Xu Hướng 6/2023 # Soạn Bài: Quan Âm Thị Kính – Ngữ Văn 7 Tập 2 # Top 9 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Soạn Bài: Quan Âm Thị Kính – Ngữ Văn 7 Tập 2 # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Quan Âm Thị Kính – Ngữ Văn 7 Tập 2 được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

I. Tác giả, tác phẩm

1. Về thể loại

Văn bản Quan Âm Thị Kính thuộc thể loại chèo. Chèo là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ.

2. Xuất xứ

Văn bản Quan Âm Thị Kính là kịch bản của một vở chèo. Tuy chỉ là kịch bản nhưng Quan Âm Thị Kính và trích đoạn Nỗi oan hại chồng cũng thể hiện được những giá trị nghệ thuật nhất định, phần nào giúp chúng ta hiểu được những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo, đặc biệt là về nội dung tư tưởng: những vấn đề mà vở chèo nêu ra, những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội cũ, nỗi khổ của người phụ nữ xưa,…

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Đọc kĩ phần tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính.

Câu 2:

Đọc kĩ trích đoạn Nỗi oan hại chồng và các chú thích để hiểu văn bản và các từ khó.

Câu 3:

* Trích đoạn Nỗi oan hại chồng gồm có 5 nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Cả 5 nhân vật này đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch, trong đó, Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật chính, thể hiện xung đột cơ bản của vở chèo.

* Loại vai của các nhân vật:

Thị Kính là nhân vật nữ chính, đại diện tiêu biểu cho người dân thường, đặc biệt là đại diện cho thân phận của người phụ nữ vốn phải chịu nhiều thua thiệt và bất hạnh trong xã hội cũ.

Sùng bà thuộc kiểu nhân vật mụ ác (mụ ác và nữ chính là hai nhân vật rất tiêu biểu, thường xuất hiện trong chèo), đại diện cho giai cấp thống trị, thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến.

Câu 4:

* Khung cảnh ở phần đầu trích đoạn là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng, tuy không gân gũi và phổ biến với nhân dân như cảnh “chồng cày, vợ cấy” nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình của người dân.

* Qua lời nói và cử chỉ của nhân vật Thị Kính, em thấy Thị Kính là một người phụ nữ rất dịu dàng, hết mực yêu thương chồng. Khi chồng ngủ, dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng; thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng thì băn khoăn, lo lắng về sự dị hình chẳng lành.

Câu 5:

* Hành động của Sùng bà với Thị Kính rất tàn nhẫn, thô bạo: “dúi đầu Thị Kính xuống”, “bắt Thị Kính ngửa mặt lên”, “không cho Thị Kính phân bua”, “dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống”, “nhất quyết trả Thị Kính về cho gia đình”.

* Ngôn ngữ của Sùng bà thì toàn những lời nói đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ vả. Điều quan trọng là cách mắng chửi của Sùng bà với Thị Kính không phải là cách mắng chửi của một người bà mẹ chồng với cô con dâu của mình. Và có vẻ như mụ muốn đuổi Thị Kính vì lí do khác hơn là lí do giết chồng.

Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Tuồng bay mèo mả gà đồng

Nhà bà đây cao môn lệch tộc – Mày là con nhà cua ốc.

Trứng rồng lại nở ra rồng – Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

Câu 6:

* Trong đoạn trích, có 5 lần Thị Kính kêu oan, trong đó có 4 lần kêu oan là hướng về mẹ chồng và chồng:

Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ ơi!

Oan cho con lắm mẹ ơi!

Oan cho thiếp lắm chàng ơi!

Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

Bốn lần kêu oan này đều vô ích bởi chồng thì nhu nhược, mẹ chồng thì cay nghiệt nên càng kêu, nỗi oan ức của Thị Kính lại càng đầy.

Và đến lần thứ 5, lần kêu oan cuối cùng, Thị Kính kêu oan với Mãng ông (cha đẻ của nàng). Lần này, Thị Kính mới nhận được sự thông cảm. Nhưng đó lại là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Cuối cùng thì nỗi oan của nàng vẫn không được giải, Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà chồng.

Câu 7:

* Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông còn dựa lên một vở kịch lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, thực ra thì bắt ông sang dắt con về khiến cho cha con Mãng ông nhục nhã. Hơn thế nữa, còn thể hiện bằng những hành động vũ phu đối với cha con họ.

