Xu Hướng 12/2023 # Tiểu Luận Luật Hợp Tác Xã # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tiểu Luận Luật Hợp Tác Xã được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

Luật Hợp tác xã 2003 bước đầu giúp cho việc tổ chức lại và khuyến khích thành lập mới hợp tác xã trên toàn quốc; cùng các văn bản hướng dẫn đã thể chế hóa một bước quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về phát triển kinh tế tập thể, theo đó hợp tác xã được thành lập dựa trên sở hữu của các xã viên và sở hữu tập thể, liên kết giữa những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phân định rõ hơn chức năng quản lý của ban quản trị và chức năng điều hành của chủ nhiệm hợp tác xã; tiếp tục đơn giản hoá và minh bạch hoá thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh; mở rộng đối tượng là các pháp nhân, cán bộ công chức có thể tham gia hợp tác xã.

Tuy nhiên, nghiên cứu khảo sát thực tế và tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; kết quả khảo sát toàn diện hợp tác xã trên phạm vi toàn quốc năm 2008 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện cho thấy cóNhững hạn chế,thiếu sót, những quy định không còn phù hợp trong bối cảnh kinh tế hiện nay là nguyên nhân phải sửa đổi Luật HTX năm 2003. Cụ thể, Luật HTX năm 2003 chưa xác định được rõ địa vị pháp lý, bản chất của hợp tác xã, chưa quy định rõ bản chấtcủa hợp tác xã là phục vụ thành viên. Nguyên tắc quản lý dân chủ trong hợp tác xã là chưa rõ ràng. Các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cũng chưa được quy định trong Luật.Về sở hữu tập thể với tài sản chung cũng chưa được làm rõ dẫn đến những tranh chấp khi giải thể HTX… Những hạn chế, thiếu sót này đã được điều chỉnh, bổ sungtrong Luật HTX sửa đổi năm 2012.Vì vậy em xin chọn đề tài : “Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Hợp tác xã 2012 so với Luật Hợp tác xã năm 2003 .

a) Luật chưa thể hiện rõ bản chất tổ chức hợp tác xã, sự khác biệt về bản chất giữa tổ chức hợp tác xã với doanh nghiệp và với tổ chức xã hội – từ thiện; chưa quan tâm thích đáng nội hàm “hợp tác” của tổ chức hợp tác xã; chưa làm thật rõ lợi ích và vai trò người chủ của xã viên khi tham gia hợp tác xã, mục tiêu của hợp tác xã và mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích của xã viên với hợp tác xã. Chưa làm rõ sự khác biệt giữa mục tiêu lợi ích của hợp tác xã và mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp.

– Về bản chất tổ chức hợp tác xã:

+ Về mục tiêu của hợp tác xã và lợi ích của xã viên: Luật Hợp tác xã năm 2003 chưa quy định thật rõ hợp tác xã phải lấy lợi ích của xã viên là mục tiêu cho hoạt động và phát triển của hợp tác xã, chưa thể hiện thật rõ lợi ích của xã viên khi tham gia hợp tác xã là nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh tế của mình thông qua cung ứng vật tư, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm chung hoặc tạo việc làm có hiệu quả hơn so với xã viên đơn lẻ tự thực hiện hoặc không thực hiện được; vai trò người chủ của xã viên trong việc quyết định các vấn đề cơ bản của hợp tác xã, như: Xác định mục tiêu, tổ chức hoạt động, quản lý và điều hành hoạt động của hợp tác xã còn mờ nhạt.

+ Về mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm của xã viên với hợp tác xã:

Quy định của Luật Hợp tác xã năm 2003 về việc xã viên “cùng góp vốn, góp sức” là chưa rõ ràng, có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau:

Thứ nhất, các xã viên chỉ “góp vốn” mà không “góp sức” – khi đó hợp tác xã trở thành doanh nghiệp và xã viên thực chất chỉ là người góp vốn, cổ đông của doanh nghiệp, được chia lãi theo vốn góp.

Thứ hai, các xã viên chỉ “góp sức” mà không “góp vốn” – khi đó xã viên về thực chất chỉ là người lao động làm thuê trong hợp tác xã, tương tự như người lao động trong doanh nghiệp nếu được trả lương; hoặc là hoạt động từ thiện cho tổ chức hợp tác xã nếu tự nguyện và không được trả lương.

Với hai cách hiểu nêu trên, quy định pháp luật về hợp tác xã hiện hành chưa làm rõ được bản chất của tổ chức hợp tác xã, dẫn đến cách hiểu phổ biến hiện nay: Tổ chức hợp tác xã là doanh nghiệp (hoạt động theo Luật doanh nghiệp).

Thứ ba, các xã viên phải “góp vốn” đi đôi với “góp sức”, khi đó xã viên vừa là người góp vốn, trở thành chủ sở hữu của hợp tác xã vừa là người lao động trong hợp tác xã nếu việc “góp sức” được trả tiền lương, tiền công. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm “góp sức” trong Luật Hợp tác xã hiện hành là quá rộng, chưa rõ, chưa cụ thể, có thể áp dụng tất cả cá nhân, tổ chức. “Góp sức” chỉ có ý nghĩa đối với tổ chức hợp tác xã khi thành viên hợp tác xã “góp sức” với tư cách là người lao động thường xuyên trực tiếp trong hợp tác xã và được hợp tác xã trả lương (gọi là hợp tác xã của người lao động , tức hợp tác xã hoạt động trên thị trường nhằm tạo ra việc làm đáp ứng nhu cầu về việc làm, thu nhập cho chính xã viên của mình).

+ Về sở hữu tập thể, tài sản không chia và tổ chức quản lý hợp tác xã:

Luật quy định chưa rõ ràng về sở hữu tập thể và tài sản không chia, cụ thể là: Vốn và tài sản chung của hợp tác xã được hình thành từ các nguồn vốn và công sức của xã viên, quà biếu, tặng của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước, đặc biệt đất đai do Nhà nước cấp cho hợp tác xã khi giải thể do đại hội xã viên quyết định. Như vậy, một mặt chưa chế định rõ tài sản không chia, sở hữu chung tập thể; mặt khác, có thể tạo kẽ hở lợi dụng thành lập hợp tác xã để tranh thủ các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước dành riêng cho hợp tác xã; từ đó, có thể khuyến khích tạo ra những doanh nghiệp về thực chất nhưng mang danh hợp tác xã, tác động tiêu cực tới môi trường cạnh tranh lành mạnh, cản trở sự ra đời và phát triển của các hợp tác xã có bản chất đích thực, làm giảm hiệu quả của hỗ trợ ngân sách nhà nước.

Luật hiện hành chưa tách bạch rõ ràng chức năng quản lý của chủ sở hữu và điều hành hoạt động của hợp tác xã như Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX đã đề ra; cho phép hợp tác xã có thể tổ chức hai bộ máy hoặc một bộ máy, bao gồm cả chức năng quản lý và chức năng điều hành; đặt bộ máy điều hành ngang hàng với bộ máy quản lý của chủ sở hữu là không phù hợp. Thực tế, số hợp tác xã tổ chức một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành chiếm phần lớn số hợp tác xã, chưa thể hiện rõ quyền thực sự của xã viên với tư cách là người chủ của hợp tác xã.

+ Về quan hệ phân phối trong hợp tác xã:

Luật quy định chưa rõ ràng về quan hệ phân phối gắn với bản chất của tổ chức hợp tác xã và chưa phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, cụ thể là: Không quy định về việc thu nhập của hợp tác xã trước hết phải phân phối cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ, mà quy định “Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế, trích lập các quỹ của hợp tác xã, lãi được chia cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên và phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã”. Trong khi đó, theo bản chất đích thực của tổ chức hợp tác xã, mục đích chính là hướng tới chia sẻ lợi ích, khác hẳn so với doanh nghiệp là hướng tới lợi nhuận. Do đó, việc xã viên sử dụng dịch vụ của hợp tác xã là đặc biệt quan trọng, góp phần tạo nên lãi/thu nhập cao hơn của xã viên hợp tác xã, đồng thời bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của hợp tác xã. Thực tế, hợp tác xã ưu tiên chia lãi cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp, “phần còn lại” của thu nhập không còn hoặc rất thấp để phân phối theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Do vậy, không khuyến khích xã viên sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, không khuyến khích hợp tác xã kết nạp thêm xã viên mới, mà khuyến khích xã viên tăng vốn, từ đó dần định hướng tổ chức hợp tác xã chuyển sang bản chất tổ chức doanh nghiệp với việc chia lãi chủ yếu theo vốn góp và cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường đại chúng.

