Xu Hướng 6/2023 # Tại Sao Bác Sĩ “Chê” Chức Bị Buộc Thôi Việc? # Top 10 View | Bac.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Tại Sao Bác Sĩ “Chê” Chức Bị Buộc Thôi Việc? # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Tại Sao Bác Sĩ “Chê” Chức Bị Buộc Thôi Việc? được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Ngày 15-11, bác sĩ Phan Vũ Nhân – giám đốc Sở Y tế tỉnh Phú Yên – cho biết vừa ký ban hành quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với chúng tôi Nguyễn Thị Băng Sâm (35 tuổi), trưởng khoa mắt Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên.

Lý do là BS Sâm không chấp hành sự phân công công tác của lãnh đạo Sở Y tế, tự ý nghỉ việc từ ngày 17-8 đến ngày 4-11-2015 khi chưa được sự đồng ý của Bệnh viện Đa khoa tỉnh và Sở Y tế tỉnh Phú Yên.

Bà Sâm nguyên là phó khoa chống nhiễm khuẩn Bệnh viện Mắt Phú Yên. Ngày 30-7-2015, giám đốc Sở Y tế Phú Yên có quyết định điều động BS Sâm đến nhận công tác và giữ chức vụ trưởng khoa mắt Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên từ ngày 17-8-2015.

Bà Sâm trình bày nguyện vọng muốn ở lại đơn vị cũ công tác, tự nhận mình chưa đủ năng lực trình độ để nhận chức vụ cao hơn ở đơn vị mới nên hai lần gửi đơn xin từ chối quyết định bổ nhiệm và không đồng ý đến công tác tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên.

Tuy nhiên, Sở Y tế tỉnh Phú Yên trả lời, yêu cầu bà phải chấp hành nghiêm quyết định điều động. Ngày 22-9, bà Sâm gửi đơn xin thôi việc đến Sở Y tế nhưng sở không đồng ý “do yêu cầu công tác và chưa bố trí được người thay thế”.

Ngày 4-11, Sở Y tế tỉnh Phú Yên họp hội đồng kỷ luật và ngày 5-11, giám đốc sở ban hành quyết định buộc thôi việc đối với BS Sâm.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, BS Sâm cho biết: “Ngay từ đầu tôi đã không đồng ý việc điều động để nhận công tác ở đơn vị mới và nhiều lần bày tỏ nguyện vọng của mình. Khi tôi có đơn xin từ chối điều động và bổ nhiệm là sẵn sàng chấp nhận bị kỷ luật đến mức cảnh cáo theo luật định, nhưng Sở Y tế không kỷ luật mà cứ ép tôi phải nhận nhiệm vụ mới.

Tôi làm đơn xin thôi việc và mong được sở giải quyết ngay, nhưng sở không làm mà kéo dài thời gian để có cớ cho rằng tôi tự ý nghỉ việc vượt quá thời gian quy định để kỷ luật buộc thôi việc tôi”.

Giải thích kỹ hơn lý do từ chối nhận chức vụ cao hơn, bà Sâm nói rằng bà thích làm chuyên môn, không có nguyện vọng cũng như tự thấy không có năng lực làm công tác quản lý.

Tuy nhiên, BS Phan Vũ Nhân nói: “Trước khi ra quyết định một tháng, thường vụ Đảng ủy Sở Y tế đã chỉ đạo Đảng ủy, ban giám đốc Bệnh viện Mắt tỉnh Phú Yên trao đổi, động viên BS Sâm nhận nhiệm vụ mới. Trường hợp BS Sâm, sau khi bà có đơn từ chối điều động, Sở Y tế cũng có một lần làm việc với BS Sâm để động viên, giải thích rồi”.

Ông Nhân nói bà Sâm tự ý nghỉ việc trước, sau đó mới làm đơn xin thôi việc gửi đến sở là không đúng.

“Cán bộ có làm đơn xin không chấp hành lệnh điều động hay đơn xin thôi việc, nhưng khi cấp trên chưa đồng ý thì vẫn cứ phải đi làm rồi giải quyết tiếp, chứ không thể vô kỷ luật như vậy được. Tỉnh Phú Yên dù có thiếu bác sĩ nhưng không thể chấp nhận những bác sĩ coi thường tổ chức cấp trên được” – ông Nhân khẳng định.

Còn BS Huỳnh Phúc Nhĩ – giám đốc Bệnh viện Mắt Phú Yên – cho hay: “Quan điểm tôi là không đồng ý cho BS Sâm đi, bởi vậy nên tôi không làm công tác tư tưởng được. Bệnh viện chúng tôi thiếu bác sĩ trầm trọng, trong khi BS Sâm chúng tôi đào tạo 7 – 8 năm trời nay mới làm việc được thì chuyển đi, rất khó nói.

Tôi không có vận động gì hết, tôi chỉ nói với Sâm là quyết định của sở điều em đi, em không đi là bị kỷ luật. Tôi nghĩ BS Sâm không chấp hành lệnh điều động vì nhiều lý do, trong đó môi trường làm việc cũng là một lý do”.

Còn một lãnh đạo Sở Nội vụ tỉnh Phú Yên cho hay đã nghe thông tin vụ việc và sắp tới sở sẽ có văn bản đề nghị Sở Y tế Phú Yên báo cáo vụ việc.

“Nguyên tắc trước khi điều động cán bộ thì lãnh đạo sở hoặc bộ phận tổ chức của sở đó phải đến làm việc với lãnh đạo, tổ chức nơi có cán bộ phải điều động đi và cả cá nhân người được điều động nữa. Trường hợp người được điều động còn có tâm tư, bày tỏ nguyện vọng này khác thì phải động viên, đả thông tư tưởng để tạo sự đồng thuận, để khi ban hành quyết định thì mới có tính khả thi cao” – vị này nói.

Tại Sao Bác Sĩ “Chê Chức” Bị Buộc Thôi Việc???

TẠI SAO BÁC SĨ “CHÊ” ChỨC bị buộc thôi việc???

