Xu Hướng 6/2023 # Soạn Bài: Xin Lập Khoa Luật – Ngữ Văn 11 Tập 1 # Top 7 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Soạn Bài: Xin Lập Khoa Luật – Ngữ Văn 11 Tập 1 # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Xin Lập Khoa Luật – Ngữ Văn 11 Tập 1 được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Xin chào các em! Hôm nay, Soạn Văn sẽ hướng dẫn các em soạn văn bản: Xin lập khoa luật của tác giả Nguyễn Trường Tộ.

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Theo Nguyễn Trường Tộ, luật bao gồm những lĩnh vực là: kỉ cương, uy quyền, chính lệnh (chính sách và luật pháp) của quốc gia.

* Ông đã giới thiệu việc thực hành luật pháp ở các nước phương Tây: “phàm những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị phiếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc”.

Câu 2:

* Tác giả chủ trương vua, quan và dân phải có thái độ trước pháp luật là: Bất luận quan hay dân mọi người đều phải học luật nước.

* Ông chủ trương như vậy là bởi vì luật đã bao trùm lên tất cả. Nếu một đất nước không có bộ luật cụ thể thì làm sao giữ được kỉ cương phép nước. Từ quan cho đến thứ dân đều phải hiểu và làm đúng theo luật quy định.

Câu 3:

Theo Nguyễn Trường Tộ, Nho học truyền thống không có tôn trọng luật pháp. Bởi theo ông: “Biết rằng đạo làm người không gì bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vậy xưa nay học đã nhiều mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm?”.

Hơn thế nữa: “Từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị dân được”.

Câu 4:

Tác giả quan niệm về mối quan hệ giữa đạo đức và luật pháp:

Theo Nguyễn Trường Tộ, luật pháp và đạo đức có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Luật còn là đạo đức, đạo làm người “trái luật là có tội, giữ đúng luật là đạo đức”. Bên cạnh đó, ông cũng khẳng định: “có đạo đức nào lớn hơn chí công vô tư?”. Theo tác giả, cái đức của pháp luật ấy chính là lẽ công bằng, còn chí công vô tư chính là cái gốc của đức trong luật.

Câu 5:

Việc nhắc đến Khổng Tử và các khái niệm đạo đức, văn chương có tác dụng đối với nghệ thuật biện luận trong đoạn trích:

Tăng thêm sức thuyết phục với nhà vua, tác giả đã đưa ra quan niệm của đạo Nho: “Từ tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ”. Không những thế, tác giả cũng lấy ngay lời của Khổng Tử: “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt”. Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Đây chính là biện pháp lập luận “gậy ông đập lưng ông”.

Đạo Nho là một thứ luật phong kiến với nội dung: không gì lớn bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa.

Nho học không có truyền thống tôn trọng luật pháp vì chỉ nói suông trên giấy, làm tốt chẳng ai khen, làm dở chẳng ai chê, đến Khổng Tử cũng công nhận điều này.

5

/

5

(

1

bình chọn

)

Soạn Bài: Xin Lập Khoa Luật

Hướng dẫn Soạn bài: Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ) Câu 1: – Theo Nguyễn Trường Tộ, luật bao gồm: “kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong

Hướng dẫn Soạn bài: Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ)

Câu 1:

– Theo Nguyễn Trường Tộ, luật bao gồm: ” kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ“.

– Đất nước muốn tồn tại phải có kỉ cương, nhà nước muốn cai trị được dân phải có uy quyền nhưng đồng thời phải có chính lệnh. ” Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật“.

– Ông giới thiệu việc thực hành luật ở các nước phương Tây: ” phàm những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị phiếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc…“

Từ việc này có thể thấy tác giả rất đề cao luật, đề cao những người hiểu biết về luật và có khả năng dùng luật để điều khiển công việc quốc gia.

Câu 2:

– Theo Nguyễn Trường Tộ, kỉ cương, uy quyền, chính lệnh để duy trì sự tồn tại của đất nước. Vì vậy, tác giả khẳng định: ” Bất luận quan hay dân mọi người đểu phải học luật nước“, ” quan dùng luật để trị dân, dân theo luật mà giữ gìn“.

– Ông chủ trương như vậy vì luật đã bao trùm lên tất cả. Nếu đất nước không có các bộ luật thì làm sao giữ được kỉ cương phép nước. Từ quan cho đến thứ dân đều phải hiểu và làm theo luật. Xưa đã đúng, nay càng thấy đúng và thấm thía hơn.