Việc Luật quy định chia lãi theo công sức đóng góp sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, trích lập các quỹ của hợp tác xã còn trái với quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, theo đó chi trả công sức lao động thực chất là chi phí tiền lương, tiền công và phải được hạch toán vào chi phí sản xuất – kinh doanh, không được hạch toán vào lãi, thu nhập.

– Về tổ chức liên hiệp hợp tác xã:

Quy định pháp luật về tổ chức liên hiệp hợp tác xã còn chưa rõ ràng, cụ thể. Trong khi xét về bản chất, liên hiệp hợp tác xã là hợp tác xã của các hợp tác xã, khi thành viên của liên hiệp hợp tác xã chỉ thuần nhất là pháp nhân hợp tác xã.

b) Luật Hợp tác xã năm 2003 chưa thể hiện rõ tính chất phục vụ xã viên của tổ chức hợp tác xã theo tinh thần Nghị quyết số 13 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Khóa IX đã đề ra, cụ thể là: “Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế,…; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm…”, “Kinh tế tập thể với hình thức phổ biến là tổ hợp tác và hợp tác xã; trong lĩnh vực nông nghiệp trước hết tập trung làm các khâu dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của hộ thành viên”; đồng thời cũng chưa quy định rõ tổ chức hợp tác xã của người lao động như Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Khóa VII tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra: “Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với việc chung”.

c) Chưa quy định thật rõ chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp; chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trong việc giám sát, kiểm tra thi hành Luật; chưa có chế tài cụ thể và đủ sức răn đe để pháp luật có hiệu lực.

d) Chưa có chính sách đặc thù khuyến khích phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phù hợp với bản chất tổ chức hợp tác xã.

Luật hợp tác xã 2012 ra đời nhằm mục tiêu: Khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển hợp tác xã mới; định hướng phát triển cho các hợp tác xã hiện đang hoạt động theo đúng bản chất hợp tác xã; đáp ứng nhu cầu và lợi ích của xã viên tham gia hợp tác xã; bảo đảm quyền và lợi ích của hàng chục triệu hộ nông dân, hàng chục triệu người tiêu dùng, hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp; tăng cường năng lực cạnh tranh của kinh tế hộ gia đình, đặc biệt là kinh tế hộ nông dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần cải thiện công bằng xã hội và ổn định kinh tế, chính trị, xã hội; góp phần thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Luật HTX năm 2012 về cơ bản phản ánh khá đầy đủ những nội dung trong Luật HTX năm 2003. Tuy nhiên Luật HTX năm 2012 có một số điểm mới khác với với Luật HTX năm 2003 trên một số vấn đề sau:

Điều 1 Luật hợp tác xã 2003,quy định

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.

Khoản 1 Điều 3.Luật hợp tác xã 2012, quy định: ” Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.

Các quy định nêu trên đã làm rõ bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trên những nội dung cơ bản sau đây:

+ Mục tiêu thành lập tổ chức: Mục tiêu của hợp tác xã là đáp ứng nhu cầu chung của thành viên về sản phẩm, dịch vụ, hoặc tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên một cách hiệu quả hơn so với từng thành viên đơn lẻ không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải hoạt động hiệu quả và theo đuổi mục tiêu cao nhất là đáp ứng nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ của thành viên.

Trong khi đó, mục tiêu của tổ chức doanh nghiệp (theo Luật doanh nghiệp) là cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường đại chúng nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp; mục tiêu của các thành viên góp vốn vào doanh nghiệp là để được chia lợi nhuận tối đa theo tỷ lệ vốn góp của mình.

+ Quan hệ sở hữu: Thành viên hợp tác xã vừa là đồng sở hữu vừa là khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã; đối tượng phục vụ chính của hợp tác xã là thành viên.

Như vậy, Luật 2012 làm rõ hơn bản chất HTX là tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế tập thể; quản lý dân chủ, tự chịu trách nhiệm, đồng sở hữu HTX; số lượng tối thiểu 7 thành viên mới được thành lập HTX. Mặc dù Luật không xác định HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, nhưng xác định HTX thành lập để hợp tác tương trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh. HTX vẫn được thành lập doanh nghiệp trực thuộc, nhưng chỉ khác là khi HTX phát triển đến trình độ cao hơn, có nghĩa là HTX mới thành lập hoặc HTX hoạt động yếu kém thì chưa được thành lập doanh nghiệp trực thuộc. Đối với Liên hiệp HTX, ít nhất 4 HTX mới được thành lập Liên hiệp (thay vì HTX và doanh nghiệp có nhu cầu là có thể thành lập Liên hiệp HTX như Luật HTX 2003)…

Điều 17 luật HTX 2003. Điều kiện trở thành xã viên

1. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có góp vốn, góp sức, tán thành Điều lệ hợp tác xã, tự nguyện xin gia nhập hợp tác xã có thể trở thành xã viên.

Cán bộ, công chức được tham gia hợp tác xã với tư cách là xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã nhưng không được trực tiếp quản lý và điều hành hợp tác xã.

2. Hộ gia đình, pháp nhân có thể trở thành xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã. Khi tham gia hợp tác xã, hộ gia đình, pháp nhân phải cử người đại diện có đủ điều kiện như đối với cá nhân tham gia.

3. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có thể là xã viên của nhiều hợp tác xã trong trường hợp Điều lệ hợp tác xã không cấm.

Điều 13luật HTX 2012. Điều kiện trở thành thành viên, hợp tác xã thành viên

1. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân trở thành thành viên hợp tác xã phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

a) Cá nhân là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hộ gia đình có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức là pháp nhân Việt Nam.

Đối với hợp tác xã tạo việc làm thì thành viên chỉ là cá nhân;

b) Có nhu cầu hợp tác với các thành viên và nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã;

c) Có đơn tự nguyện gia nhập và tán thành điều lệ của hợp tác xã;

d) Góp vốn theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật này và điều lệ hợp tác xã;

đ) Điều kiện khác theo quy định của điều lệ hợp tác xã.

Thành viên của tổ chức doanh nghiệp chỉ là người đồng sở hữu doanh nghiệp; đối tượng phục vụ chính của doanh nghiệp là thị trường đại chúng.

+ Quan hệ kinh tế: Thành viên hợp tác xã góp vốn, đồng thời cam kết sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, hoặc là người lao động trong hợp tác xã.

Thành viên doanh nghiệp, ngoài việc góp vốn, không có ràng buộc khác về kinh tế với doanh nghiệp.

+ Quan hệ phân phối: Thành viên hợp tác xã được hưởng thụ các lợi ích chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, hoặc được trả lương đối với sức lao động đóng góp cho hợp tác xã và được phân phối thu nhập chia lãi theo vốn góp đối với hợp tác xã được thành lập nhằm mục tiêu tạo việc làm cho thành viên.

Thành viên doanh nghiệp được chia lãi theo tỷ lệ vốn góp.

Sự khác biệt cơ bản giữa hợp tác xã và doanh nghiệp là: Hợp tác xã hướng tới lợi ích chung trong đó từng xã viên được hưởng; doanh nghiệp hướng tới lợi nhuận được chia theo tỷ lệ tham gia góp vốn.

+ Quan hệ quản lý: Thành viên hợp tác xã có quyền biểu quyết trong hợp tác xã ngang nhau, không phụ thuộc mức vốn góp.

Thành viên doanh nghiệp có quyền biểu quyết trong doanh nghiệp theo tỷ lệ vốn góp trong doanh nghiệp.

Căn cứ Điều 3 Luật HTX 2003. Chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã và Điều 6 Luật HTX 2012. Chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước

Về đảm bảo của nhà nước đối với HTX ở điều 5 Thêm là “Bảo đảm môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng giữa HTX, Liên hiệp HTX với các loại hình doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác”.

