Xu Hướng 3/2023 # Sức Sống Của Thể Thơ Lục Bát Trong Thơ Ca Việt Nam Hiện Đại # Top 8 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Sức Sống Của Thể Thơ Lục Bát Trong Thơ Ca Việt Nam Hiện Đại # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Sức Sống Của Thể Thơ Lục Bát Trong Thơ Ca Việt Nam Hiện Đại được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Lục bát là một trong những thể thơ truyền thống của dân tộc. Lục bát có ảnh hưởng lớn đối với văn học viết nói chung, thơ ca nói riêng. Lục bát thể hiện rõ sức sống của nó trong diễn ngôn thơ ca hiện đại. Kết hợp góc nhìn văn hóa học với góc nhìn ký hiệu học, bài viết khảo sát Tuyển tập Thơ Việt Nam thế kỷ XX nhằm làm rõ những hằng thể và biến thể của thể thơ lục bát trong thơ ca Việt Nam hiện đại.XX 1. Không nghi ngờ gì nữa khi nói: lục bát là thể thơ bắt rễ sâu nhất vào cơ tầng văn hóa Việt. Nếu coi văn học dân gian như chiếc nôi êm ái thì lục bát ca dao như dòng sữa mát lành đối với văn học viết nói chung, thơ ca nói riêng. Được nuôi dưỡng từ những trầm tích thâm sâu như thế nên đến thơ ca hiện đại, ít có nhà thơ nào không một lần “dan díu” với lục bát. Khởi nguồn từ ca dao, sau bao “dâu bể”, lục bát vẫn trở về với cái “Giận thì giận, thương càng thương” trong tâm tình dân tộc. Kết hợp góc nhìn văn hóa học với góc nhìn ký hiệu học, bài viết khảo sát Tuyển tập Thơ Việt Nam thế kỷ (trơ trữ tình) [8] nhằm làm rõ những mã ký hiệu đã ngưng tụ thành hằng thể cũng như một số biến thể của thể thơ lục bát trong thơ ca Việt Nam hiện đại.XX (đã dẫn) là một tuyển tập thơ tập hợp 620 bài thơ của hơn 450 nhà thơ Việt Nam trong suốt một thế kỷ. Trên cơ sở nhiều tiêu chí khác nhau, ở một mức độ nào đó, có thể nói: những bài thơ trữ tình Việt Nam hay nhất thế kỷ 2. Thơ Việt Nam thế kỷ XX, cơ bản, đều góp mặt trong tuyển tập này. Khảo sát về thể thơ, chúng tôi nhận thấy, do là một tuyển tập thơ xuyên qua cả hai thời kỳ văn học nên thể thơ đương nhiên hết sức phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, một điều ngạc nhiên là, lục bát vẫn là không hề “lép vế”; ngược lại, còn chiếm vị trí trung tâm. Trong 620 bài thơ thì có đến 139 bài được viết theo thể lục bát, chiếm 22,42%. Như vậy là, chỉ sau thơ tự do, lục bát chiếm gần một phần tư tuyển tập thơ hiện đại. Đưa ra một con số thống kê cụ thể như thế để thấy: chỉ xét về số lượng, lục bát vẫn trường tồn với tiềm năng lớn trong thơ ca. Một tương quan khác sẽ cho ta có thêm niềm tin về sức sống mạnh mẽ của lục bát dân tộc: Ở bài viết “Lục bát Thơ mới 1932-1945 – những đặc trưng cơ bản về chức năng và nội dung thể loại” [3], Biện Thị Quỳnh Nga cũng qua sự thống kê với những con số để đi đến kết luận: “Trong cuộc “cạnh tranh” giành vị thế và đáp ứng yêu cầu của độc giả hiện đại so với các thể loại khác của Thơ mới, lục bát vẫn khẳng định được khả năng tồn tại và sức hấp dẫn mạnh mẽ của mình với hơn 148 tác phẩm, chiếm 13,82% (số liệu được thống kê từ cuốn Thơ mới 1932 -1945, tác giả và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội)”. 13,83% đối với tuyển tập Thơ mới đã tăng lên thành 22,42% đối với tuyển tập thơ thế kỷ XX (trong đó có Thơ mới) đã nói với chúng ta về sự hồi sinh của lục bát, cũng đồng nghĩa với việc các nhà thơ ngày càng trở về nhiều hơn với thể thơ mang tính căn cốt, cội nguồn dân tộc này.TS. Nhìn từ cội nguồn thể thơ, lục bát hiện đại đã có nhiều sự biến thiên. Lục bát từ ca dao đi vào văn học viết đã có sự mở rộng về dung lượng thể loại rất lớn. Trong văn học viết, không có những bài thơ được cấu tạo từ một cặp lục bát như ca dao. Sự mở rộng này cũng không theo chiều tăng dần từ văn học trung đại đến văn học hiện đại mà “co duỗi” bất định tùy theo hệ hình, tư duy thể loại,… của mỗi phạm trù/ thời kỳ văn học. Dài có thể lên đến 3254 câu như Truyện Kiều, ngắn cũng phải bốn dòng, ngang với một bài thơ tứ tuyệt, như Chăn trâu đốt lửa của Đồng Đức Bốn, Ngã ba của Hồng Quang [8, tr.56, tr.605]. Tuy nhiên, trong tuyển tập chúng tôi khảo sát, những bài lục bát như Chăn trâu đốt lửa, Ngã ba là rất hiếm, chỉ có vài ba bài. Hơn 98% các bài thơ lục bát được viết từ tám dòng trở lên. Đặc biệt, những bài được trích từ các trường ca có dung lượng khá lớn. Việc tăng dung lượng rõ ràng là một thay đổi xuất phát từ mối tương quan giữa nội dung và hình thức. Trong phương thức truyền miệng, diễn xướng, đối đáp,…; với khả năng của những “thi nhân” nghiệp dư, khuôn khổ thể loại như trên cũng là điều dễ hiểu. Thơ ca là thể loại trữ tình nhất trong các thể loại trữ tình, để đáp ứng nhu cầu diễn giải, giãi bày tâm tư, một cặp lục bát quả là khó gói ghém cho hết những gì nhà thơ cần nói.XX, những bài thơ tự sự hay nhất, nằm lòng sâu nhất trong ký ức mọi người lại không thuộc về thể lục bát mà vinh dự đó thuộc về các thể thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ hỗn hợp. Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Núi đôi của Vũ Cao, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Quê hương của Giang Nam,… là những cái tên sừng sững. Do vậy, có thể nói, lục bát hiện đại có thiên hướng phát huy chức năng/đặc tính trữ tình của lục bát ca dao. Chúng ta cũng nhận thấy cả hằng thể lẫn biến thể ở điểm này: mở rộng biên độ thể thơ là biến thể; nhưng sự mở rộng ấy không nằm ngoài việc quay trở về khai triển “mã” trữ tình trong hằng thể của lục bát ca dao. Sau một chặng đường dài vận động, lục bát hiện đại lại trở về với tính trữ tình của lục bát ca dao. Có thể coi đây là một kiểu lựa chọn của văn hóa Việt. 2.1. Số lượng bài thơ chỉ cho thấy sức sống hiện tồn của một thể thơ. Trong khi muốn nắm bắt những hằng thể và biến thể của lục bát, người nghiên cứu phải quan tâm đến tương quan trên nhiều phương diện: nội dung lẫn hình thức, cảm thức thẩm mỹ lẫn tư duy nghệ thuật,… Chưa có học giả nào khẳng định chắc chắn về thời điểm ra đời của lục bát nhưng mọi người đều dễ dàng đồng nhất rằng, những bài thơ lục bát cổ nhất còn lại chính là những bài ca dao. Ca dao hầu hết sáng tác theo thể lục bát (95% – theo Nguyễn Xuân Kính) [2]. Các thi nhân bình dân dùng lục bát để sáng tác ca dao phổ biến đến mức khiến chúng ta mặc định rằng lục bát là “thể thơ bản quyền” của ca dao. Chức năng, đồng thời là đặc trưng bản chất nhất của ca dao là trữ tình. Nếu tục ngữ thuộc phương thức luận lý, thì ca dao thuộc phương thức trữ tình. Từ xuất phát điểm ấy, tục ngữ sử dụng câu chữ dài ngắn khác nhau rất cơ động; trong khi, ca dao thường gắn chặt với thể thơ lục bát. Đôi khi, chúng ta cũng thấy một số câu tục ngữ được viết bằng thể thơ lục bát nhưng những trường hợp này rất ít và đều thuộc dạng mượn yếu tố trữ tình để phục vụ cho chức năng luận lý, kiểu như Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước thì thương nhau cùng. Như vậy, có thể thấy: ca dao, lục bát, trữ tình là những yếu tố luôn luôn đi liền, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau. Phần lớn các bài ca dao Việt đều được cấu thành từ đơn vị là một cặp lục bát. Ca dao than thân, trách phận hay ca dao tình nghĩa, ca dao tình yêu hay ca dao trào phúng, phản kháng… đều được cấu trúc theo lối này. Ít có những bài ca dao được viết “dài hơi” theo kiểu Tát nước đầu đình, Trèo lên cây bưởi hái hoa… Như vậy, xét ở mức độ phổ biến, tiêu biểu; một bài ca dao Việt Nam (14 tiếng) còn nhỏ gọn hơn thể thơ vốn lâu nay được coi là ngắn nhất thế giới như haiku của Nhật Bản; càng kiệm lời hơn một thể thơ được coi là bức tranh khảm trai hàm súc của Trung Hoa như thể thất ngôn tứ tuyệt (28 tiếng). Do đó, có khi ca dao mới là thể loại/ thể thơ “nhỏ gọn” nhất thế giới. Rất khả dĩ nhưng đó không phải là vấn đề để bàn tới trong bài viết này.XX, xét theo chiều lịch đại, cũng giống như những người đã từng đi tới bao chân trời xa lắc nay quay trở về với “bến quê”. Kế thừa khả năng trữ tình của ca dao, lục bát hiện đại chất chứa cả một cuốn “bách khoa ngàn tâm trạng”, nhưng đó là những tình cảm mang đậm dáng nét tâm hồn Việt Nam; những tâm tình thuộc về hồn làng, hồn quê – thuộc về “hương đồng gió nội”. Đến với lục bát, các thi nhân như tìm lại được tất cả những gì nồng ấm nhất, thân quen nhất trong hữu thức lẫn vô thức của cá nhân mình. Qua 139 bài lục bát của tuyển tập thơ, các tác giả đã đi đến từng ngõ ngách tâm tư của đời sống hôm nay. Ở đây, chúng ta thấy quan hệ hai chiều của sự lựa chọn thẩm mĩ: thi nhân có nhu cầu bộc lộ những tình cảm gần gũi nhất trong nguồn mạch trữ tình dân tộc sẽ tìm đến thể thơ lục bát; và ngược lại, lục bát như một kí hiệu quyển tiềm tàng trong hữu thức lẫn vô thức của nhà thơ, để khi cần, lục bát cũng “đi tìm” để đến với nhà thơ. 2.2. Mở rộng dung lượng trước hết bắt nguồn từ đòi hỏi của nội dung. Nhưng người Nhật Bản vẫn bằng lòng với thể thơ chỉ có 17 tiếng, người Trung Hoa vẫn rất nghiêm ngặt về số từ, số câu với thể thơ 28 tiếng. Việc mở rộng biên độ về dung lượng của lục bát ca dao rõ ràng phát xuất từ nhu cầu trữ tình: chính nhu cầu trữ tình đã dẫn đến việc phá vỡ khuôn khổ dung lượng nhỏ gọn của ca dao. Thực tế lịch sử văn học Việt Nam cho thấy, lục bát là thể thơ đa năng: có thể sử dụng để tự sự, để trữ tình, để trào phúng, châm biếm, để giải trí, mua vui,… Trong thơ ca trung đại, chức năng tự sự của lục bát được phát huy khi mà sứ mệnh chủ yếu của hệ hình văn học này là chở đạo, minh đạo. Thế nhưng, đến thơ ca hiện đại, lục bát đã trở về với chức năng trữ tình cố hữu của lục bát ca dao. Khảo sát tuyển tập thơ nói trên, chúng tôi nhận thấy, các thi nhân sử dụng lục bát theo hai hướng chủ yếu là: tự sự và trữ tình. Song, xu hướng lục bát trữ tình “lấn át” tuyệt đối so với lục bát tự sự. Trong 139 bài thơ lục bát, chỉ có vài chục bài “ngả sang” hướng lục bát tự sự. Thế nhưng, ở đây ranh giới giữa tự sự và trữ tình là hết sức mong manh. Với những bài thơ nằm ở số ít trên, tự sự cũng chỉ là nền tảng, là bệ đỡ để đôi cánh trữ tình được bay bỗng, thăng hoa. Hơn thế, nếu “nhìn sang” các thể thơ khác sẽ thấy, trong cuốn tuyển tập những bài thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ Lục bát hiện đại vẫn bảo tồn những đặc tính của lục bát ca dao như tông