Bạn đang xem bài viết Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Trong Doanh Nghiệp được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Doanh nghiệp hỏi: Hiện tại Luật Việt Nam có hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền và thể thực ban hành văn bản trong nội bộ doanh nghiệp không? Ví dụ như quy chế quản trị doanh nghiệp?
Luật sư trả lời:
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty thì Chủ tịch HĐTV hoặc Tổng Giám đốc trong quá trình hoạt động quản trị Doanh nghiệp có quyền ban hành các quyết định cá biệt hoặc ban hành quy chế quản lý nội bộ Doanh nghiệp.
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định hay hướng dẫn việc ban hành các Quyết định của người có thẩm quyền của Doanh nghiệp trong hoạt động quản trị Doanh nghiệp.
Thông thường hiện nay các Doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động quản trị Công ty thường ban hành Quyết định cá biệt và ban hành Quyết định ban hành văn bản thông thường.
Quyết định cá biệt thường được hiểu: Là văn bản được ban hành để giải quyết các công việc cụ thể đối với đối tượng cụ thể. Đó là Quyết định lên lương, khen thưởng, kỹ luật, bổ nhiệm, miễn nhiệm, phê duyệt…
Văn bản thông thường được hiểu: là văn bản chứ đựng các quy phạm để quy định, hướng dẫn, giải quyết những vẫn đề chung của quản trị doanh nghiệp như Điều lệ, quy chế, quy định, kế hoạch, quy hoạch, chương trình, chiến lược…
Như vậy khi chưa có văn bản pháp luật quy định về thể thức, hình thức ban hành các quy định của Tổng Giám đốc thì Doanh nghiệp có toàn quyền trong việc lựa chon thể thức văn bản.
Doanh nghiệp chỉ cần quan tâm đến Người ký có đúng thẩm quyền hay không, Nội dung quy định có trái pháp luật Điều lệ Công ty hay các Quy chế khác.
Cơ Quan Nào Có Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Pháp Luật?
Ngày đăng: 16/11/2014 02:46
Trên thế giới chỉ có một số nước quy định về khái niệm văn bản pháp luật (VBPL), trong đó đưa ra 3 tiêu chí xác định: VBPL là văn bản chứa đựng quy tắc chung; do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thông qua; có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần. Đa số các nước quy định hình thức VBPL tương đối đơn giản. Đối với VBPL do cơ quan nhà nước ban hành hầu như các nước chỉ quy định từ 3 đến 4 hình thức văn bản như Hiến pháp, luật, nghị định hoặc quy chế, quy tắc, nếu có thông tư thì chỉ có tính chất hướng dẫn, ít đặt ra các quy phạm mới. Địa phương cũng chỉ ban hành 1 đến 2 hình thức văn bản.
Tại bất cứ quốc gia nào, Nghị viện/Quốc hội, cơ quan đại diện của nhân dân cũng là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Cơ quan hành pháp được ủy quyền ban hành văn bản pháp luật đối với một số lĩnh vực nhất định hoặc được ủy quyền ban hành văn bản trong từng luật cụ thể (Canada, Trung Quốc, Lào…). Rất nhiều nước quy định thẩm quyền ban hành văn bản của chính quyền địa phương (Kyrgyzstan, Lào, Trung Quốc…), thậm chí trao thẩm quyền ban hành văn bản cho đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt (Trung Quốc).
Ở hầu hết các quốc gia, nhiệm vụ chính của cơ quan lập pháp là thẩm tra, xem xét và thông qua luật. Hầu hết các luật được Quốc hội thông qua đều do cơ quan hành pháp trình, thường là do chính Bộ trưởng chịu trách nhiệm soạn thảo sẽ trình. Bên cạnh đó, cơ quan lập pháp có trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật. Ở các nước có Thượng viện và Hạ viện, dự thảo luật phải được cả hai viện đồng ý thông qua trước khi gửi nguyên thủ quốc gia ký.
Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng trình dự luật ra Nghị viện và chịu trách nhiệm đối với dự luật. Các Bộ trưởng sẽ bảo trợ cho dự án luật được thông qua trong từng công đoạn của quy trình lập pháp tại Nghị viện. Các bộ đồng thời được ủy quyền trong từng luật về thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi tiết hướng dẫn luật và chịu trách nhiệm thực thi các đạo luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
Nhiều nước quy định Chính phủ được ủy quyền ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật và tổ chức thi hành pháp luật. Với vai trò là cơ quan thực thi pháp luật, cơ quan hành pháp ngoài việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật còn có thẩm quyền ban hành các văn bản dưới luật (nghị định, quyết định, quy chế) để tổ chức việc thi hành luật. Các nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ chỉ là văn bản hướng dẫn để chấp hành và thi hành luật nên phải căn cứ vào Luật và nội dung quy định phải trong phạm vi luật cho phép. Các văn bản này tồn tại vì nội dung của luật trong nhiều trường hợp không thể quy định chi tiết bởi chúng đòi hỏi những chuyên môn kỹ thuật nhiều hơn khả năng của cơ quan lập pháp. Một số nước quy định Chính phủ được ban hành văn bản dưới luật về những vấn đề chưa được pháp luật quy định, nhưng sau một thời gian kiểm nghiệm trong thực tế phải nâng lên thành luật.
Rất nhiều quốc gia quy định về việc ủy quyền lập pháp cho nhánh hành pháp. Trong đó, điển hình là Hiến pháp của Cộng hòa Pháp quy định rõ các nội dung thuộc thẩm quyền ban hành luật của Quốc hội. Sự tách biệt giữa quyền lập pháp và quyền lập quy được thể hiện rõ trong Hiến pháp. Theo tinh thần này, quyền lập quy không được xem là quyền phái sinh từ quyền lập pháp mà được xem là loại quyền năng riêng của Chính phủ trong việc đặt ra pháp luật để điều chỉnh các vấn đề, các nội dung nằm ngoài phạm vi ban hành luật của Quốc hội (nằm ngoài quyền lập pháp).
Theo: daibieunhandan.vn
Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Pháp Luật Của Cơ Quan Nhà Nước
Hàng năm có rất nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhằm thay thế những văn bản pháp luật cũ, không còn hiệu lực và không phù hợp với thực tế đời sống xã hội nữa.
Có thể mỗi chúng ta đều đã từng nghe rất nhiều đến các loại văn bản pháp luật, tuy nhiên không phải ai cũng biết đến thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cụ thể ra sao.
– Để biết được thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật thuộc về cơ quan nhà nước nào thì trước tiên ta cần hiểu “văn bản pháp luật” là gì?
Văn bản pháp luật hay văn bản quy phạm pháp luật là một loại giấy tờ tồn tai dưới hình thức văn bản với một số đặc điểm cơ bản sau đây:
+ Về nội dung: là các quy tắc xử sự chung, mang tính chất bắt buộc chung phải thực hiện.
+ Về đối tượng áp dụng: Tùy thuộc vào phạm vi điều chỉnh của mỗi văn bản pháp luật mà có đối tượng điều chỉnh là các cá nhân, tổ chức, cơ quan khác nhau có trách nhiệm cũng như nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp từ khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và bắt đầu có hiệu lực.
+ Về phạm vi điều chỉnh: Có thể là trên cả nước, toàn lãnh thổ Việt Nam hoặc cũng có thể chỉ có hiệu lực điều chỉnh trong phạm vi một hay một số đơn vị hành chính nhất định nào đó.
+ Về thẩm quyền ban hành: là các cơ quan nhà nước nói chung và một số người cụ thể có quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói riêng.
+ Những văn bản quy phạm pháp luật này thì sẽ được đảm bảo thực hiện dựa trên chính quyền lực và sức mạnh của Nhà nước.
– Tiếp đến, khi đi vào nội dung chính về thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước thì theo như quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì đối với mỗi văn bản quy phạm pháp luật khác nhau thì thẩm quyền ban hành cũng thuộc về chủ thể khác nhau tương ứng.