Luật HTX năm 2012 ( điều 17) quy định mức góp vốn tối đa của thành viên khi tham gia HTX không quá 20% vốn điều lệ; Luật HTX năm 2003 ( khoản 2 điều 19) quy định vốn góp tối đa của xã viên không quá 30% vốn điều lệ.

Luật Hợp tác xã năm 2003 không tách bạch và làm rõ được hai loại vốn: Vốn góp xác nhận tư cách thành viên và vốn huy động như là khoản vốn vay từ thành viên phục vụ đầu tư sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. Cùng với việc quy định phân phối thu nhập sau thuế cho thành viên trước hết theo mức vốn góp mà không theo mức độ sử dụng dịch vụ có thể tạo nguy cơ chuyển hợp tác xã dần trở thành tổ chức hướng theo lợi nhuận, không hướng vào đáp ứng nhu cầu của thành viên.

Vốn điều lệ của HTX năm 2012 ( điều 21) có bổ sung điều khoản:

– Khoản (5) Mức độ thường xuyên sử dụng sản phẩm, dịch vụ; giá trị tối thiểu của sản phẩm, dịch vụ; giá trị tối thiểu của sản phẩm, dịch vụ mà thành viên sử dụng; thời gian liên tục không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX nhưng không quá 3 năm, đối với HTX tạo việc làm là không quá 2 năm;

– Khoản (12) Nội dung hợp đồng dịch vụ giữa HTX với thành viên…

– Khoản(13) việc HTX cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra thị trường cho từng lĩnh vực, loại hình do Chính phủ quy định…

Về phân phối thu nhập luật HTX 2012 quy định HTX sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, thu nhập của HTX được phân bổ như sau: (1) Trích lập quỹ đầu tư phát triển không thấp hơn 20%/thu nhập; (2) Trích lập quỹ dự phòng tài chính không thấp hơn 5%/ thu nhập. Phân chia chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ, công sức lao động đóng góp của thành viên đối với HTX, Liên hiệp HTX phần còn lại chia theo vốn góp.( điều 46)

Luật HTX năm 2012 sử dụng khái niệm “Hội đồng quản trị” thay khái niệm “Ban quản trị”; “Chủ tịch hội đồng quản trị” thay khái niệm “Trưởng ban quản trị”. Hội đồng quản trị tối thiểu có 03 thành viên, tối đa có 15 thành viên. Khái niệm “Giám đốc” thay khái niệm “Chủ nhiệm”; ngoài khái niệm “Ban kiểm soát” bổ sung khái niệm “Kiểm soát viên”; HTX có 30 thành viên trở lên thì bầu Ban kiểm soát; Ban kiểm soát tối đa có 07 thành viên; nếu HTX có số lượng thành viên ít (dưới 30 thành viên) thì có thể chỉ bầu 01 kiểm soát viên. Khái niệm “đăng ký HTX” thay khái niệm “đăng ký kinh doanh”. Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị tối thiểu là 02 năm, tối đa là 05 năm.

Luật HTX năm 2012 quy định rõ ràng và cụ thể hơn về số lượng, quyền và chức năng mô hình quản trị điều hành so với luật HTX 2003.

Việc hội đồng quản trị triệu tập đại hội thành viên bất thường .

– Ở luật HTX 2003 ( điều 21) Đại hội xã viên bất thường do Ban quản trị hoặc Ban kiểm soát của hợp tác xã triệu tập để quyết định những vấn đề cần thiết vượt quá quyền hạn của Ban quản trị hoặc của Ban kiểm soát.

– Ở luật HTX 2012 có quy định thêm các trường hợp khác ( điều 31)

Hội đồng quản trị triệu tập đại hội thành viên bất thường trong những trường hợp sau đây:

a) Giải quyết những vấn đề vượt quá thẩm quyền của hội đồng quản trị;

b) Hội đồng quản trị không tổ chức được cuộc họp định kỳ sau hai lần triệu tập;

c) Theo đề nghị của ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên;

d) Theo đề nghị của ít nhất một phần ba tổng số thành viên, hợp tác xã thành viên.

Cơ cấu tổ chức của hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã gồm đại hội thành viên, hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) và ban kiểm soát hoặc kiểm soát. Theo đó, tổ chức của hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thống nhất chỉ có một mô hình. (Luật Hợp tác xã 2003, cho phép chọn 1 trong 2 mô hình tổ chức, gồm: một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành – Điều 27; hoặc thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành – Điều 28).

Luật HTX 2012 quy định về việc tư cách thành viên, hợp tác xã thành viên bị chấm dứt giống luật 2003 khi xảy ra một trong các trường hợp:

– Thành viên là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị kết án phạt tù theo quy định của pháp luật;

– Thành viên là hộ gia đình không có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật; thành viên là pháp nhân bị giải thể, phá sản; hợp tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã bị giải thể, phá sản;

– Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bị giải thể, phá sản;

– Thành viên, hợp tác xã thành viên tự nguyện ra khỏi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;

– Thành viên, hợp tác xã thành viên bị khai trừ theo quy định của điều lệ;

– Trường hợp khác do điều lệ quy định.

Và bổ sung thêm 1 số trường hợp khác như:

– Thành viên, hợp tác xã thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 03 năm. Đối với hợp tác xã tạo việc làm, thành viên không làm việc trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 02 năm;

– Tại thời điểm cam kết góp đủ vốn, thành viên, hợp tác xã thành viên không góp vốn hoặc góp vốn thấp hơn vốn góp tối thiểu quy định trong điều lệ;

Em xin chân thành cám ơn!!!

1.Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại ( tập 1),Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội,2006.

2.Luật HTX năm 2003

3.Luật HTX năm 2012

4. TỜ TRÌNH Về Dự án Luật Hợp tác xã

Điều 54 Luật Hợp Tác Xã Giải Thể Hợp Tác Xã, Liên Hiệp Hợp Tác Xã

Điều 54 Luật hợp tác xã Giải thể hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2013.(

Luật hợp tác xã năm 2012

).

Luật hợp tác xã số 18/2003/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.

Thủ tục thành lập Hợp tác xã

1. Giải thể tự nguyện: Đại hội thành viên, hợp tác xã thành viên quyết định việc giải thể tự nguyện và thành lập hội đồng giải thể tự nguyện. Hội đồng giải thể tự nguyện gồm đại diện hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, ban điều hành, đại diện của thành viên, hợp tác xã thành viên. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đại hội thành viên ra nghị quyết giải thể tự nguyện, hội đồng giải thể tự nguyện có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây: a) Thông báo về việc giải thể tới cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đăng báo địa phương nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong 03 số liên tiếp về việc giải thể; b) Thông báo tới các tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã về thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng; thực hiện việc xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định tại Điều 49 của Luật này. 2. Giải thể bắt buộc: Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quyết định giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không hoạt động trong 12 tháng liên tục; b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không bảo đảm đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong 12 tháng liên tục; c) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không tổ chức được đại hội thành viên thường niên trong 18 tháng liên tục mà không có lý do; b) Bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký; đ) Theo quyết định của Tòa án. 3. Thủ tục giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như sau: a) Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ra quyết định giải thể và thành lập hội đồng giải thể. Chủ tịch hội đồng giải thể là đại diện của Ủy ban nhân dân; ủy viên thường trực là đại diện của cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký; ủy viên khác là đại diện của cơ quan nhà nước chuyên ngành cùng cấp, tổ chức đại diện, liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (nếu hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là thành viên của liên minh), Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đóng trụ sở, hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, thành viên, hợp tác xã thành viên; b) Hồ sơ giải thể bắt buộc gồm quyết định giải thể bắt buộc và giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; c) Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải thể bắt buộc, hội đồng giải thể có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây: đăng báo địa phương nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã đăng ký trong 03 số liên tiếp về quyết định giải thể bắt buộc; thông báo tới các tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã về việc giải thể và thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng; xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định tại Điều 49 của Luật này. 4. Ngay sau khi hoàn thành việc giải thể theo quy định tại khoản 1, khoản 2 của Điều này, hội đồng giải thể phải nộp 01 bộ hồ sơ về việc giải thể, con dấu và bản gốc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tới cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký. Việc xử lý các tài liệu khác thực hiện theo quy định của pháp luật. 5. Cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải xóa tên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong sổ đăng ký. 6. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải thể bắt buộc, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra Tòa án theo quy định của pháp luật. 7. Chính phủ quy định chi tiết Điều này. 