nhịp chậm (tĩnh, âm tính), mềm mại, uyển chuyển,… Nhưng như đã thấy, lục bát hiện đại có xu hướng mở rộng về dung lượng khá lớn. Điều này do nhu cầu, đòi hỏi của việc biểu đạt nội dung. Nhiều bài lục bát không chỉ nhằm diễn tả một trạng thái, một cảm xúc mà là cả một dòng trạng thái, dòng cảm xúc; một số trường hợp, tác phẩm dung chứa nhiều trạng thái cảm xúc đan xen nhau. Đã là con người trong cõi đời thì ai cũng nằm trong vòng “ái, ố, hỷ, nộ…”, song, chính thể thơ mang tính thủ thỉ tâm tình như lục bát lại ưu trội hơn trong việc chuyển tải những thông điệp tình cảm của con người Việt Nam. Bên cạnh điều ấy, chúng ta cũng thấy nét riêng của lục bát hiện đại trong cách thức thực hiện chức năng trữ tình. Haiku của Nhật Bản, thất ngôn tứ tuyệt của Trung Hoa có dung lượng ngắn và cách lập ngôn khác biệt. Haiku không mô tả cảm xúc mà chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt, “luôn đón bắt những khoảnh khắc độc sáng để trong một hạt cát nhỏ xíu có thể bao hàm cả nhật nguyệt”. Do vậy, tác giả thường ít sử dụng tính từ và trạng từ. Haiku sáng tạo theo nguyên lý mùa và tính tương quan hình ảnh: một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương quan với một hình ảnh nhỏ (đời thường). Thất ngôn bát cú cũng dựa vào tương quan: động – tĩnh, sáng – tối, gần – xa,…; đồng thời chủ yếu dựa vào sức gợi của hình ảnh, hình tượng. Lục bát hiện đại không lập ngôn theo các tương quan trên mà hoặc trực tiếp giãi bày hoặc bằng các phương tiện nghệ thuật rất gần gũi trong văn hóa dân tộc: so sánh, ẩn dụ, lối nói luyến láy, đối đáp giao duyên,… Bằng cách trên, cách trữ tình của lục bát rất uyển chuyển, mềm mại, tinh tế, do vậy mà cũng rất dân tộc. Như vậy là, sự bảo tồn những mã văn hoá của lục bát hiện đại được bộc lộ qua cả hai phương diện: nội dung thể hiện lẫn cách thức thể hiện. Lê Quốc Hán trong Bài thơ thời gian mở đầu bằng lối so sánh: Thời gian như chuyến tốc hành/ Mang theo lá đỏ và anh trở về. Ngay sau đó, cảm xúc bàng hoàng xen lẫn niềm tiếc nuối lại được trao gửi bằng lối ẩn dụ và hoán dụ đầy gợi cảm: Tóc xanh vừa lỗi lời thề/ Thoắt thành mây trắng cuối hè bay ngang. Tinh tế hơn khi cái muộn màng đến lỡ làng cả một mối duyên tình lại được biểu đạt bằng: Ngu ngơ chạm phải ao làng/Sen chưa kịp hái đã tàn trên tay. Các hình ảnh ao làng, hoa sen tự nó đã chạm vào tình cảm dân tộc; Lê Quốc Hán qua các phép tu từ cũng rất dân tộc đã thổi hồn thơ khắc khoải của mình vào tứ thơ. Ở một bài thơ khác, chỉ từ một tiếng ếch kêu trong “Đêm làng” đã mở ra bao suy tư về: quá khứ và hiện tại, mơ và tỉnh, phận mình và phận người,… Ngọn đèn quán nước liêu xiêu 2.3. Việc trở về với thể thơ lục bát của các nhà thơ Việt Nam thế kỷ Mặt hồ rau muống cánh bèo nổi trôi Có gì da diết bồi hồi Tiếng hoang dã, tiếng đầy vơi, tiếng buồn. Chính việc sử dụng từ láy, âm hưởng, cách ngắt nhịp cũng đã thể hiện những giai điệu rất dân tộc cho bài thơ. Đêm mưa của Tô Hoàn lại là một trường hợp đặc biệt về dung lượng, bài thơ chỉ có ba cặp lục bát. Thế nhưng, chính Nguyễn Bùi Vợi cũng nhắc đến khả năng trữ tình của thi phẩm: “Bài thơ này ít câu ít chữ nhưng đầy ắp nỗi niềm, viết như không vì tâm trạng người viết có sự dồn nén tình cảm lớn” [7, tr289] Mưa rơi sợi thẳng sợi xiên Cứ nhằm vào mẹ những đêm trắng trời Con đi đánh giặc suốt đời Vẫn không che được một nơi mẹ nằm. Bài thơ sử dụng phép nhân hóa và lối nói sóng đôi rất khéo. Những hạt mưa lạnh lẽo, vô tư cứ tìm đúng chỗ mẹ nằm mà nhỏ xuống. Những làn mưa đêm trắng trời hay người mẹ bạc đầu lại phải thức trắng đêm vì mưa rét? Lục bát có thể ít hướng đến những cảm thức lớn lao mang tầm vũ trụ nhưng riêng cái sâu sắc, tinh tế trong tình đời, tình người thì được mở ra với những chiều kích vời vợi. Bài thơ kết thúc trong nỗi xót xa đau đáu. Một lần nữa phép chuyển nghĩa ẩn dụ đã chuyên chở thành công ý thơ này: Con đi đánh giặc suốt đời/ Vẫn không che được một nơi mẹ nằm. Tự hỏi rồi tự trả lời hay nói cách khác, chủ thể trữ tình tự phân đôi để một mình đối đáp, cũng là phương thức thường gặp trong lục bát. Bên cạnh lối tự vấn lòng mình là lối so sánh, ví von; cách điệp cú pháp, điệp ngữ nhằm tạo mối liên kết, câu nọ gọi câu kia bắc cầu cho cảm xúc nối tiếp tuôn trào: Mùa đông rụng lá ưu phiền Sang xuân biết có nỗi niềm nhớ mong? Biết là nỗi nhớ bằng không Tôi ra cửa biển ngồi trông cánh buồm Tôi rơi vào cuối ngọn nồm Em rơi vào cuối nỗi buồn của tôi Nỗi buồn như tấm gương soi Gặp em không gặp thì tôi gặp mình (Tôi ra cửa biển – Hải Kỳ) [8, tr. 386] Ở một đất nước mà chiến tranh đã gây ra bao nhiêu vết thương dai dẳng; lục bát có sở trường trong việc diễn tả những thổn thức của người ở lại: “Ra sông giặt áo cho chồng Vắt vai cả một dòng sông mang về” (Ra sông giặt áo cho chồng – Hồ Anh Tuấn) Cả những tình cảm vốn khó nói như chuyện “Chồng chị, chồng em”, Đoàn Thị Lam Luyến cũng tỏ bày được nhờ vào khả năng trữ tình của lục bát: “Gần được ấm, xa được êm Biết thì ruộng hóa cũng nên mùa màng … Chị thản nhiên mối tình đầu Thản nhiên em nhận bã trầu về têm…