Câu 3:

Theo tác giả, Nho học không có truyền thống tôn trọng luật pháp. Bởi: “Biết rằng đạo làm người không gì bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vật xưa nay học đã nhiều mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm?”. Hơn thế nữa, “từ xưa đến nay các vua chúa năm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị dân được”.

Câu 4: Quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật:

Dù lời văn đề cao pháp luật, nhưng theo ông, luật pháp và đạo đức gắn bó chặt chẽ với nhau. Tác giả khẳng định: ” Nếu bảo luật chỉ tố cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng luật là đức. Nếu tận dụng cái lẽ công bằng trong luật mà xử thì mọi quyền, mọi pháp trong luật đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư không? …” Theo Nguyễn Trường tộ, cái đức của pháp luật ấy chính là lẽ công bằng. Chí công vô tư chính là cái gốc của đức trong luật.

Câu 5:

Để tăng thêm sức thuyết phục với nhà vua, Nguyễn Trường Tộ đưa ra quan niệm luật của đạo Nho: ” Từ tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đểu đầy đủ“. Tác giả phê phán đạo Nho ở tính chất vô tích sự, chỉ nói suông không có tác dụng, ” không làm cũng chẳng ai bị phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng“. Vì vậy, pháp luật phải gắn liền với thực tiễn hành động của con người. Đó là làm theo pháp luật. Tác giả lấy ngay lời của Khổng Tử: ” Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt“, ” Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc“. Đây chính là biện pháp lập luận ” gậy ông đập lưng ông“. Tác giả đưa ra dẫn chứng ” Thử xem có những nhà nho suốt đời đọc sách đáng lẽ cử chỉ của họ phải làm khuôn thước cho đời, vậy mà tại sao có nhiều người cuộc đời của họ và ứng xử của họ còn tệ hơn những người quê mùa chất phác.“

Lời lẽ ấy như đặt ra câu hỏi: Vì sao lại có tình trạng như vậy? Chỉ có thể trả lời là do họ không được học luật. Vì vậy mới cần có luật.

Các bài soạn văn lớp 11 hay khác:

Soạn Bài Phong Cách Ngôn Ngữ Khoa Học Sbt Ngữ Văn 12 Tập 1

1. Bài tập 1, trang 76, SGK.

Bài Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX (trong Ngữ văn 12, tập 1) là một bản khoa học. Hãy cho biết:

a) Văn bản đó trình bày những nội dung khoa học gì?

b) Văn bản đó thuộc ngành khoa học nào?

c) Ngôn ngữ khoa học ở dạng viết của văn bản đó có đặc điểm gì dễ nhận thấy? (Chú ý hệ thống đề mục từ lớn đến nhỏ, các thuật ngữ khoa học,…

Trả lời:

Bài tập yêu cầu nhận xét về một văn bản khoa học thuộc loại văn bản giáo khoa. Đây là văn bản được viết mạch lạc, rõ ràng theo từng phần, từng mục. Lần lượt nhận xét theo câu hỏi ở đề bài:

a) Văn bản đó trình bày nội dung khoa học về văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX. Nội dung khái quát được chia tách thành nhiều phương diện như hoàn cảnh lịch sử xã hội, văn hoá, quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu của văn học giai đoạn này, những đặc điểm cơ bản,…

c) Một số đặc điểm của văn bản ở dạng viết: hệ thống đề mục từ lớn đến nhỏ và có đánh số thứ tự chặt chẽ ; dùng nhiều thuật ngữ khoa học ; dùng nhiều kiểu chữ khác nhau tuỳ thuộc nội dung biểu đạt; dùng cách đóng khung một số phần,…

2. Bài tập 2, trang 76, SGK.

Giải thích và phân biệt thuật ngữ khoa học với từ ngữ thông thường qua các ví dụ sau trong môn Hình học: điểm, đường thẳng, đoạn thẳng, mặt phẳng, góc, đường tròn, góc vuông,…

Trả lời:

Bài tập này yêu cầu giải thích và phân biệt những thuật ngữ khoa học có nguồn gốc từ từ ngữ thông thường. Mỗi từ ngữ chỉ có một hình thức âm thanh và kiểu cấu tạo nhưng nghĩa trong khoa học (khái niệm khoa học) và nghĩa trong cách dùng thông thường hằng ngày không hoàn toàn giống nhau, cần phân biệt để dùng đúng trong từng phong cách ngôn ngữ

– Phong cách ngôn ngữ khoa học và phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Ví dụ : đoạn thẳng.

– Trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày : đoạn thẳng chỉ một đoạn không cong queo, không gấp khúc, không uốn lượn về một chiều nào…

– Trong văn bản khoa học (Hình học): đoạn thẳng là đoạn ngắn nhất nối liền hai điểm. Đó là nghĩa của thuật ngữ Hình học.

Đối với các từ ngữ khác cũng cần so sánh, phân biệt và giải thích như vậy.

3. Xác định các thuật ngữ khoa học và khái niệm mà chúng biểu hiện trong phần trích văn bản khoa học sau đây:

Như vậy dù hiểu văn hoá theo nghĩa nào – làm cho đẹp hơn hay làm cho có trình độ cao hơn – thì kinh doanh cũng gắn với văn hoá. Theo C. Mác sự sáng tạo theo những nguyên tắc của cái đẹp là một quy luật của lao động và các hoạt động của con người. Dù làm việc gì hay chế tạo ra cái gì con người cũng muốn làm cho đẹp. Đó là một dấu hiệu quan trọng đánh dấu sự tiến hoá của con người so với con vật. Mĩ hoá hay văn hoá theo nghĩa đó là quy luật phổ biến của hoạt động con người bao gồm các hoạt động lao động sản xuất cụ thể và các hoạt động phi vật thể, trong đó có hoạt động kinh doanh.

(Lê Ngọc Trà, Văn chương, thẩm mĩ và văn hoá, NXB Giáo dục, 2007)

Trả lời:

Phần trích dẫn là một đoạn văn trong một công trình khoa học chuyên sâu, khảo cứu về văn hoá.

Do đó trong đoạn văn sử dụng nhiều thuật ngữ khoa học : văn hoá, nghĩa, kinh doanh, sự sáng tạo, nguyên tắc, cái đẹp, quy luật, lao động, hoạt động, con người, chế tạo, dấu hiệu, sự tiến hoá, con vật, mĩ hoá, phi vật thể.

Có thuật ngữ được hình thành từ từ ngữ thông thường của ngôn ngữ sinh hoạt (như cái đẹp là một thuật ngữ ngành khoa học xã hội và nhân văn nhưng đã có từ lâu trong ngôn ngữ hằng ngày : cái nết đánh chết cái đẹp), có thuật ngữ được tạo ra trong lĩnh vực khoa học (như sự tiến hoá). Điều cần chú ý là khi dùng trong lĩnh vực khoa học thì các từ ngữ đó phải dùng theo nghĩa khái niệm khoa học.

4. Hãy phân tích và nhận xét về kết cấu câu văn sau đây trong một văn bản khoa học:

Mặc dù cho đến nay loài người chưa vượt ra khỏi hệ Mặt Trời và chỉ mới khẳng định ở thời điểm hiện tại trong hệ Mặt Trời chỉ ba hành tinh có sự sống, trong đó sự sống trên Quả Đất đạt trình độ cao nhất nhưng chúng ta có căn cứ để tin rằng sự sống trong vũ trụ là phố biến, và đến ngày nào đó thì việc tiếp nhận tín hiệu ngoài Quả Đất, đón tiếp khách từ vũ trụ sẽ không còn là mơ ước mà là hiện thực.

(Trần Bá Hoành – Nguyễn Minh Công, Sinh học 12, NXB Giáo dục, 2006)

Trả lời:

Đây là một câu văn khá dài trong văn bản khoa học (còn gọi là kiểu câu trường cú). Câu văn gồm nhiều bộ phận, nhiều thành phần ngữ pháp ở các tầng bậc khác nhau, tạo nên một cấu trúc phức tạp. Nhưng nhờ các (quan hệ từ, các dấu câu và do được tổ chức mạch lạc nên câu văn vẫn biểu hiện sáng rõ tư tưởng khoa học. Chính kết cấu phức tạp của câu văn cũng phù hợp với sự biểu hiện những mối quan hệ trừu tượng, đa diện của nội dung. Đó là một đặc điểm của ngôn ngữ khoa học.