TT – Được điều động giữ chức vụ trưởng khoa mắt Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên, BS Sâm tự nhận mình chưa đủ năng lực để nhận, sau đó Sở Y tế tỉnh ban hành quyết định buộc thôi việc đối với BS Sâm.Ngày 15-11, bác sĩ Phan Vũ Nhân – giám đốc Sở Y tế tỉnh Phú Yên – cho biết vừa ký ban hành quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với chúng tôi Nguyễn Thị Băng Sâm (35 tuổi), trưởng khoa mắt Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên. Lý do là BS Sâm không chấp hành sự phân công công tác của lãnh đạo Sở Y tế, tự ý nghỉ việc từ ngày 17-8 đến ngày 4-11-2015 khi chưa được sự đồng ý của Bệnh viện Đa khoa tỉnh và Sở Y tế tỉnh Phú Yên.Bà Sâm nguyên là phó khoa chống nhiễm khuẩn Bệnh viện Mắt Phú Yên. Ngày 30-7-2015, giám đốc Sở Y tế Phú Yên có quyết định điều động BS Sâm đến nhận công tác và giữ chức vụ trưởng khoa mắt Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên từ ngày 17-8-2015.Bà Sâm trình bày nguyện vọng muốn ở lại đơn vị cũ công tác, tự nhận mình chưa đủ năng lực trình độ để nhận chức vụ cao hơn ở đơn vị mới nên hai lần gửi đơn xin từ chối quyết định bổ nhiệm và không đồng ý đến công tác tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên.Tuy nhiên, Sở Y tế tỉnh Phú Yên trả lời, yêu cầu bà phải chấp hành nghiêm quyết định điều động. Ngày 22-9, bà Sâm gửi đơn xin thôi việc đến Sở Y tế nhưng sở không đồng ý “do yêu cầu công tác và chưa bố trí được người thay thế”.Ngày 4-11, Sở Y tế tỉnh Phú Yên họp hội đồng kỷ luật và ngày 5-11, giám đốc sở ban hành quyết định buộc thôi việc đối với BS Sâm.Trao đổi với Tuổi Trẻ, BS Sâm cho biết: “Ngay từ đầu tôi đã không đồng ý việc điều động để nhận công tác ở đơn vị mới và nhiều lần bày tỏ nguyện vọng của mình. Khi tôi có đơn xin từ chối điều động và bổ nhiệm là sẵn sàng chấp nhận bị kỷ luật đến mức cảnh cáo theo luật định, nhưng Sở Y tế không kỷ luật mà cứ ép tôi phải nhận nhiệm vụ mới.Tôi làm đơn xin thôi việc và mong được sở giải quyết ngay, nhưng sở không làm mà kéo dài thời gian để có cớ cho rằng tôi tự ý nghỉ việc vượt quá thời gian quy định để kỷ luật buộc thôi việc tôi”.Giải thích kỹ hơn lý do từ chối nhận chức vụ cao hơn, bà Sâm nói rằng bà thích làm chuyên môn, không có nguyện vọng cũng như tự thấy không có năng lực làm công tác quản lý.Tuy nhiên, BS Phan Vũ Nhân nói: “Trước khi ra quyết định một tháng, thường vụ Đảng ủy Sở Y tế đã chỉ đạo Đảng ủy, ban giám đốc Bệnh viện Mắt tỉnh Phú Yên trao đổi, động viên BS Sâm nhận nhiệm vụ mới. Trường hợp BS Sâm, sau khi bà có đơn từ chối điều động, Sở Y tế cũng có một lần làm việc với BS Sâm để động viên, giải thích rồi”.Ông Nhân nói bà Sâm tự ý nghỉ việc trước, sau đó mới làm đơn xin thôi việc gửi đến sở là không đúng.“Cán bộ có làm đơn xin không chấp hành lệnh điều động hay đơn xin thôi việc, nhưng khi cấp trên chưa đồng ý thì vẫn cứ phải đi làm rồi giải quyết tiếp, chứ không thể vô kỷ luật như vậy được. Tỉnh Phú Yên dù có thiếu bác sĩ nhưng không thể chấp nhận những bác sĩ coi thường tổ chức cấp trên được” – ông Nhân khẳng định.Còn BS Huỳnh Phúc Nhĩ – giám đốc Bệnh viện Mắt Phú Yên – cho hay: “Quan điểm tôi là không đồng ý cho BS Sâm đi, bởi vậy nên tôi không làm công tác tư tưởng được. Bệnh viện chúng tôi thiếu bác sĩ trầm trọng, trong khi BS Sâm chúng tôi đào tạo 7 – 8 năm trời nay mới làm việc được thì chuyển đi, rất khó nói.Tôi không có vận động gì hết, tôi chỉ nói với Sâm là quyết định của sở điều em đi, em không đi là bị kỷ luật. Tôi nghĩ BS Sâm không chấp hành lệnh điều động vì nhiều lý do, trong đó môi trường làm việc cũng là một lý do”.Còn một lãnh đạo Sở Nội vụ tỉnh Phú Yên cho hay đã nghe thông tin vụ việc và sắp tới sở sẽ có văn bản đề nghị Sở Y tế Phú Yên báo cáo vụ việc.“Nguyên tắc trước khi điều động cán bộ thì lãnh đạo sở hoặc bộ phận tổ chức của sở đó phải đến làm việc với lãnh đạo, tổ chức nơi có cán bộ phải điều động đi và cả cá nhân người được điều động nữa

Miền Ký Ức: Cuộc Đời Thăng Trầm Của Nữ Bác Sĩ Nữ Bác Sĩ Đầu Tiên Của Việt Nam

Cuộc đời thăng trầm của nữ bác sĩ nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam Henriette Bùi Quang Chiêu.

Bà Henriette Bùi Quang Chiêu, hình chụp năm 1931.

Bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu (1906-2012) là một nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam, một nhân vật đặc biệt, chứng nhân của cả một thế kỷ Việt Nam đầy biến động.

Bà sinh ngày 8 tháng 9 năm 1906, là thứ nữ trong một gia đình người Việt giàu có mang quốc tịch Pháp ở Nam Kỳ.

Cha của bà là Nghị viên Bùi Quang Chiêu, tốt nghiệp Kỹ Sư Canh Nông tại Pháp, một chính khách có tiếng ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Ông sáng lập đảng Lập Hiến, sở hữu tờ báo “La Tribune Indochinoise”. Mẹ bà là Vương Thị Y, người Việt gốc Hoa sinh tại Chợ Lớn, con của một vị đông y sĩ người Trung Hoa, là một thương gia rất giàu có nhờ vào việc mua bán nhà cửa đất đai tại vùng Phú Nhuận hồi cuối thế kỷ thứ 19. Chính nhờ tài sản do bà Vương Thị Y thu thập được mà tất cả những người con của bà được gởi sang du học tại nước Pháp đều do gia đình bà tự túc, và hai ông bà đã từ khước không nhận bất cứ một học bổng nào của chính quyền thuộc địa.

Tuy nguyên quán ở trong Nam, bà lại được sinh ra ở Hà Nội và lớn lên ở Sài Gòn. Thuở nhỏ, bà học Trường St Paul de Chartres (tức Trường Nhà Trắng) tại Sài Gòn. Ngay từ nhỏ, Henriette Bùi Quang Chiêu đã nổi tiếng là một cô học trò thông minh, sáng dạ.

Gia đình Bùi Quang Chiêu Ảnh gia đình chụp năm 1921 tại Phú Nhuận. Từ trái sang: Madeline, Henriette, ông Bùi Quang Chiêu, Louis, Camille và Helène.

Năm 1915, bà thi vượt cấp và đậu bằng Certificat sớm 2 năm. Sau đó, bà vào học trường Collège des Jeunes Filles, rồi học lên Lycée Marie Curie. Bà đỗ bằng Certificat d’Études với thứ hạng cao, rồi sau đó nằng nặc đòi thân phụ cho đi học ngành Y khoa ở Paris như người anh Louis Bùi Quang Chiêu của bà.

Ông Bùi Quang Chiêu đành phải nhượng bộ cho bà sang du học ở Agen, một thành phố ở miền nam nước Pháp, và đã phải thuê một vị giáo sư để đi cùng với cô con gái bé bỏng Henriette ra bến tàu Sài Gòn, để chăm lo việc sinh hoạt và học tập của bà. Bà xuất ngoại mùa Hè 1921, khi chưa tròn tuổi 15.