Cụ thể như sau:
Cơ quan nhà nước (chủ thể ban hành)Văn bản quy phạm pháp luậtQuốc hội
Hiến pháp, bộ luật, luật, nghị quyết
Ủy ban thường vụ quốc hội
Nghị quyêt liên tịch, nghị quyết, pháp lệnh
Chính phủ
Nghị quyết liên tịch, nghị định
Chủ tịch nước
Lệnh, quyết định
Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Thông tư,
Thông tư liên tịch
Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao
Nghị quyết
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Thông tư, thông tư liên tịch
Viện trưởng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thông tư, thông tư liên tịch
Tổng kiểm toán nhà nước
Quyết định
Hội đồng nhân dân
Nghị quyết
Uỷ ban nhân dân
Quyết định
CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC
1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”
Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Chính Quyền Địa Phương Theo Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Năm 2022
Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.
Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật năm 2015) có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016, được ban hành để thay thế hai đạo luật là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004, đánh dấu một bước phát triển lớn trong tiến trình lập pháp của Việt Nam. Xuyên suốt 173 điều là nhiều nội dung mới, hiện đại với mục đích tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm xây dựng, vận hành hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả thi góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Bên cạnh một số điểm mới nổi bật như việc tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo, Luật năm 2015 đã có những thay đổi đáng kể về thẩm quyền ban hành văn bản của các chủ thể, trong đó có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của chính quyền địa phương. Bài viết đánh giá những điểm mới về thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền địa phương để nhìn nhận những thách thức trong việc triển khai thực hiện Luật trong thời gian tới.
1. Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
1.1. Chủ thể ban hành
Luật năm 2015 đã kế thừa những quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004 khi tiếp tục trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho các chủ thể ở địa phương đó là Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, đã bổ sung thêm một chủ thể mới là đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt được xác định là một cấp hành chính, có thể tương đương cấp huyện hoặc cấp tỉnh nhưng thẩm quyền kinh tế được xác định sẽ là tương đương với chính quyền cấp I (ngay bên dưới chính quyền trung ương mà sẽ tạm gọi là cấp tỉnh). Mỗi vùng lãnh thổ chỉ nên được trao quyền quản lý khi nó phải có những tiềm lực nhất định về kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội. Tiềm lực đó phải đủ mạnh, đủ tầm. Nền tảng đó là hệ thống pháp luật đầy đủ, chiến lược phát triển kinh tế với cơ cấu ngành, nghề và quy mô phù hợp, cơ sở vật chất như đất đai, nhà ở, công sở, nhà máy, xí nghiệp; vốn, đầu tư, cơ chế tự chủ, tự quản để trở thành một chủ thể kinh tế độc lập khác biệt với các chủ thể ở các vùng lãnh thổ khác. Dựa vào đó, Nhà nước sẽ trao quyền cho nó để hình thành tổ chức chính quyền ở đơn vị hành chính – lãnh thổ.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã dành Chương V với 4 Điều (từ Điều 74 – 77) quy định về “chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt”. Theo đó, Điều 74 đưa ra khái niệm đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt là đơn vị do Quốc hội quyết định thành lập, được áp dụng các cơ chế chính sách đặc biệt về kinh tế – xã hội, có chính quyền địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt đó”. Điều 75 quy định về tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt với cơ cấu tổ chức gồm có HĐND và UBND, nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động được thực hiện theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Điều 76, 77 quy định về thẩm quyền thành lập và giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
Có thể nói, việc Luật năm 2015 trao quyền ban hànhVBQPPL cho chủ thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ chủ thể này cũng là một đơn vị hành chính trong hệ thống bộ máy nhà nước do Quốc hội thành lập cũng giống như các đơn vị hành chính khác như tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, xã, phường… Bên cạnh đó, theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, tổ chức đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt cũng bao gổm HĐND và UBND cũng tương đương với đơn vị hành chính khác. Do đó, việc trao thẩm quyền ban hành VBQPPL cho chủ thể này là hoàn toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, đồng thời có thể phát huy tốt nhất tiềm năng của các đơn vị này dựa trên cơ sở thế mạnh của từng vùng.