Điều 54. Giải thể hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã1. Giải thể tự nguyện:Đại hội thành viên, hợp tác xã thành viên quyết định việc giải thể tự nguyện và thành lập hội đồng giải thể tự nguyện. Hội đồng giải thể tự nguyện gồm đại diện hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, ban điều hành, đại diện của thành viên, hợp tác xã thành viên.Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đại hội thành viên ra nghị quyết giải thể tự nguyện, hội đồng giải thể tự nguyện có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây:a) Thông báo về việc giải thể tới cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đăng báo địa phương nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong 03 số liên tiếp về việc giải thể;b) Thông báo tới các tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã về thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng; thực hiện việc xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định tại Điều 49 của Luật này.2. Giải thể bắt buộc:Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quyết định giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thuộc một trong các trường hợp sau đây:a) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không hoạt động trong 12 tháng liên tục;b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không bảo đảm đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong 12 tháng liên tục;c) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không tổ chức được đại hội thành viên thường niên trong 18 tháng liên tục mà không có lý do;b) Bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký;đ) Theo quyết định của Tòa án.3. Thủ tục giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như sau:a) Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ra quyết định giải thể và thành lập hội đồng giải thể. Chủ tịch hội đồng giải thể là đại diện của Ủy ban nhân dân; ủy viên thường trực là đại diện của cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký; ủy viên khác là đại diện của cơ quan nhà nước chuyên ngành cùng cấp, tổ chức đại diện, liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (nếu hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là thành viên của liên minh), Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đóng trụ sở, hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, thành viên, hợp tác xã thành viên;b) Hồ sơ giải thể bắt buộc gồm quyết định giải thể bắt buộc và giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;c) Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải thể bắt buộc, hội đồng giải thể có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây: đăng báo địa phương nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã đăng ký trong 03 số liên tiếp về quyết định giải thể bắt buộc; thông báo tới các tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã về việc giải thể và thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng; xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định tại Điều 49 của Luật này.4. Ngay sau khi hoàn thành việc giải thể theo quy định tại khoản 1, khoản 2 của Điều này, hội đồng giải thể phải nộp 01 bộ hồ sơ về việc giải thể, con dấu và bản gốc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tới cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký. Việc xử lý các tài liệu khác thực hiện theo quy định của pháp luật.5. Cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải xóa tên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong sổ đăng ký.6. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải thể bắt buộc, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra Tòa án theo quy định của pháp luật.7. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Căn cứ pháp lý thành lập Hợp tác xã: Luật hợp tác xã năm 2012; Nghị định 193/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã; Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT Hướng dẫn đăng ký hợp tác xã;

Vì Sao Luật Hợp Tác Xã Khó Vào Hợp Tác Xã?

Theo tổng hợp quá trình thực hiện Luật hợp tác xã (HTX) 2012 đến nay của Liên minh HTX Việt Nam, nhiều HTX thành viên cho rằng Luật mới không có gì mới, chỉ tập hợp các nghị định thi hành Luật HTX 2003.

Trong khi đó, chính sách ưu đãi HTX lại không khác nhiều doanh nghiệp (DN) và thủ tục chuyển đổi, thành lập mới HTX lại phức tạp hơn DN.

Trong gần 5 năm qua, Liên minh HTX Việt Nam đã ký triển khai hàng trăm chương trình phối hợp với các bộ ngành, đoàn thể Trung ương, đồng thời tổ chức hàng trăm lượt đi về các tỉnh, thành phố nhằm thúc đẩy công tác chỉ đạo thực hiện Luật HTX năm 2012.

Liên minh chủ động vào cuộc

Quá trình thực hiện Luật HTX 2012, Đảng đoàn, Thường trực Liên minh HTX Việt Nam còn gửi công văn và đa dạng văn bản đến tỉnh ủy, UBND cấp tỉnh đề nghị quan tâm phát triển HTX và hỗ trợ hoạt động Liên minh HTX địa phương triển khai Luật HTX 2012.

Nhiều tỉnh, thành phố đã cụ thể hóa chính sách phù hợp hỗ trợ HTX, hoặc chỉ đạo các sở ngành, Liên minh HTX địa phương tăng cường chính sách phát triển HTX, một số tỉnh đã thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển HTX. Từ tham mưu của Liên minh HTX địa phương, đã có 63/63 UBND tỉnh, thành phố ban hành và chỉ đạo các đề án, kế hoạch thực hiện Luật HTX 2012.

Thực hiện Quyết định 377 của Thủ tướng Chính phủ về sơ kết Luật HTX 2012, Liên minh HTX Việt Nam đã ra Quyết định 350 ngày 24/4/2023 tổ chức rà soát đánh giá thực hiện Luật trong toàn hệ thống và tập hợp kiến nghị của các HTX toàn quốc về các vướng mắc, kiến nghị điều chỉnh Luật HTX 2012 cho phù hợp thực tiễn HTX trong thời kỳ hội nhập.

Ngoài việc tổ chức sơ kết “điểm” Luật HTX 2012 tại các vùng miền: Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Đông Bắc bộ, Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ, Liên minh HTX Việt Nam đã đôn đốc và hầu hết Liên minh HTX địa phương đều đã tham mưu cho UBND tỉnh tổ chức hội nghị sơ kết Luật HTX 2012.

Phản hồi từ các HTX

Từ quá trình gần 5 năm tư vấn hỗ trợ HTX thực hiện Luật HTX 2012, hệ thống Liên minh HTX thấy rõ các HTX vấp phải rất nhiều khó khăn, trước hết, nhận thức trong nội bộ không ít HTX về Luật HTX 2012 chưa thống nhất, đặc biệt là các HTX nông nghiệp.

Phản hồi từ nhiều HTX thành viên cho rằng Luật HTX 2012 không có gì mới, chỉ tập hợp đưa vào Luật mới các nghị định thi hành Luật HTX 2003. Những chính sách ưu đãi HTX không khác nhiều DN, thủ tục chuyển đổi, thành lập mới HTX lại phức tạp hơn DN.

Như với HTX nông nghiệp, việc lập đúng, đủ danh sách hàng ngàn xã viên để trình đăng ký HTX là khó khăn lớn… từ đó họ không tích cực tham gia củng cố và phát triển mới HTX như mong đợi.

Cũng phản hồi từ cơ sở, Luật HTX 2012 chưa đi sát thực trạng tồn tại ở các HTX cả nước. Nhiều HTX và nhất là HTX nông nghiệp thường thiếu sổ sách, chứng từ, xã viên và cán bộ thay đổi nhiều năm, việc thống kê và đánh giá vốn quỹ tồn đọng bế tắc… nên rất khó xử lý để có thể đại hội chuyển đổi theo Luật, hoặc giải thể HTX.

Thực tế có không ít HTX phi nông nghiệp muốn chuyển sang công ty. Nhưng Luật HTX 2012 quy định quyền sử dụng đất, tài sản không chia phải bàn giao lại cho chính quyền, mà như vậy xã viên không nhất trí, gây khó các HTX muốn chuyển đổi theo Luật.

Công tác phát triển mới HTX theo Luật HTX 2012 cũng gặp không ít khó khăn. Thủ tục thành lập mới HTX vẫn nhiều, phải đủ 5 đầu tài liệu, nhất là phương án hoạt động phải chuẩn bị mất nhiều thời gian, mà chưa hẳn HTX thực hiện được khi đi vào hoạt động.

Trong khi đó, các cấp ngành thiếu quan tâm, xã hội còn mặc cảm HTX, thì mô hình HTX đúng Luật HTX 2012 chưa nhiều, nên đa số người dân chưa hiểu và chưa muốn tham gia vào HTX.