* Xung đột kịch trong đoạn trích này thể hiện cao nhất ở chỗ Mãng ông bị Sùng ông dúi ngã, Thị Kính chạy lại đỡ cha, hai cha con ôm nhau than khóc, Thị Kính bị đẩy lên tột cùng nỗi đau: oan ức, tan vỡ gia đình mà còn bị liên lụy cha bị khinh bỉ, bị hành hạ.

Câu 8:

* Qua cử chỉ, ngôn ngữ, có thể thấy, tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà:

Lưu luyến, đau khổ khi phải xa chồng, phải chịu oan ức.

Ngậm ngùi, xót xa cho thân phận hẩm hiu, số phận bất hạnh của mình.

* Việc Thị Kính “trá hình nam tử bước đi tu hành” để giải thoát đau khổ có 2 ý nghĩa gần như là đối lập nhau:

* Đây hoàn toàn không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ vì người phụ nữ này chưa đủ bản lĩnh để vượt lên hoàn cảnh, chỉ biết cam chịu bằng sự chịu đựng nhẫn nhục. Có thể nói, Thị Kính có đấu tranh nhưng sự đấu tranh của nàng chỉ dừng lại ở những lời than trách số phận và ước muốn “nhật nguyệt sáng soi” mà thôi.

5

/

5

(

12

bình chọn

)

Soạn Bài Quan Âm Thị Kính (Chi Tiết)

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Tác phẩm I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Thể loại

Chèo là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn gọi là chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ.

2. Tác phẩm

Văn bản Quan Âm Thị Kính là phần lời (kịch bản) của một vở chèo – một loại hình văn nghệ dân gian kết hợp nhiều hình thức như hát, múa, diễn tích, kể chuyện,… được trình bày trên sân khấu (còn gọi là chiếu chèo).

Tuy chỉ là kịch bản sân khấu nhưng Quan Âm Thị Kính (và trích đoạn Nỗi oan hại chồng) cũng thể hiện được những giá trị nghệ thuật nhất định, phần nào giúp chúng ta hiểu được những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo, nhất là về nội dung tư tưởng: những vấn đề mà vở chèo nêu ra, những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội cũ, nỗi khổ của người phụ nữ,…

Câu 1, 2 II. TRẢ LỜI CÂU HỎI SGK Trả lời câu 1 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Đọc kĩ tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính. Trả lời:

Tóm tắt:

Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm.

Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.

Trả lời câu 2 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Đọc kĩ đoạn trích Nỗi oan hại chồng và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó. Câu 3 Trả lời câu 3 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có mấy nhân vật? Những nhân vật nào là nhân vật chính thể hiện xung đột kịch? Những nhân vật đó thuộc các loại vai nào trong chèo và đại diện cho ai? Lời giải chi tiết:

– Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thiện Sĩ, Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.

– Tất cả các nhân vật trên đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch. Nhưng có hai nhân vật chính thể hiện xung đột là Sùng bà và Thị Kính. Sùng bà thuộc loại nhân vật “mụ ác”, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến; Thị Kính thuộc loại nhân vật “nữ chính”, đại diện cho phụ nữ lao động, người dân thường.

Câu 4 Trả lời câu 4 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là khung cảnh gì? Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính ở đây, em có nhận xét gì về nhân vật này? Lời giải chi tiết:

– Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng, tuy không gần gũi và phổ biến với nhân dân như cảnh “thiếp nón, chàng tơi”, “chồng cày, vợ cấy” nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình của nhân dân.

– Qua lời và cử chỉ của Thị Kính, ta thấy Thị Kính rất ân cần, dịu dàng với chồng: khi chồng ngủ, dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng; thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng thì băn khoăn lo lắng về sự dị hình chẳng lành.

⟶ Thị Kính là người vợ thương chồng. Tình cảm đối với chồng rất chân thật, tự nhiên.

– Ngôn ngữ của Sùng bà toàn những lời đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ vả. Dường như mỗi lần mụ cất lời, Thị Kính lại thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội, không cần hỏi rõ sự tình, không cần biết phải trái. Mụ muốn đuổi Thị Kính vì lí do khác hơn lí do giết chồng. Cụ thể:

+ Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Tuồng bay mèo mả gà đồng.

+ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc – Mày là con nhà cua ốc.