Bà học rất giỏi, ngoài tiếng Việt, tiếng Pháp và Trung Hoa, bà còn thông thạo nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Tây Ba Nha, Ý và cả những cổ ngữ như La Tinh và Hy Lạp.

Một năm sau đó, mẹ bà qua đời vì bệnh lao phổi. Có lẽ việc này đã tăng thêm nguyện vọng của bà theo ngành y. Việc học của bà bị gián đoạn một năm vì bệnh đau mắt (trachoma), tuy nhiên bà cũng tốt nghiệp bậc trung học tại Lycée d’Agen và Bordeau năm 1925, thuộc miền Tây Nam nước Pháp, và lấy bằng tú tài năm 1926 dưới sự giám hộ của giáo sư triết Madame Meyerson.

Từ niềm kính phục, trân trọng người anh của mình là Louis Bùi Quang Chiêu – một bác sĩ chuyên về bệnh Ho lao nổi tiếng tại Sài Gòn, và cũng vì người mẹ đã mất vì bệnh tật, năm 1927, bà vào học trường Đại Học Y khoa Paris. và trong thời gian này, bà được giới thiệu rồi trở thành thân thiết với nhà bác học Marie Curie và nhà sử học Charles Seignobos.

Bà Henriette Bùi Quang Chiêu, thời sinh viên y khoa tại Bordeaux, Pháp.

Ngoài một số người ngoại quốc, bà còn quen biết với nhiều nhân vật nam nữ người Việt Nam du học tại Pháp mà sau này sẽ đóng những vai trò rất quan trọng trên các lãnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa và giáo dục trong nước. Về phía nam giới, bà quen biết với Vua Bảo Đại đang theo học tại Pháp, ông Nguyễn Văn Xuân, sinh viên trường École Polytechnique, sau này là Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân, Thủ tướng Chính phủ Quốc Gia Việt Nam đầu tiên vào năm 1948, Thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn, sinh viên Polytechnique, sau này là Bộ Trưởng Giáo Dục trong Chính phủ Trần Trọng Kim, ông Ngô Đình Nhu, sinh viên École de Chartres, sau này là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, v.v…

Về phía nữ giới , bà là bạn của bà Hoàng Thị Nga, em gái của Giáo sư Hoàng Cơ Nghị, vị nữ tiến sĩ khoa học đầu tiên của Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bính, vợ của Thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn, vị nữ dược sĩ đầu tiên của Việt Nam, v.v…

Nguyễn Ngọc Bích, con trai Đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tương.( người chồng không cưới )

Trong những năm cuối cùng tại trường Y, bà đã chọn những ngành chuyên môn như: pathological anatomy, obstetrics, gynecology, podiatry và infant care. Cũng giống như các vị nữ bác sĩ thời đó, bà chuyên về việc chữa trị các bệnh đàn bà và trẻ em trong thời gian nội trú tại các bệnh viện la Charité, Beaujon, Cochin và Bichat tại Paris.

Năm 1932, bà tốt nghiệp đại học. Sau hai năm thực tập, bà là người phụ nữ Việt Nam lấy bằng bác sĩ y khoa đầu tiên ở Pháp.

Khi tốt nghiệp, bà dự định viết một luận án về đề tài “thụ tinh nhân tạo cho những người bị hiếm muộn”, tuy nhiên vào thời đó thì đề tài này quá mới mẻ và gây nhiều tranh cãi cho một người phụ nữ trẻ tuổi, do đó bà đã nghe lời khuyên của các vị giáo sư mà đổi sang một đề tài “truyền thống” hơn: “The Phebitis of Gestation”. Bài luận án của bà đã được Hội đồng giám khảo khen ngợi và tưởng thưởng huy chương vào năm 1934.

Bà nói: “Hồi đó, ngay cả ở Pháp, phụ nữ học ngành y cũng rất ít. Ra trường, cũng không ít nữ bác sĩ bỏ nghề vì phải lấy chồng, sinh con. Tôi cũng không thoát khỏi định kiến xem thường phụ nữ thời ấy. Vừa tốt nghiệp bác sĩ, tôi đã bị cha triệu về Việt Nam để gả chồng…”.

Năm 1935, Henriette Bùi Quang Chiêu quyết định trở về Việt Nam và sau khi về nước, bà đã nhận chức vụ Trưởng khoa Hộ sinh ở Bệnh viện Sài Gòn. Với khí khái độc lập, không ít lần Henriette Bùi Quang Chiêu đã bị gây khó dễ, cũng như thái độ bất thân thiện, kỳ thị của giới bác sĩ người Pháp.

Tại những buổi họp, các bác sĩ người Pháp chỉ nói chuyện với y bác sĩ người Pháp, trong khi những người Việt Nam thì phải đứng riêng một góc. Cùng là bác sĩ, nhưng vì là người Việt dù mang quốc tịch Pháp, bà chỉ được trả lương 100 đồng mỗi tháng, trong khi bác sĩ Pháp được trả 1.000 đồng. Henriette Bùi Quang Chiêu đã tỏ thái độ của mình trước sự phân biệt đối xử này. Bà nói rằng, người Việt và người Pháp hoàn toàn bình đẳng với nhau.

Khi Henriette Bùi Quang Chiêu được giao cho chức vụ trưởng khoa Hộ sinh thì Giám đốc bệnh viện là một người Pháp đã ra lệnh cho bà phải mặc váy đầm. Giám đốc người Pháp nói với Henriette Bùi Quang Chiêu rằng nếu bà mặc váy đầm thì bà mới có thể có được sự kính trọng và bình đẳng hơn trong mắt người Pháp. Giới bác sĩ Pháp thời ấy nói rằng, nếu bà mặc y phục Việt Nam, người ta sẽ lầm tưởng bà là một “bà mụ đỡ đẻ” hơn là một bác sĩ sản khoa.

Bác sĩ Henriette Bùi (1906 – 2012).

Trước yêu cầu và lời lẽ đầy khinh miệt này, Henriette Bùi Quang Chiêu đã đáp lại một cách đầy mạnh mẽ rằng bà sẽ chỉ ăn mặc như một người Việt Nam, để những đồng bào Việt kính trọng bà.

Trên thực tế, khi sống trên 15 năm tại Pháp, Henriette Bùi Quang Chiêu cũng đã mặc đầm quen. Tuy nhiên, từ hôm đó, sau thái độ của người Giám đốc bệnh viện, bà chỉ mặc trang phục Việt trong thời gian làm việc tại bệnh viện.

Rồi cả những bất công về tiền lương cho y bác sĩ Việt – y bác sĩ Pháp, thái độ phục vụ bệnh nhân người Việt – người Pháp đều được bà Henriette Bùi Quang Chiêu tích cực đấu tranh bằng nhiều hình thức khác nhau.