Các HTX đều khẳng định chính sách hỗ trợ HTX có nhiều, nhưng thực tế để thụ hưởng thì còn nhiều vướng mắc, như các chính sách vay vốn Quỹ KH&CN quốc gia, tín dụng nông nghiệp, nông thôn, hay như chính sách phát triển HTX theo Quyết định số 2261… Nguyên nhân chủ yếu là do các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ, chưa cụ thể và rõ ràng.

HTX còn nhiều lúng túng trong việc tổ chức hoạt động của HTX theo mô hình mới. Như theo Điều 4, Luật HTX 2012, HTX có thể tổ chức lại theo 2 mô hình: HTX dịch vụ thành viên và HTX tạo việc làm. Nhưng thực tế, đa số HTX đều kinh doanh hỗn hợp, mà đến nay chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể nội dung này.

Lưu Đoàn-LM

Luật Hợp Tác Xã 2012

Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định như thế nào về phân phối thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã?

Trả lời: Sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối như sau: – Trích lập quỹ đầu tư phát triển với tỷ lệ không thấp hơn 20% trên thu nhập; trích lập quỹ dự phòng tài chính với…

Thành viên, hợp tác xã thành viên được trả lại vốn góp trong trường hợp nào?

Trả lời: Thành viên, hợp tác xã thành viên được trả lại vốn góp trong các trường hợp sau: – Khi chấm dứt tư cách thành viên, hợp tác xã thành viên. – Khi vốn góp của thành viên, hợp tác xã thành viên vượt quá mức vốn góp tối đa…

Việc quản lý các khoản trợ cấp, hỗ trợ của Nhà nước; khoản trợ cấp, hỗ trợ có yếu tố nước ngoài được quy định như thế nào?

Trả lời: Việc quản lý các khoản trợ cấp, hỗ trợ của Nhà nước được thực hiện như sau: – Khoản trợ cấp, hỗ trợ không hoàn lại của Nhà nước được tính vào tài sản không chia của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; – Khoản hỗ trợ của Nhà nước phải hoàn lại được tính vào…

Những tài sản nào là tài sản không chia của hợp tác xã? Vì sao Luật Hợp tác xã năm 2012 thay đổi cụm từ “tài sản chung” trong Luật Hợp tác xã năm 2003 thành “tài sản không chia”?

Trả lời: Tài sản không chia của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bao gồm: – Quyền sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất; – Khoản trợ cấp, hỗ trợ không hoàn lại của Nhà nước; khoản được tặng, cho theo thỏa thuận là tài sản không chia; – Phần trích lại từ quỹ đầu tư phát…

Những nguồn nào hình thành nên tài sản của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã?

Trả lời: Tài sản của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được hình thành từ nguồn sau đây: – Vốn góp của thành viên, hợp tác xã thành viên; – Vốn huy động của thành viên, hợp tác xã thành viên và vốn huy động khác; – Vốn, tài…

Trong quá trình hoạt động, hợp tác xã được quyền huy động vốn như thế nào?

Trả lời: Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ưu tiên huy động vốn từ thành viên, hợp tác xã thành viên để đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh trên cơ sở thỏa thuận với thành viên, hợp tác xã thành viên. Trường hợp huy động vốn từ thành viên, hợp tác…

Vốn hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bao gồm những nguồn nào?

Trả lời: Vốn hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gồm vốn góp của thành viên, hợp tác xã thành viên, vốn huy động, vốn tích luỹ, các quỹ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; các khoản trợ cấp, hỗ trợ của Nhà nước, của các tổ chức,…

Tăng, giảm vốn điều lệ được quy định như thế nào?

Trả lời: Vốn điều lệ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tăng trong trường hợp đại hội thành viên quyết định tăng mức vốn góp tối thiểu hoặc huy động thêm vốn góp của thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc kết nạp thành viên, hợp tác xã thành viên…

Mức vốn bắt buộc phải góp là bao nhiêu? Mức này do ai quy định?

Trả lời: Đối với thành viên, hợp tác xã thành viên mức vốn bắt buộc phải góp là mức vốn mà thành viên, hợp tác xã thành viên phải góp vào hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không được thấp hơn mức vốn góp tối thiểu. Mức vốn góp…

Thời hạn và mức góp vốn điều lệ?

Trả lời: Thời hạn, hình thức và mức góp vốn điều lệ theo quy định của điều lệ, nhưng thời hạn góp đủ vốn không vượt quá 06 tháng, kể từ ngày hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoặc kể từ ngày được kết nạp. Đối với hợp tác xã, vốn góp của…

Giá trị vốn góp được xác định như thế nào?

Trả lời: Xác định giá trị vốn góp như sau: – Vốn góp là tiền đồng Việt Nam, các loại tài sản khác được quy đổi ra tiền đồng Việt Nam bao gồm ngoại tệ, hiện vật, giá trị quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các loại giấy tờ có giá tại thời điểm góp vốn. – Giá trị vốn…

Thế nào gọi là vốn điều lệ; vốn góp tối thiểu?

Trả lời: Vốn điều lệ: là tổng số vốn do thành viên, hợp tác xã thành viên góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Vốn góp tối thiểu: là số vốn mà cá nhân, hộ gia đình, pháp…

Muốn trở thành thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thì phải đáp ứng đủ các điều kiện gì?

Trả lời: Thành viên hội đồng quản trị hợp tác xã phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: – Là thành viên hợp xác xã; – Không đồng thời là thành viên ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, kế toán trưởng, thủ quỹ của cùng hợp tác xã và…

Số lượng, nhiệm kỳ; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên được quy định như thế nào?

Trả lời: Số lượng, nhiệm kỳ; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên được quy định như sau: * Đối với hội đồng quản trị: – Hội đồng quản trị hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã do hội nghị thành lập hoặc đại hội thành viên bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo thể thức…

Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên hợp tác xã có nhiệm vụ, quyền hạn gì?

Trả lời: Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên hợp tác xã chịu trách nhiệm trước đại hội thành viên và có nhiệm vụ, quyền hạn sau: – Kiểm tra, giám sát hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật và điều lệ; – Kiểm tra việc chấp hà…

Giám đốc (tổng giám đốc) hợp tác xã được quy định như thế nào?

Trả lời: Giám đốc (tổng giám đốc) hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được quy định như sau: – Giám đốc (tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. – Giám đốc (tổng giám đốc) có quyền hạn và nhiệm vụ sau đây…

Chủ tịch Hội đồng quản trị có quyền hạn và nhiệm vụ gì? Thành viên hội đồng quản trị có được kiêm giám đốc (tổng giám đốc) của hợp tác xã đó không?

Trả lời: Quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị được quy định như sau: – Là người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. – Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của hội đồng quản trị và phân công nhiệm vụ cho các thành viên hội đồng quản trị. -…

Hợp tác xã có được thành lập doanh nghiệp trực thuộc không? Nếu được thì hình thức tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp trực thuộc như thế nào?

Trả lời: Theo khoản 3 Điều 3 Luật Hợp tác xã năm 2012: “Khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp…

Biểu quyết trong đại hội thành viên được quy định như thế nào?

Trả lời: Biểu quyết trong đại hội thành viên được quy định như sau: – Các nội dung sau đây được đại hội thành viên thông qua khi có ít nhất 75% tổng số đại biểu có mặt biểu quyết tán thành: + Sửa đổi, bổ sung điều lệ; + Chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản hợp tác…

Trả lời: 1. Thông qua báo cáo kết quả hoạt động trong năm; báo cáo hoạt động của hội đồng quản trị và ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên; 2. Phê duyệt báo cáo tài chính, kết quả kiểm toán nội bộ; 3….

Luật Hợp tác xã năm 2012 có quy định gì mới về công tác triệu tập đại hội thành viên?

Trả lời: Điểm mới chính trong công tác triệu tập đại hội thành viên được quy định trong Luật Hợp tác xã năm 2012 như sau: – Hội đồng quản trị triệu tập đại hội bất thường khi không tổ chức được cuộc họp định kỳ sau hai lần triệu tập; – Quá 03 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính mà…

Có mấy loại đại hội thành viên? Đại hội thành viên được tổ chức với hình thức và thành phần như thế nào?