+ Trứng rồng lại nở ra rồng – Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

⟶ Lời lẽ là vốn từ ngữ để phân biệt chuyện “thấp – cao” của mụ thật giàu có. Lúc này không phải là quan hệ mẹ chồng – nàng dâu nữa mà là quan hệ giai cấp. Lời lẽ của mụ qua các làn điệu hát sắp, nói lệch, múa hát sắp chợt càng bộc lộ thái độ trấn áp tàn nhẫn phũ phàng, giọng khinh thị người nghèo. Mâu thuẫn giai cấp trong vấn đề hôn nhân phong kiến rất sâu sắc.

Sùng bà là một trò trong một lớp nhưng rất tiêu biểu cho một loạt vai trong chèo cổ: Vai mụ ác (hợm của, khoe dòng giống…) Mụ là kẻ tạo ra “luật” và “lệ” trong gia đình.

Câu 6 Trả lời câu 6 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Trong đoạn trích, mấy lần Thị Kính kêu oan? Kêu oan với ai? Khi nào lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông? Em có nhận xét gì về sự cảm thông đó? Lời giải chi tiết:

Trong trích đoạn, năm lần Thị Kính kêu oan. Trong đó có bốn lần tiếng kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng:

– Giời ơi Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ

– Oan cho con lắm mẹ ơi!

– Oan cho thiếp lắm chàng ơi!

– Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

Bốn lần kêu oan trên đều vô ích. Chồng nhu nhược, mẹ chồng cay nghiệt nên càng kêu, nỗi oan của nàng càng đầy.

Lần kêu oan thứ năm, lần cuối là kêu với Mãng ông (cha đẻ). Thị Kính mới nhận được sự thông cảm. Nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Cuối cùng nỗi oan không được giải và Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà chồng.

– Đây là chỗ xung đột kịch tập trung cao nhất. Trên sân khấu chỉ còn lại hai cha con lẻ loi. Thị Kính thì bị đẩy vào chỗ cực điểm của nỗi đau: gia đình chồng nghi oan, hạnh phúc tan vỡ, cha bị hành hạ, khinh bỉ. Cảnh cha con ôm nhau khóc là sự oan khuất mà bất lực. Sự bố trí dồn dập, xô đẩy, kéo dài những tình tiết kịch của sân khấu đây mang nhiều ý nghĩa.

Câu 8 Trả lời câu 8 (trang 120 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Qua cử chỉ và ngôn ngữ của nhân vật, hãy phân tích tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà. Việc Thị Kính quyết tâm “trá hình nam tử bước đi tu hành” có ý nghĩa gì? Đó có phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khố trong xã hội cũ không? Lời giải chi tiết:

Qua cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà: đau đớn vì bằng chứng của tình thủy chung bây giờ là dấu vết của sự thất tiết. Thị Kính đang bơ vơ trước cái vô định của cuộc đời, không biết sẽ về đâu.

Việc Thị Kính “trá hình nam tử đi tu hành” có ý nghĩa là giải thoát. Con đường giải thoát có hai mặt:

– Tích cực: muốn sổng ở đời để tỏ rõ con người đoan chính.

– Tiêu cực: cho rằng mình khổ do số kiếp, tìm cửa Phật để tu tâm.

Đây không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ vì người phụ nữ này chưa đủ bản lĩnh vượt lên hoàn cảnh, cam chịu bằng sự chịu đựng nhẫn nhục. Thị Kính có đấu tranh nhưng mới chỉ dừng ở những lời trách móc số phận và ước muốn “nhật nguyệt sáng soi”.

Luyện tập LUYỆN TẬP Trả lời câu 1 (trang 121 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2): Tóm tắt ngắn gọn đoạn trích “Nỗi oan hại chồng”.

Vào một buổi tối, Thiện Sĩ đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi may vá bên cạnh rồi quạt cho chồng. Trong lúc đó, nàng đã phát hiện ra dưới cằm chồng có cái râu mọc ngược. Nàng nghĩ đây là điềm chẳng lành, nên đã cầm dao khâu định xén nó đi. Chưa kịp xén thì Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy và hô hoán lên. Sùng ông và Sùng bà vốn không ưa Thị Kính nên đã đay nghiến, mắng nhiếc và đổ cho Thị Kính tội giết chồng. Mặc cho Thị Kính một mặt kêu oan, van xin nhưng Sùng ông và Sùng bà đã gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang và làm cho hai cha con phải nhục nhã, khổ sở. Quá đau khổ vì uất ức, Thị Kính lạy cha mẹ rồi giả trai, chọn kiếp tu hành, nương nhờ ở cửa Phật.