Ấy là tôi nói ngày xưa Mẹ tôi tái giá – đò đưa theo dòng Không mưa cũng thể phập phồng Lừa tôi ngõ trước, mẹ vòng lối sau. Lời ca dao xưa và lời thổn thức bây giờ hô ứng liên hoàn làm một, hòa quyện đến mức khó mà phân tách được. Không biết mưa của ngày xưa hay mưa của hôm nay, chỉ biết một màn mưa mù mịt hòa vào cơn mưa nước mắt của mẹ vì phải “vòng lối sau” để tránh đi sự níu kéo khi nhìn thấy mặt con. Khổ thơ tiếp theo, nhân vật trữ tình trực tiếp thổ lộ sự tác động của những câu ca dao đến nỗi niềm của người hiện tại: Ấy là tôi nói ca dao Con chuồn chuồn ớt đậu vào đời tôi Bà đừng ru nữa bà ơi Vít thêm ngọn nắng mồng tơi giậu nhà Ở những bài thơ này, tâm tình của hôm qua và hôm nay đã tạo nên sự giao hòa, để từ giao điểm đó, chủ thể thữ tình mở ra những lối suy tư của riêng mình. Đặng Nguyệt Anh trong Lục bát tuổi năm mươi đã van nài con tạo “Cất giùm tôi tuổi năm mươi” đặng quay về với cái thời “lúng liếng đong đưa”: “Để tôi về sống lại thời ngày xưa”. Một lần quay về như thế, nhà thơ bắt gặp được biết bao lời dân ca: Dẫu rằng không hát trúc xinh Mà ai cứ đứng sân đình đợi ai Khoảnh khắc ngày xưa chỉ trở về trong hồi ức nên bài thơ kết thúc trong dư ba của sự tiếc nuối: Có còn lúng liếng đong đưa? Có còn cậu ấm. Ngày xưa có còn? Chính sự khép mở của những hình ảnh lục bát ca dao đã làm cho Lục bát ngày mưa của Phạm Ngọc Cảnh thêm mịt mù tâm trạng: Bếp nhà ai đốt nùn rơm Tàu lăn qua ngọn khói thơm quê nghèo Khói lan xanh cả ruộng bèo Con cò mở cánh dập dìu muốn bay. 2.4. Trong 139 bài lục bát, một điều thú vị là nhiều nhà thơ hiện đại lấy chính hình tượng lục bát làm nguồn cảm hứng, làm thi tứ cho tác phẩm của mình: Lục bát tuổi mười lăm – Đặng Nguyệt Anh, Lục bát ngày mưa – Phạm Ngọc Cảnh, Lục bát Tiên Điền – Yến Thanh, Nghe câu hát cũ – Phan Trọng Dật, Mưa – Nguyễn Ngọc Ly,… Đó là chưa kể đến các bài thơ được gợi hứng từ một điệu lý, từ một câu ca dao, một bài dân ca,… Có thể gọi những bài thơ này là “siêu lục bát”. Nơi những áng “siêu lục bát” trên, luôn có sự gặp gỡ, nối kết, tương liên giữa tâm hồn nhà thơ với lục bát truyền thống. Từ góc độ lý thuyết tiếp nhận, chúng ta nói đến mức độ tiếp nhận ký thác, tri âm. Từ góc độ liên văn bản, chúng ta nhìn thấy sự cộng hưởng hình tượng rất lớn. Bài Mưa của Nguyễn Ngọc Ly lấy hai câu ca dao rất nổi tiếng “Trời mưa bong bóng phập phồng/ Mẹ đi lấy chồng con ở với ai” làm đề từ để nối kết với tâm trạng của chủ thể trữ tình khi người mẹ một lần nữa sang đò: Lục bát hiện đại đi vào những cảm xúc tế vi nhưng không phải là không thể hiện được những suy tư rộng lớn vượt lên các dòng tâm trạng “nhỏ nhặt” đời thường. Khi cần, các thi nhân vẫn gói trong những vần thơ mềm mại, uyển chuyển kia bao triết lý về cõi siêu hình, về kiếp phù sinh. Đây là nét mới, là biến thể về nội dung của lục bát thế kỷ XX so với lục bát ca dao: Đưa tay dắt gió vào đêm Linh hồn ta ngỡ bỏ quên cuối trời Dấu chân xin cát chớ vùi Cho ta lại được luân hồi kiếp sau (Qua hoàng hôn – Mai Văn Phấn) Vẫn là dấu vết trong cõi miền tâm linh người Việt, thi sĩ Bùi Giáng dùng lục bát để gói ghém thành công bao tâm tình khác của cõi đời: Bỏ trăng gió lại cho đời Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa Bỏ người yêu, bỏ bóng ma Bỏ hình hài của tiên nga trên trời Bây giờ riêng đối diện tôi Còn hai con mắt, khóc người một con. (Mắt buồn) Mở rộng khảo sát ra ngoài tuyển tập thơ trên, chúng tôi nhận thấy: một số thi phẩm, bên cạnh việc “thừa hưởng” những mã thẩm mĩ của lục bát ca dao, nhà thơ có sự gia công thêm về hình thức thể thơ. Ở các thi phẩm này, “hồn cốt” lục bát được ẩn dưới một chiếc