a) Cấp độ thứ nhất, câu văn được phân tích thành hai vế có quan hệ nhượng bộ tăng tiến phối hợp vói quan hệ đối lập :

– Vế 1: Mặc dù… cao nhất

– Vế 2 : nhưng… hiện thực

b) Cấp độ thứ hai, tách trong mỗi vế các thành phần ngữ pháp thấp hơn :

– Vế 1:

+ Trạng ngữ: cho đến nay + Chủ ngữ: loài người

+ Vị ngữ: chưa vượt ra khỏi… và chỉ mới khẳng định… có sự sống + Phần chú thích : trong đó… đạt trình độ cao nhất

– Vế 2:

+ Chủ ngữ: chúng ta

+ Vị ngữ : có căn cứ để tin rằng… là hiện thực. Trong vị ngữ này có phần phụ sự sống… là hiện thực bổ sung ý nghĩa cho động từ tin rằng.

5. Nhận xét về đặc điểm sử dụng phương tiện ngôn ngữ (từ, kiểu câu) của câu văn thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học sau đây:

Nếu hai tam giác có các cạnh tương ứng bằng nhau từng đôi một thì hai tam giác ấy bằng nhau.

Trả lời:

Trong câu văn đó có những phương tiện ngôn ngữ đặc trưng cho phong cách khoa học:

– Dùng các thuật ngữ toán học: tam giác, cạnh, bằng nhau.

– Kiểu câu ghép có 2 vế chỉ điều kiện (giả thiết) và kết quả (Nếu… thì…). Nó thể hiện một lập luận : có luận cứ (điều kiện) và kết luận (kết quả).

6. Văn bản sau đây thuộc phong cách ngôn ngữ nào ?

Muốn tìm diện tích hình thang,

Đáy nhỏ, đáy lớn ta mang cộng vào.

Rồi đem nhân với chiều cao,

Chia đôi lấy nửa, lẽ nào còn sai.

Trả lời:

Văn bản tuy viết theo văn vần, nhưng vẫn thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học chứ không phải phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, vì:

– Có nội dung thông tin khoa học (cách tính diện tích hình thang), phục vụ mục đích khoa học.

– Dùng nhiều thuật ngữ khoa học : diện tích, hình thang, đáy nhỏ, đáy lớn, cộng, nhân, chiều cao, chia.

– Các thuật ngữ khoa học thì biểu hiện khái niệm khoa học, còn toàn văn bản thì thể hiện quy tắc khoa học về tính diện tích hình thang. Cả các khái niệm và cả quy tắc đều mang tính trừu tượng, khái quát và tính chính xác cao.

– Tuy viết theo dạng văn vần, nhưng văn bản không có tính hình tượng và trung tính về biểu cảm (khác với văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật).

Soạn Bài Mẹ Tôi Trang 11 Sgk Ngữ Văn 7 Tập 1

I. VỀ TÁC GIẢ

Ét-môn-đô A-mi-xi (1846-1908) là nhà văn I-ta-li-a, người đã viết bộ sách giáo dục Những tấm lòng cao cả nổi tiếng (trong đó có đoạn trích Mẹ tôi). Ngoài ra, ông còn là tác giả của những cuốn sách như Cuộc đời của những chiến binh (1868), Cuốn truyện của người thầy (1890), Giữa trường và nhà (1892),…Trong những cuốn sách đó, vấn đề quan hệ giữa thầy và trò, gia đình và nhà trường, quan hệ bè bạn,… được thể hiện rất sinh động qua những câu chuyện hấp dẫn và bổ ích.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Mặc dù có nhan đề là Mẹ tôi nhưng văn bản lại được viết dưới dạng một bức thư của người bố gửi cho con trai. Cách thể hiện độc đáo này giúp cho những phẩm chất của người mẹ (nội dung chủ yếu của tác phẩm) được thể hiện một cách khách quan và trực tiếp. Đồng thời qua đó, người viết thư có điều kiện để bộc lộ trọn vẹn thái độ, cảm xúc của mình mà không làm cho người tiếp thu (đứa con) phải xấu hổ, từ đó nhanh chóng hiểu ra vấn đề.

2. Qua bức thư, có thể nhận thấy người bố rất buồn bã và tức giận trước thái độ và cách ứng xử của En-ri-cô (khi cô giáo đến thăm nhà, En-ri-cô đã thốt ra một lời thiếu lễ độ với mẹ).