1.2. Thẩm quyền hình thức
Theo quy định của Luật năm 2015, hình thức VBQPPL do HĐND ban hành là nghị quyết, UBND ban hành là quyết định.
Thứ nhất, Luật năm 2015 đã bỏ hình thức chỉ thị của UBND các cấp
Hệ thống VBQPPL của nước ta hiện nay rất đa dạng về hình thức, với nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau ban hành. Với nhiều hình thức VBQPPL khác nhau, dẫn đến hệ thống VBQPPL khá cồng kềnh, nhiều tầng nấc, phần nào làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Do đó, xuất phát từ thực tế này, chủ trương đơn giản hóa hình thức VBQPPL luôn được các cơ quan xây dựng pháp luật coi trọng. Luật năm 2015 cũng không phải ngoại lệ khi giảm bớt hình thức VBQPPL của UBND. Theo đó, UBND các cấp chỉ ban hành VBQPPL với hình thức quyết định, điều này có nghĩa chỉ thị của UBND sẽ không được ban hành với tư cách là VBQPPL nữa.
Với tư cách là một đơn vị hành chính trong hệ thống bộ máy nhà nước, Luật năm 2015 trao thẩm quyền ban hành VBQPPL cho đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Tương tự hình thức VBQPPL của HĐND và UBND các cấp được tổ chức tại các đơn vị hành chính bình thường, theo quy định tại Điều 29 Luật năm 2015, HĐND tại đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ban hành nghị quyết, UBND đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ban hành quyết định.
1.3. Thẩm quyền nội dung
Theo khoa học luật Việt Nam, thẩm quyền nội dung là giới hạn quyền lực mà pháp luật cho phép các chủ thể ban hành VBQPPL để quy định những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Với từng hình thức văn bản được ban hành thì sẽ có những quy định tương ứng về nội dung được thể hiện trong văn bản đó.
Nội dung những văn bản do chính quyền địa phương ban hành quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã có những hạn chế nhất định khi chưa phân định một cách rõ ràng nội dung của văn bản do chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã ban hành, mà chủ yếu căn cứ dựa trên phạm vi ban hành văn bản. Điều đó dẫn đến tình trạng thụ động khi giải quyết những vấn đề phát sinh tại địa phương, cũng như tình trạng sao chép văn bản của cấp trên… Để khắc phục tình trạng này, trên cơ sở sự phân định thẩm quyền quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật năm 2015 đã quy định cụ thể nội dung của VBQPPL do từng cơ quan, từng cấp ban hành. Theo đó, HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định: Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên; chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên; biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương ( Điều 27).
UBND cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định: Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên; biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương; biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương (Điều 28).
HĐND cấp huyện, cấp xã ban hành nghị quyết, UBND cấp huyện, cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật giao ( Điều 30 )
Như vậy, đối với nghị quyết của HĐND cấp tỉnh và quyết định của UBND cấp tỉnh, Luật năm 2015 đã quy định rõ hơn theo hướng VBQPPL của UBND cấp tỉnh quy định chi tiết những vấn đề được văn bản cấp trên giao; tổ chức, đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương và quyết định những vấn đề cụ thể tại địa phương. Riêng đối với nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND cấp huyện, xã, Luật năm 2015 đã giới hạn chỉ được ban hành để quy định những vấn đề được luật giao.