áo mới nhờ việc thay đổi cách ngắt dòng. Các biến thể theo hình thức trên chính là phương thức/ cách thế để lục bát trường tồn cùng trường diễn ngôn của thời đại: Tháng ngày chạng vạng cơn mê Oán ân chạng vạng Bốn bề đong đưa Đôi khi chạng vạng vần thơ Làm sao soi đến bến bờ tương lai Xin trăng sáng trọn đêm dài Vén Màng chạng vạng Phủ dày hồn tôi. (Chạng vạng – Nguyễn Văn Phương)XX vẫn chung thủy với việc dùng cách thức riêng của người Việt để thể hiện tình cảm riêng của người Việt. Điểm mạnh, điểm yếu đều lộc lộ ở điều này. Cùng với lục bát trong quá khứ, lục bát hiện đại đã tạo nên một giá trị của văn hóa Việt. Nếu thi nhân đương đại biết kết hợp chiều sâu tâm tình vốn là “gene trội” trong văn hóa dân tộc với tính hàm súc cao độ của những hình tượng đa nghĩa, mang tính triết lý, thì lục bát sẽ còn ghi dấu ấn đậm hơn nữa không chỉ đối với văn học dân tộc mà còn có thể lan tỏa đối với văn học nhân loại. Tài liệu than khảo: 1. Michel Gresset (1985), Intertextuality in Faulkner, Univ Pr of Mississippi. 2.5. Trong thơ ca hiện đại, lục bát ca dao vừa có sự biến đổi về mặt nội dung vừa có sự biến đổi về hình thức thể thơ. Chính trong những biến thể này, chúng ta càng thấy rõ sức sống, sức ảnh hưởng của lục bát dân tộc. Lục bát truyền thống lúc này sẽ trở thành kí hiệu quyển cho các thi nhân đương đại thi triển những ý tưởng sáng tạo của mình. 2. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Khoa học Xã hội, tr.118. 3. Nhiều tác giả (2014), Văn học và ngôn ngữ – những góc nhìn mới, Nhiều tác giả, Nxb Đại học Vinh, tr.103-118 4. Biện Thị Quỳnh Nga (2007), “Vị thế và đặc trưng thi pháp thể loại lục bát trong Thơ mới 1932-1945”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, Tập , Số 2B, tr. 29 – 36. 5. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 6. Phan Diễm Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Chu Văn Sơn (2004), “Về bản sắc dân tộc và một hướng tìm kiếm trong thơ”, Tạp chí Văn học, số 11, 2004, tr. 41. 8. Nguyễn Bùi Vợi (chủ biên) (2015), Thơ Việt Nam thế kỷ (Thơ trữ tình), NXB Giáo dục, Hà Nội. 9. http://m.nguoiduatin.vn/. 3. Vậy là, trải qua hàng ngàn năm, lục bát cũng “chìm nổi” theo những quy luật vận động riêng của văn học. Điều đáng mừng là, với nền thơ ca Việt Nam hiện đại, lục bát vẫn khẳng định được chỗ đứng của mình trong lòng dân tộc. Từ thời Thơ mới đến nay, lục bát có sự gia tăng về số lượng, nghĩa là ngày càng có nhiều nhà thơ “duyên nợ” với lục bát. Ca dao – dân ca vốn đi từ trái tim lên miệng. Lục bát đã thừa hưởng toàn bộ gia sản này của ca dao để từ đó bộc lộ tâm tình của nhà thơ trước cuộc sống hôm nay. Nhu cầu bộc lộ càng lớn và những điều kiện đi kèm càng thuận lợi thì lục bát càng có xu hướng nới rộng về dung lượng. Mở rộng dung lượng cũng xuất phát từ chính nhu cầu trữ tình, nhu cầu biểu đạt những tình cảm trong hằng số văn hóa dân tộc. Điểm chung đó đã dẫn đến sự gặp nhau, sự đồng vọng giữa lục bát hiện đại và lục bát dân gian. Lục bát hiện đại trở về với nguồn cội là một thể thơ dùng để tâm tình. Các thi nhân sáng tác bằng lục bát cũng sử dụng tương quan nhưng lại là một chiều tương quan khác: tương quan của lối đối đáp giao duyên; lối so sánh ví von; lối ẩn dụ, hoán dụ,… để tạo nên cái tinh tế, cái mềm mại, cái ngọt ngào trong cách trữ tình. Tâm tình thì thời nào, nền văn học nào cũng có nhu cầu thổ lộ. Nhưng lục bát hiện đại có thiên hướng rõ trong việc lưu giữ những kí ức thuộc tâm tình dân tộc, đồng thời viết tiếp những dòng ký ức mới để tết dệt nên một nét đẹp giàu bản sắc của văn chương Việt. Các thi nhân của nền thơ ca thế kỷ NXB XXXVI XX