Bác sĩ Henriette Bùi cũng tỏ ra vô cùng bất mãn về thái độ khinh người và kỳ thị của người Pháp thực dân tại Việt Nam. Bà kể lại rằng, khi nghe chuyện có một bà bác sĩ người Pháp tên là Eùliche đã khinh bỉ chê “người A-na-mít dơ bẩn như heo”, và đánh đập, la mắng, chửi bới các nữ hộ sinh và y tá người Việt Nam. (Thực ra câu này bắt nguồn từ một câu nguyên văn trong tiếng Pháp: “Sale comme les Chinois” (Dơ bẩn như tụi Tàu). Bà đã đứng lên cực lực phản đối hành động đó. Thái độ của bà đã khiến cho một số người Pháp và cả báo chí của Pháp ở Sài Gòn, trong số đó có tờ báo L’Opinion, cũng lên tiếng chỉ trích bà.

Điều tệ hại nhất là người Pháp cũng kỳ thị đối với cả bệnh nhân nữa. Họ phân biệt hai loại bệnh nhân : bệnh nhân người Pháp thì được chữa trị tận tình trong những phòng ốc đầy đủ tiện nghi và với thuốc men tối đa, trong khi đó thì bệnh nhân người Việt Nam chỉ được chữa trị qua loa, trong những căn nhà nền đất bẩn thỉu, thiếu mọi thứ tiện nghi và nhiều khi những pharmacie (phòng phát thuốc) do người Pháp quản trị , chẳng hạn như tại bệnh viện Chợ Rẫy, họ lại từ chối không cấp thuốc cho bệnh nhân người Việt với lý do đã hết thuốc trong khi họ vẫn còn thuốc để cấp cho bệnh nhân người Pháp.

Sau khi trình bày quan điểm với Ban Giám đốc Bệnh viện không được, họ cố tình làm ngơ không chịu giải quyết, bà Henriette Bùi Quang Chiêu đã đệ yêu cầu của mình lên hẳn giới chức cao cấp nhất tại Nam Kỳ lúc bấy giờ là Thống đốc Pagès. Sau khi nghe lời phản đối hợp lý của bà, Pagès đã ra lệnh cho giới bác sĩ người Pháp phải xóa bỏ mọi sự phân biệt đối với bệnh nhân, cũng như là phải thay đổi cách đối xử với người Việt Nam.

Thậm chí, lúc bấy giờ, giới y khoa Pháp tại Đông Dương thường tỏ thái độ coi thường nền y học Việt Nam trước đó. Những lời chỉ trích này không những chỉ xuất hiện trên báo chí, mà ngay cả trong các phúc trình y khoa cũng như là một số luận án tốt nghiệp của các sinh viên y khoa người Pháp.

Bà Henriette Bùi Quang Chiêu đã thể hiện quan điểm đối lập của mình thông qua nhiều bài báo, trong đó nêu rõ những thành tựu mới trong nền Y học do người Pháp mang đến, song cũng đề cập một cách cụ thể vai trò quan trọng của y học dân tộc nước nhà.

Thái độ ngay thẳng, luôn đòi hỏi sự công bằng bình đẳng giữa những người Việt và người Pháp cũng như đấu tranh cho nền y học nước nhà của Henriette Bùi Quang Chiêu đã khiến không ít người Pháp, thậm chí là cả báo chí Pháp ở Sài Gòn lên tiếng chỉ trích bà.

Tuy nhiên, điều đó chưa bao giờ khiến Henriette Bùi Quang Chiêu lo sợ mà bị suy giảm tinh thần đấu tranh của mình.

Vào thời đó bà Henriette Bùi còn làm nhiều điều mà người Việt Nam coi như là chuyện “động trời” vì chưa có người đàn bà Việt Nam nào dám làm như vậy: bà dám đi giày cao gót y như các phụ nữ người Pháp -người Việt Nam gọi là các “bà đầm”- bà dám mặc áo tắm như đầm khi đi tắm piscine, dám chơi thể thao và dám lái xe hơi…Bà Henriette Bùi cho biết là hồi đó có nhiều người Việt Nam đã nói xấu bà về việc bà mặc đồ tắm, và họ đồn đại rằng bà đã “ở truồng” khi đi tắm.

Bà nói rằng cái gì bà làm cũng đều bị họ chỉ trích, vì vào thời đó một người phụ nữ Việt Nam như bà mà đã dám làm những việc mà ngay chính cả những người đàn ông Việt Nam cũng chưa dám làm, do đó mà bà đã tạo ra nhiều vụ xì-căng-đan.

Bà nói rằng bà không ngại gì chuyện đó, tuy nhiên có một việc mà bà phải bỏ dở vì sợ xì-căng-đan: đó là việc bà đi học lái máy bay. Bà cho biết rằng bà đã đi học lái máy bay vì nghĩ rằng trong thời chiến tranh mà một vị bác sĩ như bà biết lái phi cơ thì có thể đi đến được những nơi xa xôi hẻo lánh để chưã trị cho bệnh nhân. Tuy nhiên vì dư luận lúc đó chỉ trích việc một người đàn bà mà dám đi học lái máy bay, cho nên sau một thời gian thì bà đành phải bỏ học.

Vào năm 1993, bà nói rằng: -“Hồi đó, tôi là người tiền phong trên nhiều lãnh vực, cho nên nhiều người đã không ưa tôi, và do đó tôi làm cái gì họ cũng đều chê, và cho là sai trái cả”. Bà chỉ tiếc là đã bỏ cuộc trong việc học lái máy bay!

Cũng trong năm 1935, bà lập gia đình với luật sư Vương Quang Nhường, Tiến sĩ Luật khoa đầu tiên của người Việt, một đảng viên Đảng Lập hiến Đông Dương, luật sư nổi tiếng của Tòa Án Sài Gòn, cũng là người bạn thân của thân phụ bà. Ông sinh năm 1902 tại Yên Luông Đông, Gò Công, là cháu ruột của Thái hậu Từ Dụ.

Luật sư Vương Quang Nhường, người chồng đầu tiên. Sau khi li dị với bác sĩ Henriette, ông trở thành rể vua Thành Thái.

Vương Quang Nhường du học Pháp tại trường Luật và Kinh tế. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ Luật khoa, Vương Quang Nhường trở về nước với tư cách là tiến sĩ Luật khoa đầu tiên của nước ta.

Là người có học vấn cao, kiến thức rộng nên Vương Quang Nhường được các giới thượng lưu Việt, Pháp lúc bấy giờ kính nể. Vì thế, cuộc hôn nhân giữa Henriette Bùi Quang Chiêu và Vương Quang Nhường được đánh giá là cuộc hôn nhân “môn đăng hộ đối” bậc nhất thời bấy giờ.

Thế nhưng, chính bản thân bà Henriette Bùi Quang Chiêu lại là người phản đối cuộc hôn nhân tưởng chừng rất xứng tầm với bà như vậy. Henriette Bùi Quang Chiêu không muốn có một cuộc hôn nhân xếp đặt, dù là với một người trí thức lớn, tài năng đi chăng nữa.

Tuy nhiên, dưới sức ép và sự kiên quyết của cha, Henriette Bùi Quang Chiêu đã phải đồng ý với cuộc hôn nhân này. Đám cưới của Henriette Bùi Quang Chiêu và Vương Quang Nhường được tổ chức ngay trong năm 1935 và trở thành một trong những cuộc hôn nhân được chú ý nhất lúc bấy giờ.