ND chính

Qua trích đoạn Nỗi oan hại chồng, học sinh nhận ra được những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm: lời bênh vực cho những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, lời đồng cảm với tình cảnh bất hạnh của học đồng thời tác phẩm gay gắt phê phán xã hội phong kiến đã đẩy người phụ nữ vào cảnh ngộ oan khuất, bi thảm.

Bố cục 3 phần

– Phần 1 (Từ đầu … đến thấy sự bất thường): Hạnh phúc gia đình.

– Phần 2 (Tiếp … đến Đi! Đi vào đi): Nỗi oan giết chồng.

– Phần 3 (Còn lại): Thị Kính quyết đi tu.

chúng tôi

Tóm Tắt Văn Bản: Quan Âm Thị Kính

I. Tóm tắt tác phẩm

Thiện Sĩ – con của Sùng ông, Sùng bà, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiuvà là một người học trò dòng dõi kinh thi. Ở nhà, Thiện Sĩ chăm chỉ dùi mài kinh sử, Thị Kính đảm đang miệt mài khâu vá. Đêm khuya, Thiện Sĩ vì mệt quá mà thiu thiu ngủ bên cạnh. Thị Kính ngồi bên cạnh thấy chồng có sợi râu mọc ngược, cho là không tốt, sẵn con dao trong tay, liền dùng dao định xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ tỉnh dậy, hiểu lầm vợ và la toáng lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính có xuất thân nghèo khó, bần hàn, liền vu oan cho Thị Kính có ý giết chồng. Mặc cho Thị Kính đã hết lời van xin, Sùng ông gọi Mãng ông sang để đuổi Thị Kính về. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào trong nhà để mặc hai bố con ôm nhau khóc rồi đi về.

Bị oan ức không viết kêu vào đâu, Thị Kính giả trai, vào tu ở chùa Văn Tự, lấy pháp hiệu là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ say mê Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mẫu về nhà đùa ghẹo, ăn nằm với anh Nô là người ở rồi có thai. làng bắt vạ. Bị thế, Thị Mầu khai cho Kính Tâm nên Kính Tâm chịu oan bị đuổi ra cồng chùa và nuôi con của Thị Mầu suốt ba năm. Rồi nàng “hoá” được lên toà sen, trở thành Phật Bà Quan Âm và để lại bức thư cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới rõ Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.

II. Nội dung và ý nghĩa của tác phẩm

Nội dung: Vở kịch kể về cuộc đời nhiều cay đắng của Thị Kính, từ bị vu oan giết chồng. Rồi giả trai đi tu để cầu Phật chứng minh cho sự trong sạch của mình và án hoang thai. Đoạn trích phản ánh những bất công trong xã hội đối với người phụ nữ, vốn chịu nhiều thiệt thòi và bất hạnh,

Ý nghĩa: Đoạn trích góp phần tái hiện chân thực mâu thuẫn giai cấp, thân phận người phụ nữ qua mối quan hệ hôn nhân ngày xưa. Thể hiện sự cảm thông trước những bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Soạn Bài: Sống Chết Mặc Bay – Ngữ Văn 7 Tập 2

I. Tác giả, tác phẩm

1.  Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu về tác giả Phạm Duy Tốn trong SGK Ngữ văn 7 tập 2)

2. Tác phẩm

* Thể loại: Văn bản Sống chết mặc bay thuộc thể loại truyện ngắn.

Ở Việt Nam, vào khoảng đầu thế kỉ XX, khái niệm truyện ngắn còn khá mới mẻ. Thời trung đại cũng đã có truyện hoặc các tác phẩm có tính chất tự sự nhưng không có tác phẩm nào thể hiện được những đặc trưng cơ bản của thể loại này.

Truyện ngắn thuộc loại hình tự sự, đặc trưng cơ bản nhất của nó là ngắn. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn không hoàn toàn quyết định tính chất thể loại. Như trên đã nói, nhiều tác phẩm (có tính tự sự) thời trung đại nhưng không thể xếp vào loại truyện ngắn bởi ngoài tính chất về dung lượng, truyện ngắn còn có một số đặc trưng khác.