Trả lời: Đại hội thành viên gồm đại hội thành viên thường niên và đại hội thành viên bất thường. Hình thức tổ chức đại hội thành viên: Đại hội thành viên được tổ chức dưới hình thức đại hội toàn thể hoặc đại hội đại biểu. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…

Cơ cấu tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được quy định như thế nào? Có khác gì so với cơ cấu tổ chức hợp tác xã quy định trong Luật Hợp tác xã năm 2003?

Trả lời: Cơ cấu tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gồm: đại hội thành viên, hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) và ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên. Điểm khác nhau chủ yếu của điều này là: – Tổ chức của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…

Vì sao Luật Hợp tác xã năm 2012 thay đổi cụm từ “Chứng nhận đăng ký kinh doanh” thành “chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã”?

Trả lời: Thay đổi từ đăng ký kinh doanh hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) thành đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cũng như đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp (Nghị định số 88/2006/NĐ-CP) được thay đổi thành đăng ký doanh nghiệp (Nghị…

Vì sao Điều lệ hợp tác xã không còn nội dung quy định riêng về người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như Luật Hợp tác xã năm 2003?

Trả lời: Luật Hợp tác xã năm 2003 quy định trong điều lệ của hợp tác xã phải có nội dung riêng về người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã vì cơ cấu tổ chức bộ máy của hợp tác xã có 02 hình thức, nên người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã có thể…

Điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bao gồm những nội dung gì? Ngoài điều lệ, hợp tác xã còn có thể có các quy định nào khác?

Trả lời: Điều lệ bao gồm những nội dung sau: – Tên gọi, địa chỉ trụ sở chính; biểu tượng (nếu có). – Mục tiêu hoạt động. – Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh. – Đối tượng, điều kiện, thủ tục kết nạp, thủ tục chấm dứt tư cách thành viên; biện pháp xử lý đối với thành viên nợ quá hạn. – Mức độ…

Người nào có quyền tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã? Khi nào tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã? Thành phần tham gia hội nghị gồm những ai? Nội dung hội nghị như thế nào?

Trả lời: Hội nghị thành lập hợp tác xã do sáng lập viên tổ chức. Tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã khi đã chuẩn bị đầy đủ các nội dung công việc và điều kiện cần thiết. Thành phần tham gia hội nghị thành lập hợp tác xã bao gồm sáng lập viên là cá…

Ai có thể là sáng lập viên? Sáng lập viên phải làm những gì để chuẩn bị thành lập hợp tác xã?

Trả lời: Sáng lập viên hợp tác xã là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện cam kết sáng lập, tham gia thành lập hợp tác xã. Sáng lập viên liên hiệp hợp tác xã là hợp tác xã tự nguyện cam kết sáng lập, tham gia thành lập liên…

Tư cách thành viên, hợp tác xã thành viên bị chấm dứt trong trường hợp nào? Thẩm quyền quyết định chấm dứt tư cách thành viên, hợp tác xã thành viên được quy định như thế nào?

Trả lời: Tư cách thành viên, hợp tác xã thành viên bị chấm dứt trong các trường hợp sau: a) Thành viên là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị kết án phạt tù theo quy…

Nghĩa vụ của thành viên đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như thế nào?

Trả lời: Thành viên và đơn vị thành viên có các nghĩa vụ đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như sau: – Sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo hợp đồng dịch vụ. – Góp đủ, đúng thời hạn vốn góp đã cam kết theo quy…

Hợp Tác Xã Đầu Tiên Chuyển Đổi Theo Luật Hợp Tác Xã Năm 2012

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (HTX) Tân Cường (xã Phú Cường, huyện Tam Nông) thành lập năm 2000. Ngày 29/10/2014, HTX đã tổ chức đại hội bất thường chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012 và thành lập Xí nghiệp chế biến lúa gạo trực thuộc HTX. Đây được xem là tiền đề quan trọng đưa HTX phát triển theo yêu cầu của sản xuất nông nghiệp hiện đại và tinh thần Đề án tái cơ cầu ngành nông nghiệp của tỉnh. Trụ sở Hợp tác xã Tân Cường

Theo ông Nguyễn Văn Trãi – Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT) kiêm Giám đốc HTX, thực hiện Luật HTX mới thì vị thế của HTX được nâng lên tầm cao hơn, vai trò của HTX được khẳng định rõ ràng, từ cơ cấu bộ máy được phân định, đến việc HTX được tự chủ trong hoạt động, trách nhiệm của từng thành viên cũng được thể hiện rõ, Luật mới cũng thể hiện rất chi tiết các mô hình hoạt động HTX,… vì vậy chúng tôi rất yên tâm và cảm thấy phấn khởi. Hiện diện tích của HTX sau chuyển đổi được mở rộng từ 1.200ha lên 2.000ha, với 385 hộ nông dân. Vốn điều lệ 42,650 tỷ đồng, tăng thêm 42 tỷ đồng so với trước chuyển đổi. Số dịch vụ ngành nghề cũng tăng từ 6 lên 12 dịch vụ, bao gồm dịch vụ nước sạch nông thôn, tín dụng nội bộ và tất cả các khâu cung cấp giống, vật tư nông nghiệp, chăm sóc thu hoạch, đến tiêu thụ, tạm trữ lúa và xay xát chế biến gạo.

Đáng chú ý là điều lệ HTX quy định mỗi thành viên góp vốn không quá 5% tổng vốn điều lệ (thấp hơn 4 lần so với Luật HTX 2012). Ông Trãi cho biết thêm, theo Luật HTX 2012 quy định, vốn góp cổ phần tối đa là 20% nhưng qua nghiên cứu, tham khảo ý kiến bà con nông dân, nếu để vốn góp quá cao thì nhiều bà con trong vùng sẽ không có cổ phần tham gia nên HĐQT xác định giảm số cổ phần tối đa không quá 5% vốn điều lệ cho mỗi hộ và không bị ràng buộc theo địa bàn cư trú. Theo đó, dù có đất hay không có đất sản xuất trong diện quản lý của HTX đối với những cá nhân có nhu cầu hợp tác và sử dụng dịch vụ của HTX đều có quyền góp vốn để trở thành thành viên của HTX. Việc mở rộng thành phần tham gia HTX cũng là cách mở rộng thị trường bởi hiện nay sản phẩm của HTX chỉ cung cấp cho các thành viên, nếu có nhiều thành phần tham gia thị trường của HTX sẽ lớn mạnh thêm.

Đặc biệt, mô hình chuyển đổi lần này là HTX Tân Cường còn thành lập Xí nghiệp chế biến lúa gạo trực thuộc HTX, hạch toán độc lập theo Luật HTX 2012. Xí nghiệp có vốn hoạt động gần 42 tỷ đồng, sẽ thực hiện bao tiêu, tạm trữ lúa và chế biến, tiêu thụ gạo cho toàn bộ sản lượng khoảng 30.000 tấn/năm của HTX và các diện tích khác trên địa bàn xã Phú Cường. Ông Trãi tâm huyết, từ trước đến nay bà con nông dân chỉ sản xuất ra lúa, bán lúa tươi, khâu chế biến lúa gạo thì do một thành phần khác đảm trách, từ đó không biết được chất lượng sản phẩm của mình như thế nào. Do đó, HTX thành lập xí nghiệp chế biến lúa gạo nhằm giúp bà con có nhiều hình thức để tiếp cận với thị trường. Thứ nhất bà con có thể ký gửi hoặc bán lúa tươi (khô) cho HTX, qua đó thu nhập của bà con sẽ tăng dần trong chế biến. Thứ 2 là qua việc tổ chức lại sản xuất, HTX sẽ đăng ký được thương hiệu hàng hóa để người tiêu dùng biết đến những sản phẩm của HTX Tân Cường.

Có thể nói rằng trong bối cảnh phát triển kinh tế hợp tác, HTX còn không ít khó khăn, thì thành công hơn 10 năm qua của HTX Tân Cường được xem là một cách làm mới, hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp hiện đại. Đó là những nỗ lực của HTX trong việc tìm kiếm phát triển thị trường, phát triển nhiều ngành nghề, dịch vụ nâng cao hiệu quả hoạt động để đủ sức cạnh tranh với các đơn vị doanh nghiệp trên địa bàn, đồng thời tạo niềm tin ngày càng vững chắc cho xã viên của HTX.