Là một cuộc hôn nhân được đánh giá “cân xứng” của hai con người đều tài năng, song chỉ không đầy hai năm chung sống, cuộc hôn nhân của Henriette Bùi Quang Chiêu và Vương Quang Nhường đã tan vỡ.

Về sau, khi giải thích việc tan vỡ này, bà Henriette Bùi Quang Chiêu nói rằng: bởi sự khác biệt giữa hai người là quá lớn. Với Henriette Bùi Quang Chiêu, người chồng mà cha đã chọn cho bà quả thực là một người đàn ông rất tốt, rất có tài và cũng đã chăm sóc cho bà một cách tận tình. Nhưng, ông lại không phải là người có thể chia sẻ, cảm thông với công việc bận rộn, vất vả của một nữ bác sĩ như bà.

Bà thường xuyên phải vắng nhà để có thể tham gia vào việc khám chữa bệnh, kể cả trong những buổi trực đêm, trong khi ông thì không chấp nhận mãi như vậy, Ông chỉ muốn bà ở nhà, lo chuyện nội trợ.

Ông luật sư tuyên bố: – “Tôi là trạng sư, lương đủ cho bà ở nhà, đi chơi”.

Bà nói: – “Tôi thích làm, không thích chơi”.

Bất chấp sự phản đối của ông, bà vẫn đến nhà bảo sanh Từ Dũ hành nghề bác sĩ, chuyên khoa sản và nhi. Chính sự khác biệt giữa hai người khó lòng dung hòa, nên không đầy 2 năm sau, hai người ly hôn. Với bà, đó là mối hôn nhân không hạnh phúc, cho dù gia đình hai bên rất “môn đăng hộ đối”. Vụ li dị của Henriette Bùi Quang Chiêu với Vương Quang Nhường quả thực đã gây ra một “chấn động” lớn ở Sài Gòn nói riêng và Nam Kỳ nói chung lúc bấy giờ. Không ai có thể tưởng tượng được rằng một người phụ nữ trí thức, lại xuất thân trong gia đình của ông Bùi Quang Chiêu lại có thể đệ đơn xin li hôn. Vậy nên, người ta cứ bàn tán không ngớt về sự “liều lĩnh, cả gan” của Henriette Bùi Quang Chiêu vào thời điểm lúc đó.

Sau khi li hôn, bà Henriette Bùi Quang Chiêu với ông Vương Quang Nhường vẫn là những người bạn tốt của nhau.(Sau này, luật sư Nhường lấy con gái của vua Thành Thái).

Cũng từ đó, bà Henriette Bùi Quang Chiêu dốc mọi tâm sức vào việc nghiên cứu, khám chữa bệnh của mình.

Cuối năm 1945, một sự kiện bất hạnh ập đến gia đình bà. Cha bà là Bùi Quang Chiêu và 3 người anh em trai của bà bị lực lượng Việt Minh thủ tiêu tại chợ Đệm, với tội hợp tác với chính quyền Pháp thuộc địa,”làm tay sai cho thực dân Pháp”. Người bạn thân thiết của bà là Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, bấy giờ đang giữ chức Khu bộ phó Việt Minh, bị chính quyền Pháp bắt được và bị kết án tử hình. Nhờ sự vận động của bà và các bạn bè cũ tại Pháp, Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích thoát án, chuyển sang danh sách trao đổi tù binh, thay vì án tử hình, nhưng bị buộc phải rời khỏi Việt Nam và sang sống tại Pháp. Tại đây, ông trở lại trường Y khoa và thành tài trong mấy năm sau. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ mà trở thành giáo sư dạy môn Vật Lý tại trường Y Khoa.

Còn Henriette Bùi Quang Chiêu vẫn tiếp tục ở lại Việt Nam và làm công việc nghiên cứu Y khoa của mình.

Từ khi tốt nghiệp y khoa bác sĩ tại Pháp cho đến năm 1955, trong thời gian phục vụ tại các bệnh viện tại Sài Gòn, Bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu đã giữ những chức vụ như Trưởng Ban Ngoại Chẩn Nhi Khoa (Outpatient Department of Pediatrics,) Trưởng Ban Những Chứng Bệnh Truyền Nhiễm (Infectious Deseases Department,) Trưởng Ban Phụ Khoa và Hộ Sản v.v…

Vào thời đó, tuy chưa có thuốc mê và thuốc trụ sinh, nhưng Bác sĩ Henriette Bùi đã dùng kỹ thuật giải phẫu “Caesarien” (C-section) trong những trường hợp “đẻ khó”, và đã cứu được không biết bao nhiêu là sản phụ người Việt Nam thoát khỏi cảnh hiểm nghèo.

Năm 1957, bà Henriette Bùi Quang Chiêu sang Nhật Bản để nghiên cứu và theo học về Châm cứu. Bà đã học tại Nhật trong hai năm rồi trở về nước và phát triển hướng nghiên cứu của mình trong khoa Châm cứu.

Đến năm 1961, Henriette Bùi Quang Chiêu sang Pháp và mở ở đây một phòng mạch. Cũng tại Pháp, Henriette Bùi Quang Chiêu đã gặp lại ông Nguyễn Ngọc Bích. Mối thân tình mà hai người đã phát triển thành tình yêu.

Bà Henriette Bùi Quang Chiêu và ông Nguyễn Ngọc Bích về sống với nhau như vợ chồng. Rất không may là ông Nguyễn Ngọc Bích lại bị ung thư vòm họng.Thế nên, sau bốn năm chung sống trên đất Pháp, năm 1965, bà Henriette Bùi Quang Chiêu đã đưa ông Nguyễn Ngọc Bích trở về Việt Nam để ông có thể sống những ngày cuối đời trên quê hương.

Ngay trong năm đó, ông Trần Ngọc Bích mất. Cũng từ đó, khi còn lại một mình, bà Henriette Bùi Quang Chiêu đã không ngừng tích cực tham gia các hoạt động khám, cứu chữa thương bệnh binh trong chiến tranh chu đáo, không hề phân biệt bạn hay thù.

Vào năm 1970, bà tình nguyện vào phục vụ không lương trong ngành hộ sản và nhi khoa tại Bệnh viện Phú Thọ ở vùng ngoại ô thành phố Sài Gòn.

Mãi đến năm 1971, bà Henriette Bùi Quang Chiêu mới sang lại Pháp. Ở đây, bà tiếp tục khám chữa bệnh cho đến năm 1976, khi 71 tuổi bà mới nghỉ hưu, sau khi phục vụ trong ngành y khoa tại Việt Nam cũng như tại Pháp trong hơn 44 năm trời.

Năm 2011, đã 105 tuổi, bà vẫn còn khoẻ và minh mẫn.

Bà Henriette Bùi Quang Chiêu, ở tuổi 105. (Năm 2011).

Bà mất vào ngày 27/04/2012 tại Paris, thọ 106 tuổi. Theo tâm nguyện của bà, sau khi hỏa táng, tro cốt của bà được phân làm hai nơi: Dòng tộc họ Bùi ở Huyện Mỏ Cày Bắc lưu giữ một phần, phần còn lại được an táng kế bên mộ phần của chồng, tức kỹ sư bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích, trong khuôn viên Tòa Thánh Cao Đài tỉnh Bến Tre.