Thuyết Minh Thể Thơ Lục Bát Của Dân Tộc

Thuyết minh thể thơ lục bát của dân tộc

Nếu chọn loài cây Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn phải là cây tre. Nếu chọn loài hoa Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là hoa sen. Nếu chọn trang phục Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là chiếc áo dài. Nếu chọn nhạc khí Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là cây đàn bầu… Cũng như thế, nếu chọn trong nền thơ ca phong phú của ta một thể thơ làm đại diện dự cuộc giao lưu thơ toàn cầu, hẳn đó phải là thơ lục bát – một thể thơ cách luật cổ điển thuần túy Việt Nam.

Nguồn gốc ra đời của thể thơ lục bát:

Thơ lục bát vốn rất phổ biến trong ca dao dân ca và lời ăn tiếng nói của dân tộc. Bởi thê mà, nhiều người nhầm lẫn thể thơ này có từ lâu đời. Thực tế, thể thơ lục bát có thể xuất hiện vào khoảng trước thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII. Từ một loại hình nghệ thuật dân gian, lục bát trở thành một kiểu loại của văn học viết và bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các thế kỉ sau đó.

Có thể nói, người Việt sống trong “bầu thi quyển” lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao duyên, than thân trách phận, tranh đấu tuyên truyền chủ yếu bằng lục bát. Và dân ta hát ru các thế hệ, truyền nguồn sữa tinh thần của giông nòi cho lớp lớp cháu con cũng chủ yếu bằng lục bát. Bắt nguồn từ ca dao, dân ca, được phát triển qua các truyện thơ Nôm, các kịch bản ca kịch dân tộc và đạt đến sự hoàn thiện với thiên tài Nguyễn Du, thể thơ lục bát vẫn được tiếp tục phát huy qua thơ Tố Hữu, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nó trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dễ làm, thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.

Đặc điểm cấu tạo thể thơ lục bát:

Một bài lục bất phải bao gồm từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn. Chính đặc điểm này có thể xem lục bát là mọt thể loại đoản thiên hay trường thiên đều được.

Thông thường thì bắt đầu bằng câu sáu chữ và chấm dứt ở câu tám. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay diễn đạt sự đột ngột. Thơ lục bát cũng cần tuân thủ luật về thanh và vần. Vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.

Đơn vị cơ bản của thể thơ này là một tổ hợp gồm hai câu sáu tiếng và tám tiếng. Số câu không hạn định, về gieo vần, chủ yếu là vần bằng, cứ mỗi cặp hai câu mới đổi vần. Tiếng cuối câu sáu vần với tiếng thứ sáu câu tám, rồi tiếng cuối câu tám lại vần với tiếng cuối câu sáu sau. Như thế ngoài vần chân có cả ở hai câu sáu và tám, lại có cả vần lưng trong câu tám:

Luật thanh trong thơ lục bát; Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:

Về phối thanh, chỉ bắt buộc các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng. Nhưng trong câu tám, hai tiếng thứ sáu và thứ tám phải khác dấu. Nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu, hoặc ngược lại:

“Cỏ non xanh tận chân trờiCành lê trắng điểm một vài bông hoa”(Truyện Kiều)

Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của cậu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát:

(Truyện Kiều)

Ngoài vần chân có cả ở hai câu 6, 8 lại có cả vần lưng trong câu tám. Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại:

“Người lên ngựa, kẻ chia bàoRừng phong thu đã nhuốm màu quan san”

(Chinh phụ ngâm khúc)

Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 hoặc để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau…

“Một mình một ngọn đèn khuyaÁo đầm giọt tủi tóc se mái đầu”

(Chinh phụ ngâm khúc)

Khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…

“Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.Phân sao phận bạc như vôi?Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

(Truyện Kiều)

Ngoài ra, còn có thể loại lục bát biến thể. Luật thơ vẫn tuân thủ luật thơ lục bát nhưng số chữ hoặc cách gieo vần có thể thay đổi. Kiểu biến thể vốn phổ biến trong ca dao:

“Thương nhau ba bốn núi cũng trèoNăm sáu sông cũng lội, bảy tám đèo cũng qua”

(Ca dao)

Vai trò thể thơ lục bát trong đời sống dân tộc:

Thơ lục bát diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu… do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vẫn là thể lục bát vì nó có khả năng diễn đạt tất thảy những cung bậc cảm xúc như: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất đai, yêu lao động, yêu thiên nhiên… Bởi thé có thể coi, lục bát là tiếng nói. là lời ca, lời than vãn,… của người bình dân trong lao động và đời sống hàng ngày.