Thảo Vy

Tiểu Luận Luật Hành Chính

Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.

Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.

Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt,được sinh ra với mục đích duy trì và thúc đẩy xã hội phát triển. Trong quản lí xã hội, Nhà nước cần phải xây dựng cũng như ban hành ra quyết định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống, Và việc xây dựng cũng như ban hành ra các quyết định pháp luật được xem là phương tiện hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ đó. Trong đó hoạt động ban hành quyết định hành chính đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lí hành chính Nhà nước. Nó giúp cho bộ máy hành chính hoạt động hài hòa,nhịp nhàng, các quyền và nghĩa vụ của công dân được thực hiện trên thực tế. Và để hiểu rõ hơn về vấn đề này em chọn đề bài” phân tích khái niệm quyết định hành chính và nêu vai trò của quyết định hành chính trong quản lí hành chính Nhà nước” .

Quyền lực nhà nước được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp.Một trong những biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà nước là ra các quyết định pháp luật. Theo đó, Quyết định pháp luật được chia thành quyết định lập pháp,quyết định hành chính và quyết định tư pháp.Trong đó, hoạt động ban hành quyết định hành chính là hoạt động đặc biệt quan trọng. Đồng thời theo sự phân công thực hiện quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, mỗi nhóm quyết định chủ yếu được ban hành bởi loại cơ quan nhất định phù hợp với chức năng của cơ quan đó. Trong đó quyết định hành chính chủ yếu được được ban hành bởi cơ quan có chức năng quản lí hành chính Nhà nước-cơ quan hành chính nhà nước. Các quyết định hành chính của cơ quan này ban hành phản ánh đầy đủ ,rõ ràng những tính chất, đặc điểm, yêu cầu của quản lí hành chính Nhà nước trong từng lĩnh vực, từng thời kì cụ thể.

Về quyết định hành chính,hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau và những quan điểm này không chỉ khác nhau về tên gọi của quyết định mà còn khác nhau cả về tính chất cũng như nội dung của quyết định.

* Thứ nhất, có quan điểm cho rằng đó là quyết định quản lí hành chính Nhà nước, bởi lẽ những quyết định này là của chủ thể quản lí hành chính Nhà nước.Theo giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam, quyết định này được định nghĩa như sau”quyết định quản lí hành chính Nhà nước của cơ quan hành chính Nhà nước là kết quả của sự thể hiện ý chí đơn phương của cơ quan hành chính Nhà nước,người có thẩm quyền, trên cơ sở và để thi hành luật,được ban hành theo trình tự,thủ tục và hình thức do pháp luật quy định làm phát sinh,thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể,đặt ra,sửa đổi,bãi bỏ qui phạm pháp luật hành chính hoặc làm thay đổi hiệu lực pháp lí của chúng,đặt ra những chủ trương,chính sách,nhiệm vụ của hoạt động quản lí hành chính Nhà nước.”(1).

* Thứ hai, có quan điểm lại cho rằng đó là quyết định quản lí nhà nước,tuy nhiên phải hiểu theo nghĩa hẹp(quản lí hành chính). Theo giáo trình luật hành chính hành chính Việt Nam của khoa luật, đại học Quốc Gia Hà Nội”quyết định quản lí hành chính nhà nước là kết quả của sự thể hiện ý chí đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,những người có chức vụ,và các cơ quan của các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền,được thực hiện trên cơ sở và để thi hành luật,theo trình tự và hình thức do luật định,nhằm định ra chủ trương,đường lối,nhiệm vụ lớn có tính chất định hướng,hoặc đặt ra,sửa đổi,áp dụng,bãi bỏ các qui phạm pháp luật hành chính hay làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng;hoặc làm phát sinh,thay đổi chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể,để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lí nhà nước”(2)

Những quan điểm nêu trên không chỉ khác nhau về tên gọi của quyết định hành chính mà còn được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau:

– Dưới góc độ hình thức, quyết định hành chính thường được tiếp cận ở 2 khía cạnh một là, quyết định hành chính gồm quyết định bằng văn bản, quyết định bằng lời nói, dấu hiệu, kí hiệu; hai là: quyết định hành chính chỉ là quyết định bằng văn bản

– Dưới góc độ tính chất cũng có những cái nhìn khác nhau về quyết định hành chính: một là quyết định hành chính chỉ là quyết định cá biệt; hai là quyết định hành chính bao gồm quyết định cá biệt, quyết định qui phạm và quyết định chủ đạo

Từ những cơ sở nêu trên có thể định nghĩa về quyết định hành chính như sau:”quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật,nó là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực của nhà nước thông qua những hành vi trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành theo một trình tự dưới những hình thức nhất định theo qui dịnh của pháp luật,nhằm đưa ra những chủ trương,biện pháp,đặt ra các qui tắc xử sự hoặc áp dụng những qui tắc đó giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội nhằm thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước.”(3)

Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp nên quyết định hành chính vừa mang những đặc điểm chung của quyết định pháp luật, vừa mang những đặc điểm riêng.

Đặc điểm chung:

– Quyết định hành chính mang tính quyền lực Nhà nước:tính quyền lực nhà nước trước hết thể hiện ở chỗ quyết định hành chính được ban hành nhiều chủ thể khác nhau như các chủ thể nằm trong bộ máy nhà nước, các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, ngoài ra theo nghĩa rộng có thể có các chủ thể được nhà nước trao quyền trong những trường hợp cụ thể nhưng tất cả các chủ thể này đều sử dụng quyền lực nhà nước,nhân danh nhà nước khi ban hành quyết định. Tuy nhiên việc sử dụng quyền lực này còn đòi hỏi phải đúng thẩm quyền mà pháp luật qui định nhằm đảm bảo sự hài hòa,thống nhất trong quá trình sử dụng quyền lực của các bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước…Không chỉ thế tính quyền lực nhà nước còn được thể hiện ở tính đảm bảo thi hành các quyết định hành chính trong thực tế. Bởi lẽ về nguyên tắc,mọi quyết định hành chính đều phải được thi hành, kể cả những quyết định có sự phản kháng từ phía đối tượng quản lí, có nghĩa là quyết định sẽ được đảm bảo bằng biện pháp cưỡng chế của nhà nước khi cần thiết. Ngoài ra quyền lực nhà nước còn được thể hiện trong việc các chủ thể có thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để đảm bảo thực hiện ý chí của nhà nước như các biện pháp về kinh tế,giáo dục, thuyết phục…

– Được ban hành theo những hình thức và thủ tục do pháp luật qui định: do đóng vai trò quan trọng và phạm vi ảnh hưởng của quyết định hành chính đối với đời sống xã hội, quyết định hành chính được ban hành theo những trình tự và thủ tục chặt chẽ.

Ngoài những đặc điểm chung nêu trên,quyết định hành chính còn có những đặc điểm riêng sau đây:

– Thứ nhất,đó là tính dưới luật: nghĩa là quyết định hành chính phải được ban hành trên cơ sở luật; không được trái với luật và quyết định hành chính được ban hành để hướng dẫn thi hành luật, cụ thể hóa và chi tiết hóa luật; đặc biệt đối với những vấn đề phức tạp, mới mẻ. Ví dụ như: Nghị định của Chính phủ số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật đất đai được ban hành trên cơ sở luật đất đai năm 2003 do Quốc hội ban hành;và nghị định này được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành luật đất đai, cụ thể hóa và chi tiết hóa luạt đất đai.

– Thứ hai, Quyết định hành chính do nhiều chủ thể ban hành: Chính phủ, thủ tướng chính phủ,bộ trưởng,thủ trưởng cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân,..

– Thứ ba,quyết định hành chính mang tính chấp hành- điều hành : các cơ quan quản lí Nhà nước ban hành các quyết định hành chính để thực hiện nhiệm vụ và chức năng quản lí hành chính nhà nước, đó là chấp hành các văn bản luật của cơ quan quyền lực Nhà nước và điều hành hoạt động của các đối tượng chịu sự quản lí.