Biệt thự tư gia của bà, đồng thời là cơ sở bảo sanh đầu tiên do bác sĩ nữ Việt Nam đảm trách, ở số 28 đường Testard.

Một đóng góp đáng kể nữa của nữ bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu là việc hiến tặng biệt thự tư gia của bà, đồng thời là cơ sở bảo sanh đầu tiên do bác sĩ nữ Việt Nam đảm trách, ở số 28 đường Testard. Chính phủ bảo hộ cho xây cất một biệt thự trên khu đất chùa Khải Tường ở số 28 đường Testard (Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần) để cho các viên chức cao cấp sử dụng. Chủ nhân chót là Nghị viên kỹ sư Canh nông Bùi quang Chiêu. Con gái thứ của ông, bà Bác sĩ Henriette Bùi quang Chiêu, đã hiến tặng cho Chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa năm 1954 làm cơ sở cho Trường Đại học Y khoa Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn, nay là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh TPHCM.

Bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu, vị nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp tại Trường Đại học Y Khoa Paris vào năm 1934, đã đóng đúng vai trò tiền phong mở đường cho giới phụ nữ Việt Nam thời đó noi gương, và sau đó họ đã theo chân bà dấn bước vào con đường y học. Cho đến năm 1975 thì con số nữ bác sĩ y khoa tại miền Nam Việt Nam được xem như là chiếm tỷ lệ cao nhất tại các quốc gia Châu Á, dù rằng đất nước đang phải đương đầu với một cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt trong nhiều thập niên.

Bác Sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu, biểu tượng của phụ nữ Việt Nam, một nhân vật đặc biệt, chứng nhân của cả một thế kỷ Việt Nam đầy biến động.

S T

Gia Tăng Tình Trạng Bác Sĩ Bỏ Việc Sau Đào Tạo

Bài 1: “Lý do to hơn mục đích”

Hầu hết lý do trên những lá đơn xin thôi việc của các bác sĩ, cán bộ y tế là vì hoàn cảnh gia đình. Sau khi nộp đơn, dù được đồng ý hay không, họ đều không quay trở lại, kiên quyết “dứt áo ra đi”. Và ngay sau đó họ đã đầu quân cho các bệnh viện tư có thu nhập cao hơn gấp nhiều lần. Lý do chỉ là lý do và đơn xin thôi việc cũng chỉ là thủ tục chia tay cuối cùng. Còn lý do thực tế thì ai cũng ngầm hiểu.

Bỏ việc vì hoàn cảnh gia đình?

Trong đơn xin thôi việc của bác sĩ L.Q.S., Khoa Chẩn đoán hình ảnh (Bệnh viện Ða khoa tỉnh) ghi lý do: Vì hoàn cảnh gia đình, con thường xuyên ốm đau, mẹ mắc bệnh hiểm nghèo. Tờ đơn xin thôi việc của anh S. làm tất cả đồng nghiệp, nhất là anh em cùng khoa đều bất ngờ, ngỡ ngàng. Bởi nó xuất hiện trong buổi sáng ngày thứ 3 đi làm sau 2 năm được cử đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của anh S. Một bác sĩ trong khoa cho biết: Trước đó, ngày đầu tiên anh S. đi làm, vẫn tham gia buổi giao ban của khoa, các đồng nghiệp còn vỗ tay chúc mừng, chào đón anh tốt nghiệp trở về. Ngay sau khi nộp đơn, anh dọn đồ đi cũng không kịp nói lời chia tay bạn bè, đồng nghiệp đã cùng nhau gắn bó, san sẻ khó khăn nhiều năm.

Bác sĩ L.Q.S. được tuyển dụng công tác tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh từ tháng 9/2012. Ðến tháng 10/2017 được cơ quan cử đi học thạc sĩ chẩn đoán hình ảnh tại Trường Ðại học Y Hà Nội và tốt nghiệp vào tháng 10/2019. Ngay sau khi trở về, ngày 29/10, anh nộp đơn xin thôi việc. Mặc dù cơ quan chưa đồng ý nhưng anh đã tự ý nghỉ việc. Sau đó đồng nghiệp cơ quan biết được khi nghỉ việc, anh L.Q.S. đã đầu quân cho một bệnh viện tư ở Hà Nội với mức thu nhập cao hơn nhiều lần bệnh viện tỉnh. Ít lâu sau, vợ anh cũng xuống Thủ đô theo chồng.

Bác sĩ V.Ð.T., Khoa Phòng, chống bệnh không lây nhiễm (Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh) cũng xin thôi việc vì lý do gia đình, chăm sóc bố mẹ. Gia đình anh sinh sống ổn định đã nhiều năm tại TP. Ðiện Biên Phủ. Theo chia sẻ của đồng nghiệp, sau khi bỏ việc, anh T. xuống Hà Nội và hiện đang làm hợp đồng cho một cơ sở y tế tư nhân. Ðược biết, anh V.Ð.T. chuyển từ tỉnh Lai Châu về năm 2011 thì liên tục được tạo điều kiện đi học nâng cao trình độ: Tháng 8/2011 – 7/2015 học bác sĩ đa khoa Trường Ðại học Y dược Thái Nguyên; tháng 8/2015 – 7/2016 học bác sĩ định hướng chuyên khoa, chuyên ngành nhãn khoa tại Bệnh viện Mắt Trung ương; tháng 11/2017 – 10/2019 tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa I – mắt. Tuy nhiên sau nhiều năm đào tạo, thành nghề, anh T. xin thôi việc và đầu quân cho cơ sở khác.

Ông Lường Văn Kiên, Phó Giám đốc Sở Y tế cho biết: Hầu hết đơn xin thôi việc của các cán bộ y tế, bác sĩ sau khi đào tạo trở về đều chung lý do vì hoàn cảnh gia đình, hợp thức hóa gia đình, bố mẹ già yếu cần người chăm sóc. Các đơn vị rất chia sẻ với cán bộ, bác sĩ, tạo điều kiện cho họ vừa hoàn thành nhiệm vụ vừa có thời gian chăm sóc, vun vén cho gia đình, nhưng ngay sau khi đào tạo trở về liền xin thôi việc thì không đúng với quy định và cam kết của chính họ trước khi đi đào tạo nên không chấp thuận được.