Những truyện thơ vĩ đại nhất của Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng hình thức thơ Lục bát. Bởi cái chất duyên dáng, kín đáo, không ồn ào của lối nghĩ phương Đông, lục bát đã giữ cho mình luôn có cái vẻ nền nã. Ngày nay thể lục bát vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, tuy đời sống thi ca có phần đi xuống nhưng sự ưa chuộng của người Việt đối với thể thơ lục bát vẫn còn rất sâu đậm. Không những nó là một thể thơ có khả năng thể hiện cái hồn tính của dân tộc mà còn là một loại hình nghệ thuật độc đáo và tài hoa bậc nhất thế giới. So với một vài thể loại thơ của các quốc gia khác, ta hoàn toàn có đủ căn cứ để khẳng định mạnh mẽ điều đó.

Thơ Lục Bát Là Gì, Cách Gieo Vần Thơ Lục Bát

Trong chương trình Ngữ Văn lớp 12 có đề cập đến luật thơ, sự hình thành luật thơ và một số thể thơ tiêu biểu. Trong đó có thể thơ lục bát. Vậy thể thơ lục bát là gì, cách gieo vần thế nào và cách làm một bài thơ lục bát ra sao? Tất cả sẽ được giải đáp trong bài viết chúng tôi cung cấp bên dưới.

Thơ lục bát là thể loại thơ nằm trong thể loại thơ dân tộc của Việt Nam.

Thơ lục bát là thể loại thơ dân gian gồm các cặp câu thơ kết thành một bài. Thường thì câu đầu là 6 chữ, câu sau là 8 chữ, cứ nối tiếp cho tới hết bài.

Thơ lục bát có nguồn gốc từ rất lâu. Cho tới ngày nay nó vẫn được kế thừa và phát huy, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong nguồn văn học dân gian của dân tộc. Ở Việt Nam, thơ lục bát tồn tại dưới nhiều hình thức. Chúng ta thường được nghe những bài ca dao, dân ca, những bài đồng dao thấm đượm tình cảm và nồng nàn hồn quê con người. Thơ lục bát vì vậy mà trở thành thể loại đặc trưng trong những sáng tác của người dân quê.

Người dân lao động làm việc vất vả, để quên đi mệt nhọc họ trở thành những nhà sáng tác thơ. Thể thơ trong các sáng tác của họ thường là lục bát. Vì vậy nó chân chất, giản dị, diễn tả đúng tâm trạng và các cung bậc cảm xúc trong tâm hồn người dân lao động. Thể loại thơ của dân tộc này còn có nguồn gốc từ những câu ru hời của bà, của mẹ nồng nàn tình cảm thương yêu; những bài đồng dao đi vào lòng người.

– Số tiếng trong bài thơ lục bát: mỗi cặp lục bát gồm có 2 dòng (lục: 6; bát: 8). Bài thơ lục bát là sự kế tiếp của các cặp như thế. Số câu trong bài không giới hạn.

– Nhịp: nhịp chẵn dựa vào tiếng có thanh không đổi (trừ 2,4,6), nhịp 2/2/2 tạo sự hài hòa, nhịp nhàng cho các cặp lục bát trong bài.

– Hài thanh:

+ Có sự đối xứng luân phiên B – T – B ở các tiếng 2,4,6 trong dòng thơ, đối lập âm vực trầm bổng ở tiếng thứ 6 và thứ 8 dòng bát.

Ví dụ:

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Trong cặp lục bát trên có sự đối xứng nhau trong các thanh ở các tiếng 2,4,6. Câu lục là B – T – B “năm – cõi – ta”; câu bát là B – T – B – B “tài – mệnh – là – nhau”

+ Thơ lục bát có sự chặt chẽ về cách phối thanh: tiếng thứ 4 bắt buộc là trắc, các tiếng 2,6,8 phải là bằng. Trong đó trong câu bát tiếng thứ 6 và 8 cùng là bằng nhưng phải khác dấu, nghĩa là tiếng thứ 6 là dấu huyền thì tiếng thứ 8 phải không có dấu hoặc ngược lại.

Ví dụ:

(Trích Kiều thăm mộ Đạm Tiên – Nguyễn Du)

Các từ “qua – cuộc – dâu/ điều – thấy – đau – lòng” tuân thủ luật B – T – B

Ta thấy câu bát tiếng 6 và 8 đều là vần bằng nhưng có sự ngược nhau: tiếng 6 thanh bằng, tiếng 8 thanh huyền.

Cách gieo vần thơ lục bát

Thơ 6 – 8 cũng có quy định nghiêm ngặt về cách gieo vần: hiệp vần ở tiếng thứ 6 của 2 dòng và giữa tiếng thứ 8 của dòng bát với tiếng thứ 6 của dòng lục.

+ Vần bằng: là các vần có thanh huyền và thanh ngang (không dấu)

Ví dụ: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.

“Trang – da” là vần bằng các tiếng thứ 6 câu lục và tiếng thứ 8 câu bát.

+ Vần trắc: là các vần có các dấu còn lại: sắc, hỏi, nặng, ngã

Ví dụ: “Tò vò mà nuôi con nhện

Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi”

“Nhện – quện” là vần trắc.

+ Vần chân: hiệp vần ở tiếng thứ 6 câu lục và tiếng thứ 8 câu bát.

Ví dụ: “Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

“Quanh – ngang” là vần chân cuối các câu lục và bát.

+ Vần yêu: là vần ở cuối câu lục hiệp với tiếng thứ 6 câu lục.

Ví dụ: “Thanh minh trong tiết tháng Ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”

“Ba – là” gọi là vần yêu hiệp ở tiếng thứ 6 của 2 dòng.

Thơ lục bát là loại thơ đơn giản, dễ làm. Người làm thơ cần tuân thủ đúng luật thơ về hài thanh và cách gieo vần là đã hoàn thành một bài thơ lục bát. Câu đầu 6 tiếng, câu sau 8 tiếng tạo thành một cặp lục – bát.