– Thứ tư, quyết định hành chính được ban hành theo thủ tục hành chính

– Thứ năm,quyết định hành chính có những mục đích và nội dung rất phong phú, xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động quản lí hành chính Nhà nước.

Như chúng ta đã biết quyết định hành chính là phương tiện không thể thiếu trong quản lí hành chính nhà nước mà các chủ thể quản lí sử dụng để thực hiện hầu hết các chức năng quản lí như tổ chức, lãng đạo, kiểm tra… Trong quản lí hành chính nhà nước, quyết định hành chính có vai trò đặc biệt quan trọng. Quyết định hành chính như một công cụ cơ bản để thực hiện nhiệm vụ, chức năng quản lí hành chính nhà nước. Trong quản lí hành chính nhà nước quyết định hành chính có những vai trò cụ thể sau:

– Thứ nhất, đề ra những chủ trương, chính sách lớn trong quản lí hành chính nhà nước. Thông qua quyết định hành chính cơ quan hành chính đề ra các chủ trương, đường lối, nhiệm vụ, biện pháp lớn để quản lí hành chính nhà nước. Ví dụ như: nghị quyết số 11/2011/NQ-CP về các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.

– Thứ hai, hướng dẫn thi hành luật,cụ thể hóa,chi tiết hóa luật, thể chế đường lối chủ trương, chính sách của Đảng. Ví dụ như nghị định của Chính Phủ số 181/2004/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành luật đất đai.

– Thứ ba, đặt ra các qui tắc xử sự để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong thực tiễn quản lí hành chính nhà nước.

– Thứ tư,quyết định hành chính được dùng để giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội nhằm thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước( quyết định hành chính áp dụng pháp luật). Ví dụ như quyết định 187/QĐ-UBND về phê duyệt kế hoạch công tác cải cách hành chính tỉnh Thái Bình năm 2011.

– Thứ nhất, đã kịp thời ban hành để thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách, của Đảng và Nhà nước, các cấp ủy trong việc hướng dẫn áp dụng luật, pháp lệnh và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với tình hình, đặc điểm, yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể. Tư đó hỗ trợ chi việc triển khai có hiệu quả các giải pháp nhằm ngăn ngừa suy giảm và giúp tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội,đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

– Thứ hai, chất lượng của quyết định hành chính ngày càng nâng cao, thể hiện rõ nét ở chất lượng ngày càng cao của văn bản quản lí hành chính nhà nước. Tình hình ban hành không dúng thẩm quyền, có nội dung trái với văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, chồng chéo, mâu thuẫn với văn bản quả lí hành chính khác do các chủ thể cùng cấp ban hành hoặc có nội dung không phù hợp với thực tế ngày càng giảm bớt.

– Thứ ba, quyết định hành chính dùng trực tiếp giải quyết các công việc cụ thể của quản lí hành chính đã kịp thời ban hành, phần lớn có chất lượng cao, đáp ứng các yêu cầu về tính hợp pháp, hợp lí, góp phần giải quyết một cách nhanh chóng các quan hệ pháp luật cụ thể nảy sinh trong quản lí hành chính nhà nước. Ví dụ như: vào đầu tháng 1/2013 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 189/QĐ-TTg về việc hỗ trợ 18.999 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia hỗ trợ 12 địa phương gồm Cao Bằng ; Quảng Ngãi; Nghệ An ; Hà Tĩnh; Quảng Trị; Quảng Bình; Kon Tum; Bình Định; Lào Cai ; Phú Yên ; Thanh Hóa ; Quảng Nam để cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ và giáp hạt năm 2013(4).

– Thứ nhất, vẫn còn tình trạng quyết định hành chính không được thi hành trong thực tế: các quyết định hành chính là công cụ cơ bản của quản lí hành chính nhà nước, với vai trò đó quyết định hành chính đòi hòi sự thi hành nghiêm chỉnh của các đối tượng chịu sự tác động, có như vậy hoạt động quản lí hành chính nhà nước mới đạt được mục tiêu, pháp luật và nhà nước mới có được quyền lực thực sự với xã hội. Ngược lại sẽ dẫn đến tình trạng giảm sự hiệu quả quản lí, pháp luật và nhà nước sẽ bị coi thường, từ đó kéo theo nhiều hệ lụy nguy hiểm.

– Thứ hai, vẫn còn những quyết định hành chính cá biệt ban hành trái thẩm quyền. Ví dụ như Quyết định số 4040/QĐ-UBND ngày 21-11-2011 về cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương ứng số để bán đấu giá và cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng trái phép trên diện tích đất lấn chiếm của UBND huyện Đức Cơ là quyết định trái pháp luật vì theo Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18-3-2005 của Chính phủ quy định về thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính, Thông tư số 16/2010/TT-BTNMT ngày 26-8-2010 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai là của Chủ tịch UBND huyện nhưng quyết định số 4040/QĐ-UBND ngày 21-11-2011 lại do UBND huyện Đức Cơ ban hành là không đúng thẩm quyền.(5)

– Về xây dựng, ban hành quyết định hành chính : khi xây dựng quyết định hành chính phải kết hợp hài hòa giữa chi tiết và kết quả của mỗi văn bản, giúp văn bản dễ dàng và nhanh chóng đi vào cuộc sống

– Về tổ chức thực hiện quyết định hành chính: cần tăng cường phối hợp giữa những cơ quan như ủy ban nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội khác..Điều này góp phần đảm bảo cho quyết định hành chính được thực hiện một cách nghiêm minh trên thực tế.

* Trong hoạt động thực thi quyết định hành chính cần tăng cường sự chỉ đạo phối hợp hoạt động giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lí hành chính nhà nước.

* Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện các quyết định hành chính

* Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về xây dựng các quyết định hành chính trên phương tiện thoongti đại chúng để mọi người hiểu rõ ý nghĩa và tác động của quyết định hành chính để từ đó nâng cao tinh thần pháp luật của người dân

* Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các quyết định hành chính để kịp thời thông báo tình hình, kết quả thực hiện, đánh giá mặt làm được, những vấn đề tồn tại để có biện pháp chấm dứt và khắc phục giúp tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết kịp thời các yêu cầu chính đáng cảu người dân.

Ngoài ra cần cải cách tổ chức bộ máy hành chính và đổi mới cơ chế hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp; cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trên mọi lĩnh vực, thực hiện các qui định về kiểm soát thủ tục hành chính, công khai hóa thủ tục hành chính nhằm đảm bảo tính công khao minh bạch; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ;đẩy mạnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Quản lí hành chính là việc chủ thể mang quyền lực nhà nước tác động lên đối tượng quản lí, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật và điều hành các hoạt động trong đời sống, hướng tới đạt mục tiêu đặt ra. Trong quá trình đó, quyết định hành chính được ban hành chủ yếu bởi cơ quan hành chính nhà nước như công cụ không thể thiếu để tác động vào quản lí xã hội.Trong thời gian qua, quyết định hành chính đã phát huy được vai trò nhất định của mình trong quản lí hành chính nhà nước, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy công cuộc đổi mới. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số bất cập cần tháo gỡ. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng của quyết định hành chính là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho mọi chủ thể trong tình hình bây giờ, Hi vọng rằng trong thời gian tới sẽ có nhiều nghiên cứu hơn về vấn đề này giúp nâng cao vai trò của quyết định hành chính trong quản lí hành chính nhà nước.

1. Trường đại học luật Hà Nội, giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội 2008

2. Khoa luật, Đại học Quốc Gia, giáo trình luật hành chính hành chính Việt Nam, Nxb.Đại học Quốc Gia

3. Nguyễn Thị Vân Anh, Khóa luận tốt nghiệp” quyết định hành chính-công cụ cơ bản của quản lí hành chính nhà nước”, Hà Nội 2012

4. Lê Ngọc Anh, khóa luận tốt nghiệp”vai trò của quyết định hành chính trong quản lí hành chính nhà nước”, Hà Nội 2011

Cập nhật thông tin chi tiết về Tiểu Luận Luật Hợp Tác Xã trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!