Nộp đơn là dứt khoát ra đi

Hầu hết những cán bộ y tế, bác sĩ sau khi được cử đi đào tạo trở về nộp đơn xin thôi việc đều có định hướng khác hoặc đã xác định, ký hợp đồng “đầu quân” cho cơ sở khác. Vì vậy nộp đơn xin thôi việc chỉ là thủ tục mang tính hình thức còn cơ quan có đồng ý hay không cũng không ràng buộc, giữ chân được họ. Sau khi nộp đơn, các cán bộ y tế, bác sĩ này đều không trở lại, không tham gia giải quyết sự việc, nhận quyết định nghỉ việc… Bác sĩ L.H.B., Khoa Y học cổ truyền phục hồi chức năng (Bệnh viện Ða khoa khu vực TX. Mường Lay) cũng vậy. Tháng 10/2017 – 10/2019, anh B. được cử đi học bác sĩ chuyên khoa cấp I – y học cổ truyền. Ngày 10/10/2019, sau khi tốt nghiệp về, anh nộp đơn xin thôi việc, chưa được cơ quan đồng ý nhưng anh đã bỏ việc ngay. Bệnh viện thông báo anh B. trở lại cơ quan để giải quyết việc xin thôi việc lần 1 vào ngày 10/12/2019, lần 2 ngày 13/12/2019, lần 3 ngày 18/12/2019 nhưng anh đều không trở lại. Hội đồng xét kỷ luật của Bệnh viện Ða khoa khu vực TX. Mường Lay đã họp xét kỷ luật và đề nghị Hội đồng xét kỷ luật Sở Y tế xem xét, quyết định hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với anh L.H.B.

Bác sĩ chuyên khoa cấp I – gây mê hồi sức P.Q.V., Khoa Hồi sức cấp cứu – Gây mê phẫu thuật (Trung tâm Y tế huyện Mường Ảng) cũng 3 lần nhận thông báo của Trung tâm đến giải quyết việc xin thôi việc (các ngày 14/2/2020, 17/2/2020, 20/2/2020) nhưng không quay lại. Anh V. được cử đi học chuyên khoa I chuyên ngành gây mê hồi sức tại Trường Ðại học Y Hà Nội từ tháng 9/2017 – 9/2019, nộp đơn thôi việc vào 6/2/2020.

Tình trạng cán bộ, bác sĩ bỏ việc diễn ra ở nhiều tuyến, địa bàn trong tỉnh nhưng tập trung chủ yếu tại các trung tâm y tế tuyến tỉnh. Từ năm 2018 đến nay, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh có 4 cán bộ, bác sĩ bỏ việc sau khi được đào tạo. Bà Dương Thị Quỳnh Châu, Trưởng phòng Tổ chức – Hành chính cho biết: Khi tiếp nhận đơn xin thôi việc của các cán bộ, bác sĩ, các khoa, phòng báo cáo lên cấp trên, đồng thời chia sẻ, trò chuyện, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các đồng chí ấy. Các trường hợp của Trung tâm đều được khoa, phòng, công đoàn, lãnh đạo Trung tâm gặp gỡ, trao đổi, vận động nhưng khi họ nộp đơn là đã quyết định rồi, dù có tạo điều kiện thuận lợi thế nào cũng không giữ chân được.

Theo thống kê của Sở Y tế, những năm gần đây, tình trạng cán bộ y tế làm việc tại các đơn vị y tế công lập trên địa bàn tỉnh xin nghỉ việc có dấu hiệu gia tăng; phần đông trong đó là cán bộ được cử đi đào tạo bác sĩ liên thông từ y sĩ và bác sĩ đi học thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp I, II. Cụ thể năm 2018 có 6 bác sĩ xin thôi việc, năm 2019 tăng lên 12 trường hợp, hết tháng 10/2020 có 9 trường hợp. Trước đó năm 2015 tỉnh ta không có trường hợp nào tương tự, năm 2016 và 2017 mỗi năm có 1 bác sĩ bỏ việc. Việc gia tăng này có là nguy cơ đáng lo ngại và giải quyết các trường hợp trên, tình trạng trên như thế nào là những vấn đề mà ngành Y tế tỉnh đang phải đối mặt.

Bài 2: Chưa ảnh hưởng nhiều đến hoạt động y tế

Bệnh Viện Tự Chủ: Bác Sĩ Được Lợi, Bệnh Nhân Hài Lòng

Tại bệnh viện K, bệnh nhân đến bệnh viện luôn trong tình trạng thấp thỏm, lo lắng chờ đợi kết quả, những người bệnh đang điều trị ung thư thì mệt mỏi, đau đớn. Các nhân viên y tế được giao nhiệm vụ chỉ dẫn, đón tiếp bệnh nhân phải luôn niềm nở và nhiệt tình. Từ khi bệnh viện K tự chủ, công việc ấy lại càng được chú trọng hơn, nhằm giúp đỡ bệnh nhân giảm bớt cảm giác khó chịu ngay từ khi bước chân vào bệnh viện.

“Tôi bị ung thư vú, điều trị ở bệnh viện K đến năm nay là năm thứ 5. Tôi thấy bệnh viện có thay đổi nhiều. Mỗi lần đi khám lại, lấy thuốc điều trị, các cô nhân viên y tế hướng dẫn chúng tôi kỹ càng, không hiểu gì cứ hỏi, sắp xếp trong bệnh viện giúp bệnh nhân dễ tìm đường đi lối lại hơn. Nếu là những năm trước thì bệnh nhân phải tự thân vận động, có khi tôi hỏi các cô nhân viên là họ cáu gắt” – bệnh nhân P.T.L (57 tuổi, Sơn Tây – Hà Nội) chia sẻ.

Một bác sĩ công tác lâu năm tại bệnh viện K chia sẻ: Bệnh viện đã thay đổi toàn diện, từ phong cách thái độ phục vụ người bệnh đến dần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Thậm chí bệnh viện cho người tổ chức “đóng giả” người bệnh để phát hiện “tệ nạn”, rồi tìm cách xử lý, từ đó, các “tệ nạn” dần dần được bài trừ. Từ thời điểm năm 2016, tỉ lệ hài lòng người bệnh tại bệnh viện K chỉ ở khoảng 50%-60%. Nhưng đến năm 2019, theo khảo sát, tỉ lệ hài lòng của người bệnh đã tăng lên 95%.

Đáng chú ý, theo chia sẻ của một số y bác sĩ, từ khi bệnh viện K tự chủ, đời sống anh em được nâng lên, chế độ đãi ngộ cũng tốt hơn xưa. “Từ chỗ tiền lương tăng thêm năm 2016 trung bình là 2,5 triệu/tháng thì đến năm 2019 đã tăng lên 12 triệu. Đây là mức tăng cao rõ rệt. Anh em cán bộ nhân viên y tế chúng tôi rất phấn khởi và đồng lòng với nhau, cùng nhau cố gắng” – một bác sĩ của bệnh viện K chia sẻ với phóng viên Lao Động.

Theo lãnh đạo bệnh viện K, bệnh viện đã thực hiện tự đảm bảo toàn bộ kinh phí chi thường xuyên từ năm 2017 nên có chính sách đầu tư cho nhân lực, vật lực, chăm lo đời sống cán bộ, nhân viên. “Tại Bệnh viện K Trung ương, đời sống cán bộ công nhân viên của BV đã thay đổi rất nhiều từ sau khi tự chủ tài chính. Hiện tại, đời sống cán bộ nhân viên trong bệnh viện đã được đảm bảo, năm sau tăng cao hơn năm trước” – lãnh đạo bệnh viện K khẳng định.

Ngoài ra, bệnh viện cũng có những chính sách chăm lo sức khỏe cho cán bộ nhân viên y tế tốt nhất như khám sức khỏe định kỳ, được hỗ trợ chi phí khám bệnh, điều trị cho cả cán bộ nhân viên và người nhà cán bộ nhân viên khi điều trị tại bệnh viện.