2. Một số đề xuất đối với việc triển khai thực hiện Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015
Thứ nhất, Luật năm 2015 quy định HĐND cấp tỉnh có quyền ban hành nghị quyết, UBND cấp tỉnh có quyền ban hành quyết định để quy định chi tiết, điều khoản, điểm được giao trong VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên. Thiết nghĩ, việc giao cho cấp dưới quy định chi tiết văn bản của cấp trên sẽ phù hợp khi cơ quan được giao là một cơ quan có thẩm quyền chung trong cả nước (Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết một số điều của luật) hay cơ quan chuyên môn ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ giao cho bộ quy định chi tiết luật, nghị định), vì như vậy vừa đạt được mục đích của ủy quyền, vừa đảm bảo được sự thống nhất của pháp luật. Còn việc Luật năm 2015 trao quyền cho HĐND, UBND cấp tỉnh ban hành văn bản để quy định chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong VBQPPL của cấp trên không thực sự phù hợp. Bởi có thể đưa ra lý do cho việc ủy quyền này là xuất phát từ sự đặc thù riêng biệt về địa lý, dân cư, điều kiện kinh tế, xã hội… của từng địa phương nên cơ quan nhà nước cấp trên trao quyền chủ động cho địa phương quy định cụ thể. Tuy nhiên, nếu giải thích như vậy sẽ trùng lặp giữa khoản 1 và khoản 4 Điều 27. Còn nếu việc ủy quyền xuất phát từ lý do khác, thì có thể dẫn đến sự thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật từ trung ương đến địa phương, bởi khi trao quyền quy định chi tiết cho địa phương, thì hoàn toàn có thể xảy ra tình trạng các địa phương quy định không giống nhau về cùng một vấn đề được giao.
Thứ hai, về VBQPPL của HĐND và UBND cấp huyện, xã, Luật năm 2015 quy định các chủ thể được phép ban hành VBQPPL quy định những vấn đề được giao trong luật, tức là khi có sự ủy quyền của Quốc hội. Trên thực tế, thông thường Quốc hội chỉ giao việc quy định những vấn đề chi tiết cho Chính phủ hoặc các bộ, do đó việc giao cho chính quyền địa phương cấp huyện, xã quy định văn bản chi tiết là điều khó xảy ra. Về vấn đề này, có một số quan điểm cho rằng nên cắt bỏ thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền địa phương cấp huyện, xã, tuy nhiên theo tác giả trong những năm trở lại đây nhu cầu ban hành VBQPPL của cấp huyên, xã là hoàn toàn có thực, mặc dù không lớn. Bên cạnh đó, vấn đề tự quản, tự chịu trách nhiệm của cấp huyện, xã được bàn đến sôi nổi và là khuynh hướng xây dựng chính quyền địa phương hiện nay. Nếu nói đến vấn đề tự quản, tự chịu trách nhiệm, thì có lẽ không chỉ dừng lại ở việc tự quản, tự chịu trách nhiệm về việc giải quyết những vấn đề cụ thể mà tự quản, tự chịu trách nhiệm còn bao hàm cả việc tự định ra các chủ trương, biện pháp quản lý áp dụng chung trên phạm vi địa bàn quản lý. Vì vậy, rất nên quy định chính quyền cấp huyện, xã có thẩm quyền ban hành VBQPPL nhưng cần quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn.
Thứ tư, khoản 4 Điều 27 Luật năm 2015 quy định HĐND ban hành quyết định quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Tuy nhiên, Điều 14 Luật năm 2015 lại nghiêm cấm quy định thủ tục hành chính trong VBQPPL của chính quyền địa phương. Việc quy định như vậy sẽ gây khó khăn cho HĐND khi quy định các biện pháp đặc thù cho địa phương mình, vì thông thường địa phương sẽ có những hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện khi ban hành một biện pháp đặc thù nào đó trong khi Luật lại quy định HĐND không được quyền đặt ra thủ tục hành chính.
Tóm lại, mặc dù vẫn còn những quy định gây tranh cãi, tuy nhiên không thể phủ nhận Luật năm 2015 đã có những điểm mới, tiến bộ khi quy định về thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền địa phương, góp phần thống nhất, đồng bộ, minh bạch hệ thống VBQPPL, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý hành chính nhà nước ở trung ương đến địa phương.
ThS. Hoàng Ngọc Hải
Cập nhật thông tin chi tiết về Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Trong Doanh Nghiệp trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!