình lình”, “vội”, “đột ngột” gợi tả tình thái đầy biểu cảm. Có nhà triết học nói: “Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách. Vần thơ của Nguyễn Duy nói với ta rất nhiều:Trăng xưa đã đến với người, vẫn “tròn”, vẫn “đẹp”, vẫn thuỷ chung với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng:Nguyễn Tuân từng coi trăng là “cố nhân”, nhà thơ Xuân Diệu, trong bài Nguyệt cầm viết cách đây 60 năm cũng có câu: “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”. Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này. Một cái nhìn đầy áy náy xót xa: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng “đối diện đàm tâm”. Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách thế mà người lính cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. “Rưng rưng” nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hoà với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông, với rừng, với quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, với điệp từ (là) cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:… “như là đồng, là bể – như là sông, là rừng”. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.
Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình” là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thuỷ chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.
Ánh trăng là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng ánh trăng đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thuỷ chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân – đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.
Phân Tích Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy
Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ. Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người. Khổ thơ mở đầu như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ: “Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ” Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn, xa gia đình, quê hương, vầng trăng mới thành “tri kỷ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau, hiểu biết, thông cảm lẫn nhau. Điệp từ “hồi”, “với” diễn tả cuộc sống nhiều biến động của một con người. Điều ấy chứng tỏ nhà thơ đã đi nhiều, trải nhiều… Qua những hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”, tác giả đã diễn tả tinh tế sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ lớn lên từ đồng nội… Tác giả như khắc đậm thêm tình cảm của mình đối với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”
Trăng có vẻ đẹp bình dị vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình với thiên nhiên, gần gũi với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên”. Tâm hồn người chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây cỏ”… Vầng trăng “tri kỷ” đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào: “ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” Trăng mỗi tháng một lần theo chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên, lại đến với con người. Trăng mang ánh sáng đến cho con người giữa ban đêm. Trăng tỏa ánh sáng xuống vòm cây, soi tỏ những lối đi, tỏa vẻ đẹp dịu mát xuống sân nhà. Trăng làm vui vẻ trẻ con, làm ấm lòng người già, trăng tạo mộng mơ cho đôi lứa, trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với những người lính ở rừng núi. Cái “tình nghĩa” vẹn toàn ấy của trăng làm sao con người có thể quên được. Cách nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm nặng lòng của tác giả đối với trăng biết nhường nào! Từ “ngỡ” ở đầu câu thơ thứ ba như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự đoán và suy nghĩ ban đầu… Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã quên: “Từ hồi về thanh phố …như người dưng qua đường” Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, quen “ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng… dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên. Phải chăng “vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những năm tháng gian khổ ấy. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những tháng năm gian khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”… Hình ảnh nhân hóa ở đây thật sinh động “đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương vậy mà con người thật lạnh lùng dửng dưng… Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến con
người thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”. Khổ thơ này có kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa, lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ. Đặt những hình ảnh có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân thành, nghiêm khắc. Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính: “Thình lình đèn điện tắt …đột ngột vầng trăng tròn” Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ” lúc bấy giờ chỉ là phản xạ hết sức tự nhiên của một người quen với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong có được một chút ánh sáng bên ngoài cho căn phòng đỡ tối tăm hơn mà thôi. Nhưng may mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại có trăng. Trăng trở nên quý giá biết bao vào những khi mất điện. Và riêng tác giả, cái vầng trăng đột ngột hiện trên khoảng trời kia đâu phải chỉ để thay thế trong khoảnh khắc cho sự cố vừa rồi, mà nó còn làm xáo trộn tâm hồn thi sĩ: “Ngửa mặt lên nhìn mặt …như là sông, là rừng” Trong câu thơ “Ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng đối xứng hai từ “mặt” rất hay. Đó là nhìn mặt tri kỷ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Từ gợi tả “rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động của thi sĩ… Những kỉ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc: “như là đồng là bể như là sông, là rừng” Điệp từ “như là” cùng với nhịp thơ gấp bộc lộ rất rõ cảm xúc đang trào dâng mạnh mẽ… Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời: “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.” Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết. Cái ánh sáng tròn đầy hay cũng là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và cao quý biết bao bởi vì “vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Nhưng chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình” tỉnh ngộ: “ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình” Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng, “sự im lặng đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc này mới nhận rõ mình hơn. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người. Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu tư tưởng triết lý: vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc. Kb: Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn và việc không viết hoa chữ cái đầu dòng thơ – thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ cảm xúc, bài thơ “Ánh trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả. Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng” cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì một thời quá khứ chưa được đánh giá đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng” không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi!
Các từ khóa trọng tâm ” cần nhớ ” của bài viết trên hoặc ” cách đặt đề bài ” khác của bài viết trên:
nghị luận về bài thơ ánh trăng
nghi luan anh trang
,
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài Ánh Trăng Của Nguyễn Duy trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!