Về tiền lương, bệnh viện được xác định quỹ tiền lương theo doanh thu hoặc quỹ lương khoán trong chi phí hợp lệ để tính thuế thu nhập và được quyết định chi trả tiền lương, thu nhập tăng thêm theo kết quả hoạt động. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương, bệnh viện tự đảm bảo tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị.

Giá dịch vụ y tế có tăng?

Trước những lo ngại về việc được tự chủ hoàn toàn có thể khiến cho các bệnh viện trở thành những “lãnh địa riêng”, không trực thuộc sự quản lý, dẫn đến những thiệt thòi cho người bệnh, giá dịch vụ y tế có thể thay đổi theo quyết định của bệnh viện, trao đổi với PV Lao Động về vấn đề này, đại diện bệnh viện K khẳng định về giá dịch vụ khám chữa bệnh, Nghị quyết số 33 của Chính phủ về thí điểm tự chủ của 04 Bệnh viện thuộc Bộ Y tế đã quy định rất rõ, đối với giá dịch vụ KCB BHYT, Bệnh viện áp dụng nguyên theo giá do BYT ban hành. Còn đối với giá dịch vụ theo yêu cầu: Bệnh viện được quyết định mức giá nhưng phải nằm trong phạm vi khung giá do Bộ Y tế ban hành và thực hiện kê khai giá, niêm yết giá công khai theo quy định của pháp luật.

Tại Bệnh viện K, theo phản ánh của người bệnh, có một số dịch vụ có giá khá cao, cao hơn so với mặt bằng chung. Đơn cử như gói Khám ung thư vú, bao gồm Khám lâm sàng tổng quát, khám lâm sàng vú, Xét nghiệm chỉ điểm CA 15-3 phát hiện sớm ung thư vú, Chụp Xquang kỹ thuật số tuyến vú, Siêu âm vú…, tại Bệnh viện K, giá dịch vụ này là 2,5 triệu đồng. Trong khi đó, một số bệnh viện khác, kể cả bệnh viện tư cũng có giá thấp hơn nhiều như Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt là 1,39 triệu đồng; Bệnh viện Đa khoa Thu Cúc là 1,226 triệu đồng; Bệnh viện Ung bướu Hà Nội là 1,688 triệu đồng (Có thêm xét nghiệm nước tiểu, xết nghiệm chức năng gan – thận) hay Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc là 1,260 triệu đồng.

Hay Gói tầm soát ung thư gan, bao gồm các dịch vụ Khám lâm sàng tổng quát; Xét nghiệm công thức máu; Xét nghiệm chức năng thận; Đánh giá tình trạng bài tiết mật; Xét nghiệm AFP định lượng phát hiện sớm ung thư gan; Xét nghiệm CA 199 phát hiện sớm ung thư tụy mật; Xét nghiệm viêm gan virus; Chụp Xquang tim phổi; Siêu âm ổ bụng… tại Bệnh viện K là 2,1 triệu đồng. Trong khi; Bệnh viện Đa khoa Thu Cúc là 1,907 triệu đồng; Bệnh viện ung bướu Hà Nội 1,441 triệu đồng…

Ở một số gói dịch vụ có giá cao, Bệnh viện K cho biết là đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh. “Như vậy người dân, người bệnh, đặc biệt những người có thẻ BHYT có thể hoàn toàn yên tâm, được đảm bảo mọi quyền lợi khi tới khám chữa bệnh tại bệnh viện. Giá dịch vụ nằm trong phạm vi Bộ Y tế quy định, không còn nguồn cung cấp tài chính từ Ngân sách Nhà nước, vậy nên việc các bệnh viện phải nâng cao hơn nữa chất lượng khám chữa bệnh, đổi mới phong cách, thái độ phục vụ người bệnh, đảm bảo môi trường khám chữa bệnh an toàn, xanh, sạch, đẹp… để thu hút người bệnh là điều tối quan trọng” – Đại diện bệnh viện K nói.

Ông Nguyễn Nam Liên – Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính, Bộ Y tế thì cho rằng, hoàn toàn không có việc các bệnh viện tự chủ thì cứ tự động tăng giá dịch vụ khám chữa bệnh, mà phải thực hiện theo quy định và hướng dẫn của Bộ Y tế. Hàng năm, sẽ có cơ quan kiểm tra giám sát, kiểm toán nhà nước thực hiện thanh, kiểm tra vấn đề tài chính của các cơ sở này.

Ông Liên cũng nhấn mạnh, đối với 4 bệnh viện được tự chủ theo Nghị quyết 33 của Chính phủ gồm: Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện K, Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện Bạch Mai, đều là các bệnh viện của nhà nước, có vốn đầu tư ban đầu tư của nhà nước và khi được giao tự chủ, các bệnh viện này mới tự đảm bảo chi thường xuyên và đầu tư. Khi đó, nhà nước sẽ không đầu tư mới, mà các bệnh viện sẽ phải tự lo đầu tư.

“Chính vì vậy, đây vẫn là các bệnh viện công của nhà nước, không phải là doanh nghiệp. Nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của các bệnh viện này là phải khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và vẫn phải thực hiện mức giá theo Bộ Y tế quy định, không được thu cao hơn” – ông Liên cho biết.

GS.TS Trịnh Đình Hải – Nguyên Giám đốc Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương cho rằng: “Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương đã tự chủ tài chính hơn 10 năm, có rất nhiều thuận lợi, nếu tự chủ hoàn toàn sẽ giúp các bệnh viện thuận lợi hơn, chủ động trong các hoạt động điều hành bệnh viện, mọi quyết định sẽ được thực hiện nhanh, linh hoạt hơn và quan trọng hơn là tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Khi tự chủ, BV có thể tăng thêm nguồn thu, dù vẫn thực hiện chính sách cho bệnh nhân BHYT và bệnh nhân khó khăn, khi tăng thu nhập, sẽ tăng nộp thuế cho ngân sách, chính phủ không phải chi thêm tiền để nâng cấp bệnh viện”.

Theo GS Hải, người bệnh sẽ là đối tượng đươc hưởng lợi nhiều nhất từ việc tự chủ bệnh viện. Việc tự chủ không làm ảnh hưởng gì đến quyền lợi của những người bệnh đúng tuyến có BHYT, giá dịch vụ y tế vẫn do nhà nước quy định. Nếu bệnh viện có thể tự chủ, sẽ mạnh mẽ hơn trong hoạt động nhân đạo, sẽ chủ động trong các kỹ thuật cao, người bệnh được hưởng những kỹ thuật tiên tiến hàng đầu thế giới, giữ chân người bệnh không phải ra nước ngoài chữa bệnh, đồng thời tăng nguồn thu. Cán bộ y tế cũng say mê, luôn vươn lên trong khoa học, được cập nhật kỹ thuật cao thường xuyên. Hơn nữa, BV sẽ chủ động hợp tác quốc tế mạnh mẽ, để chủ động cử người ra nước ngoài học tập.

Cập nhật thông tin chi tiết về Tại Sao Bác Sĩ “Chê” Chức Bị Buộc Thôi Việc? trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!