+ Làm câu lục trước tuân thủ luật thơ ở các tiếng 2,4,6 là B – T -B, các tiếng còn lại tự do

+ Tiếp đến câu bát: cân chỉnh cho có sự đối xứng ở các tiếng 2,4,6 là B – T – B – B, các tiếng còn lại tự do

+ Cách gieo vần: sau khi hoàn chỉnh 2 câu thơ thì xem lại cách hiệp vần trong cặp câu. Để ý tiếng thứ 6 của 2 dòng xem đã hiệp vần chưa nếu chưa thì đổi lại đảm bảo cùng là vần bằng. Hoặc cách hiệp vần ở cuối mỗi câu.

+ Đọc lại hai câu thơ đảm bảo nhịp 2/2/2 hoặc 3/3 cho cân đối và nhịp nhàng.

+ Nếu thấy chưa hài hòa về mặt từ ngữ lúc này mới tìm các từ tương ứng có thể thay thế được để câu thơ được tự nhiên, tránh gò ép về cách hiệp vần.

Thể song thất lục bát (gián thể, song thất)

– Số tiếng: cặp song thất và cặp lục bát luân phiên kế tiếp nhau trong toàn bài.

– Vần: hiệp vần ở mỗi cặp, cặp song thất có vần trắc, cặp lục bát có vần bằng. Giữa cặp song thất và cặp lục bát có vần liền.

– Nhịp: 3/4 ở hai câu thất và 2/2/2 ở cặp lục bát.

– Hài thanh: Cặp song thất lấy tiếng thứ ba làm chuẩn, có thể có thanh bằng hoặc trắc nhưng không bắt buộc; cặp lục bát sự đối xứng B – T chặt chẽ hơn.

Các thể ngũ ngôn đường luật

– Gồm: ngũ ngôn tứ tuyệt (5 tiếng, 4 dòng) và ngũ ngôn bát cú (5 tiếng, 8 dòng)

– Bố cục: 4 phần đề, thực, luận, kết

– Số tiếng: 5 tiếng, số dòng: 8 dòng (4 dòng)

– Vần: 1 vần, gieo vần cách

– Nhịp lẻ: 2/3

– Hài thanh: có sự luân phiên B – T hoặc niêm B – B, T – T ở tiếng thứ hai và thứ tư

Các thể thất ngôn đường luật

Gồm:

Thất ngôn tứ tuyệt

– Số tiếng: 7 tiếng, số dòng: 4 dòng

– Vần: vần chân, độc vận, gieo vần cách

– Nhịp: 4/3

Thất ngôn bát cú

– Số tiếng: 7 tiếng, số dòng: 8 dòng ( chia 4 phần: đề, thực, luận, kết)

– Vần: vần chân, độc vận

– Nhịp: 4/3

Luật Thơ Lục Bát Và Song Thất Lục Bát

Nhân có anh Bạn nêu ý kiến: Thơ Lục Bát không hề có gieo vần Trắc. Đó chỉ là Lục Bát biến thể mà thôi.

Để trả lời ý kiến trên, cũng như tìm hiểu rõ hơn về thơ Lục Bát, tôi xin bổ sung thêm cho bài viết về Luật thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát của mình trước đây :

Thơ Lục Bát Vần Trắc không phải là Lục Bát Biến Thể, mà là Thơ Lục Bát Chính Thể.

Các nhà Nghiên Cứu đã xác nhận thơ Lục Bát có gieo Vần Trắc. Điển hình là Giáo Sư Dương Quảng Hàm, khi dẫn chứng Thơ Lục Bát Chính Thể, Ông đã lấy một bài Ca Dao gieo Vần Trắc để thí dụ (trang 12 quyển Việt Nam Văn Học Sử Yếu).

Trước hết, chúng ta phải xác định Thơ Lục Bát là thể thơ gì? Nói cách khác là Định Nghĩa Thơ Lục Bát.

Thể thơ Lục Bát là một dạng Thơ trong Ca dao. Số câu trong bài thơ chỉ có câu 6 chữ và câu 8 chữ nối tiếp nhau. Được gieo vần Bằng hoặc Trắc. Cách gieo Vần của thơ Lục Bát cũng khác hẳn các loại thơ khác, sử dụng cách gieo vần Cuối Câu và Giữa Câu. Các Vần được gieo vào vị trí các chữ thứ 4; thứ 6 và thứ 8 trong câu.( điều này thể hiện rất rõ trong Quyển “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” của Dương Quảng Hàm nơi trang: 12-14).

– Gieo vần ở chữ thứ 4 trong câu:

…Thùng thùng trống đánh ngũ liên,

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa…

…Ước gì anh lấy được nàng

Thì anh mua gạch bát tràng về xây

Xây dọc rồi lại xây ngang

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

Là thơ Lục Bát không còn thuần tuý là các câu 6 ; 8, mà có thêm nhiều từ vào thành những câu có số chữ là 7; 9 hoặc nhiều hơn nữa.

…Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu

Cầu tre vững nhịp hơn cầu thượng gia.

Bắc thang lên thử hỏi trăng già

Phải rằng phận gái hạt mưa sa giữa trời…

…Thành Hà-nội năm cửa chàng ơi

Sông Lục-đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.

Nước sông Thương bên đục bên trong

Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh…

3- Thể Thơ Song Thất Lục Bát:

Đây là dạng biến thể từ thơ Lục Bát Vần Trắc.

Dạng này cũng thường nên không nêu thí dụ.

– Song Thất Lục Bát Biến Thể

Không còn giữ nguyên 2 câu 7, một câu 6 và một câu 8

…Sao trời trên sao Hôm sao Mai hai cái

Nhái ngoài ruộng nhái đực nhái cái hai con…

Thơ Lục Bát do giới Bình Dân sáng tạo, chính vì thế nên thể thơ này rất đa dạng và phong phú.

Cập nhật thông tin chi tiết về Sức Sống Của Thể Thơ Lục Bát Trong Thơ Ca Việt Nam Hiện Đại trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!