Những câu văn thể hiện thái độ của người bố:

– “… việc như thế không bao giờ con được tái phạm nữa”.

– “Sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim bố vậy”. – “bố không thể nén được cơn tức giận đối với con”. – “Từ nay, không bao giờ con được thốt ra một lời nói nặng với mẹ”. – “…thà rằng bố không có con, còn hơn thấy con bội bạc với mẹ”.

3. Các hình ảnh, chi tiết nói về người mẹ của En-ri-cô: “…mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con,…khi nghĩ rằng có thể mất con”; “Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc…có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con”. Những chi tiết này cho thấy, mẹ En-ri-cô là một người dịu dàng hiền từ, giàu tình thương yêu và đầy trách nhiệm. Mẹ En-ri-cô cũng như biết bao nhiêu người mẹ khác, luôn sẵn sàng hi sinh tất cả cho những đứa con yêu.

4. Em sẽ lựa chọn phương án nào trong các phương án sau để trả lời cho câu hỏi: điều gì đã khiến En-ri-cô “xúc động vô cùng” khi đọc thư của bố?

a) Vì bố gợi lại những kỉ niệm giữa mẹ và En-ri-cô.

b) Vì En-ri-cô sợ bố.

c) Vì thái độ kiên quyết và nghiêm khắc của bố.

d) Vì những lời nói rất chân tình và sâu sắc của bố.

e) Vì En-ri-cô thấy xấu hổ.

Gợi ý: Có thể lựa chọn các phương án: a, c và d.

5*. Người bố không nhắc nhở En-ri-cô trực tiếp mà lựa chọn cách viết thư, vì:

– Nhắc nhở trực tiếp thường rất khó kiềm giữ được sự nóng giận.

– Nhắc nhở trực tiếp khó có thể bày tỏ được những tình cảm sâu sắc và tế nhị.

– Nhắc nhở trực tiếp có thể khiến người mắc lỗi cảm thấy bị xúc phạm quá lớn vào lòng tự trọng. Từ đó có thể dẫn đến những suy nghĩ tiêu cực ở đứa trẻ, khiến cho những lời nhắc nhở không phát huy được mục đích giáo dục như mong muốn.

III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Tóm tắt

Vì được viết dưới dạng một bức thư nên văn bản này hầu như không có cốt truyện. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào cách thể hiện của văn bản (đã nói ở trên) để tóm tắt những nét chủ yếu như sau:

En-ri-cô ăn nói thiếu lễ độ với mẹ. Bố biết chuyện, viết thư cho En-ri-cô với lời lẽ vừa yêu thương vừa tức giận. Trong thư, bố nói về tình yêu, về sự hi sinh to lớn mà mẹ đã dành cho En-ri-cô… Trước cách xử sự tế nhị nhưng không kém phần quyết liệt, gay gắt của bố, En-ri-cô vô cùng hối hận.

2. Cách đọc

Văn bản hầu như chỉ sử dụng một giọng điệu duy nhất là giọng điệu của người bố nói với con. Bởi vậy, ngoài đoạn thứ nhất (được viết theo phương thức tự sự) đọc bằng giọng chậm rãi, thể hiện sự hối hận của En-ri-cô, các đoạn sau cần đọc bám sát giọng điệu của người bố: khi thủ thỉ tâm tình (nói về tình yêu và sự hi sinh của mẹ đối với En-ri-cô), khi tức giận (biểu lộ thái độ giận dữ trước cách nói năng của En-ri-cô với mẹ),…

3. Có thể chọn đoạn văn sau để học thuộc lòng:

Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên nó.

4. Kể lại một sự việc em lỡ gây ra khiến bố mẹ, mẹ buồn phiền.

Trong cuộc đời của mỗi con người nhất là khi còn thơ ấu chắc hẳn sẽ không ít lần mắc lỗi khiến cho bố mẹ phải phiền lòng. Em có thể nhớ lại câu chuyện (của bản thân, của người khác mà em từng được chứng kiến hay nghe kể lại) từng khiến mình phải băn khoăn, day dứt và hãy kể lại câu chuyện đó. Cần chú ý nêu ra được những bài học cho bản thân.

chúng tôi

Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Xin Lập Khoa Luật – Ngữ Văn 11 Tập 1 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!