Khác với các truyện dài (ví dụ: tiểu thuyết) và truyện vừa thường tái hiện trọn vẹn cuộc đời một nhân vật, một sự kiện, hoàn cảnh,… truyện ngắn chỉ là một lát cắt, một khoảnh khắc, một hiện tượng nổi bật (cũng có thể khác thường) của cuộc sống. Để đảm bảo với một dung lượng nhỏ mà chuyển tải được những ý nghĩa lớn, ngôn ngữ truyện ngắn phải hàm súc đến mức tối đa. Các chi tiết “thừa” (đối với việc thể hiện nội dung cốt truyện), các chi tiết rườm rà đều bị lược bỏ để tập trung vào những chi tiết chủ yếu nhất. Trong truyện ngắn, dường như hiện thực đời sống đã được “nén” chặt lại nhằm mục đích khắc hoạ nổi bật một hiện tượng, một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người.

* Tóm tắt

Gần một giờ đêm, khi đó, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên cao, khúc đê làng X không thể chống cự và có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm, hàng nghìn người dân đang ra sức chống chọi với sức nước cuồn cuộn. Ấy vậy mà tại một ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung ngồi đánh bài với các quan khác, vẫn thản nhiên quát mắng khi có người báo đê sắp vỡ. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to cũng là lúc đê bị vỡ, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má, rau màu ngập chìm trong biển nước, người sống không có chỗ ở, người chết không có chỗ chôn.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Văn bản Sống chết mặc bay có thể được chia làm 3 đoạn:

Đoạn 3: còn lại : Đê vỡ, nhân dân rơi vào cảnh lầm than.

Câu 2:

Phép tương phản (đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để qua đó làm nổi bật một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.

a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay:

Một bên là cảnh nhân dân đang vật lộn, chống chọi hết sức căng thẳng, vất vả với mưa gió, bão lũ.

b) Phân tích, làm rõ từng mặt trong sự tương phản:

Dân hộ đê: gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã, nước dâng cao, một cảnh tượng hết sức nguy kịch, người thì đã kiệt sức mà mưa thì vẫn trút xuống, sức đê đã dần yếu hơn sức nước.

Quan phủ nha ung dung bài bạc: trong đình cao ráo, an toàn, vững chãi, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, đường bệ, nguy nga, đang say sưa trong cuộc vui tổ tôm.

c) Qua hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc họa:

Ngồi ở nơi an toàn, đẹp đẽ, lại có người hầu bài

Được dùng toàn đồ ngon, vật lạ

Tư thế thì đường bệ, ung dung, nhàn nhã như không có chuyện gì xảy ra

Không màng đến chuyện đê vỡ, thậm chí còn khó chịu, mắng mỏ khi có người thông báo đê sắp vỡ.

Khi quan vui mừng ù ván bài thì cũng là lúc nhân dân rơi vào cảnh thảm sầu.

Câu 3:

Trong nghệ thuật văn chương còn có phép tăng cấp (lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), qua đó làm rõ thêm bản chất một sự việc, một hiện tượng muốn nói. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã kết hợp khéo léo phép tương phản và phép tăng cấp để bộc lộ rõ nét tính cách của nhân vật.

a) Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ của trời mưa, của độ nước sông dâng cao, của nguy cơ vỡ đê, của cảnh hộ đê vất vả, căng thẳng của người dân (trong đó có mức độ của tiếng trống đánh, ốc thổi, tiếng người gọi nhau sang hộ đê) là:

Mưa mỗi lúc một nhiều

Mực nước mỗi lúc càng cao

Âm thanh mỗi lúc một ầm ĩ

Sức người mỗi lúc một yếu

Nguy cơ vỡ đê mỗi lúc một đến gần

b) Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan phủ là:

Mê bài bạc đến vứt bỏ trách nhiệm

Bên ngoài thì ầm ĩ mà vẫn điềm nhiên, nhàn nhã

Sung sướng cực độ ù ván bài to trong khi bên dưới đê đã vỡ

c) Tác dụng của sự kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần bản chất “lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sinh mạng của người dân:

Câu 4:

* Giá trị hiện thực: Phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống của nhân dân với cuộc sống của bọn quan lại, đồng thời, phê phán thói vô trách nhiệm của kẻ đứng đầu trước sinh mạng của người dân.

* Giá trị nhân đạo: Thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước cuộc sống lầm than, cơ cực của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền lúc bấy giờ.

* Giá trị nghệ thuật: Tác giả đã vận dụng thành công sự kết hợp hai phép nghệ thuật tương phản và tăng cấp. Lời văn sinh động, giàu cảm xúc, miêu tả nhân vật sắc nét.

4.1

/

5

(

16

bình chọn

)

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Quan Âm Thị Kính – Ngữ Văn 7 Tập 2 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!