Xu Hướng 12/2023 # Tìm Hiểu Chung Về Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ # Top 19 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Chung Về Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ

– Tức nước vỡ bờ là đoạn trích thuộc chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn. Đây là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố, và cũng là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

b. Tóm tắt

       Gia đình anh Dậu nghèo khổ không có tiền nộp sưu. Anh Dậu vì thiếu sưu mà bị lôi ra đình đánh đập và khi được trả về chỉ còn là một thân xác rũ rượi. Đươc bà hàng xóm cho bát gạo, chị Dậu nấu cháo cho anh Dậu ăn. Nhưng anh chưa kịp ăn thì tên cai lệ và người nhà lí trưởng đến đòi sưu. Chị Dậu van xin chúng tha cho anh Dậu nhưng chúng không nghe mà còn đánh chị và sấn đến định trói anh Dậu mang đi. Quá phẫn nộ, chị đã liều cự lại và chống trả quyết liệt, quật ngã hai tên tay sai.

c. Bố cục: 2 phần

-Phần 1 (từ đầu… “ăn có ngon miệng hay không”): Cảnh chị Dậu chăm sóc chồng.

-Phần 2 (còn lại): Cảnh chị Dậu phản kháng.

2. Giá trị nội dung và nghệ thuật:

a. Giá trị nội dung

Vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời; xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh khổ cực, khiến họ phải liều mạng chống lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

b. Giá trị nghệ thuật

– Tình huống truyện đặc sắc, có kịch tính cao.

– Cách kể chuyện, miêu tả nhân vật chân thực, sinh động. Nghệ thuật tương phản làm nổi bật tính cách nhân vật.

– Ngòi bút hiện thực sinh động, ngôn ngữ đối thoại đặc sắc.

Ngữ Văn 8: Đọc Hiểu Tác Phẩm “Tức Nước Vỡ Bờ”

Những nội dung cơ bản cần nắm vững

1.1. Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước cách mạng. Ông nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực: khảo cứu triết học cổ và văn học cổ, viết báo, phóng sự, tiểu thuyết, dịch văn học..,

1.2. Tác phẩm Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của Ngô Tất Tố. Qua Tắt đèn, có thể thấy Ngô Tất Tố có thái độ yêu ghét rạch ròi, dứt khoát, sâu sắc và nhất quán của Ngô Tất Tố.

1.3. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ cho thấy bộ mặt tàn ác bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Đồng thời, đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu yêu thương, vừa có sức sống tiềm tàng,mạnh mẽ.

Vài nét về tác giả, tác phẩm

Ngô Tất Tố (1893 – 1954) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia, đóng góp ở nhiều lĩnh vực: viết báo, tiểu thuyết, phóng sự, khảo cứu triết học, văn học cổ, dịch thuật văn học… và ở lĩnh vực nào ông cũng gặt hái được những thành công.

Bên cạnh những công trình khảo cứu giá trị, Ngô Tất Tố có một khối lượng bài báo đồ sộ đề cập đến nhiều vấn đề thời sự, xã hội, chính trị. Với một lối viết sắc sảo, điêu luyện, giàu tính chiến đấu, một lập trường dân chủ tiến bộ; một phong cách chuyên nghiệp và một giọng điệu châm biếm “rất” Ngô Tât Tố . Ông đã được coi là “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho” – Vũ Trọng Phụng.

Rất gần với phong cách báo chí ấy nhưng dài hơi hơn, giàu chất văn học hơn là những thiên phóng sự: “Tập án cái đình” (1939), “Việc làng” (1940); … và khó có thể ngờ được rằng tác giả của những bài phóng sự sắc sảo, đanh thép ấy lại củng chính là người đã dịch những bài thơ Đường cổ điển rất thoát và rất có thần.

Ngô Tất Tố đặc biệt nổi tiếng với tư cách là một nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn và số phận người nông dân dưới chế độ phong kiến, thực dân lúc đó. “Tăt đèn” là tiểu thuyết tiêu biểu, cho mảng đề tài này.

Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn có tiểu thuyết “Lều chõng” tái hiện tỉ mỉ, sinh động chế độ thi cử đương thời với một cảm quan phê phán tính chất khắc nghiệt, tiêu cực, phản khoa học của nền giáo dục, khoa cử phong kiến lúc bấy giờ.

“Tắt đèn” có thể coi là tác phẩm tiêu biêu nhất trong sự nghiệp văn học của Ngô Tất TỐ. Lấy đề tài từ một vụ thuế ở một làng quê đồng bằng Bắc Bộ trong những năm 1930 – 1945, cuốn tiểu thuyết vừa phản ánh được nỗi thống khổ của người nông dân vừa lột trần được bộ mặt bất nhân, tàn ác của giai cấp thống trị.

“Tắt đèn” là một bức tranh thu nhỏ của nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với hàng loạt nhân vật điển hình, sinh động. Đó là vợ chồng tên địa chủ keo kiệt, tàn nhẫn; là bọn cường hào tham lam, hống hách; là tên quan bỉ ổi; là những người phụ nữ nông dân bị áp bức, chà đạp đến độ phải vùng lên phản kháng và dù bị vùi dập dưới bùn đen, họ vẫn giữ trọn những phẩm chất đẹp đẽ trong tâm hồn.

Với nghệ thuật tạo tình huống, ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh sinh động, những hình tượng điển hình.,, và một cảm quan hiện thực sâu săc, nhất quán, “Tắt đèn” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám. Cũng chính với tác phẩm này, Ngô Tất Tố được tôn xưng là “Nhà văn của nông dân”.

1. Câu hỏi 1 (GSK, trang 32)

Đọc phần tóm tắt ở đầu đoạn trích trong SGK (phần chữ nhỏ) để xác định tình cảnh chung của chị Dậu trước tình huống xảy ra trong đoạn trích này.

Khi bọn tay sai xông vào nhà chị Dậu, tình thế của chị đang rất nguy khốn: vụ thuế đang ở vào thời điểm gay gắt nhất, bọn tay sai đang dốc sức đốc thúc những người còn nợ SƯU vì quan sắp về làng thu thuế. Nhà chị Dậu thuộc dạng “cùng đinh”, đã phải chạy vạy hết cách, kể cả là bán con, bán chó mà vẫn chưa đủ tiền nộp SƯU. Anh Dậu bị bắt trói, cùm kẹp đến rũ rượi mới được thả về… Cả nhà đã nhịn đói mấy ngày, vừa mới được bà hàng xóm tốt bụng cho bát gạo để nấu cháo cầm hơi…

Khi bọn cai lệ, ngưòi nhà lí trưởng xông vào, chị Dậu bị đẩy vào một tình thê vô cùng nguy cấp: không có cách gì chạy tiền nộp SƯU mà nếu để anh Dậu bị bắt trói một lần nữa thì mạng sống khó mà giữ được… Hoàn cảnh bế tắc như không lối thòát.

2. Câu hỏi 2 (SGK, trang 32)

Phân tích nhân vật trên cơ sở gợi ý của SGK. Em có nhận xét gì về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật của tác giả: ngoại hình, hành động, ngôn ngữ của nhân vật được thể hiện như thế nào?

Cai lệ là viên chỉ huy một tốp lính lệ (lính phục vụ, hầu hạ nơi quan nha). Đây là viên chỉ huy cấp thấp nhất trong quân đội của chế độ thực dân phong kiến. Vối chức danh ấy, cai lệ hoàn toàn chỉ là một công cụ, tay sai không hơn không kém. Nhưng đây lại là một công cụ chuyên dụng, một công cụ bằng sắt.

Dù là một tên tay sai mạt hạng hắn cũng có quyền đánh trói người vô tội vạ bởi hắn đại diện cho “nhà nước”, cái nhà nước phong kiến – thực dân tàn bạo chà đạp lên quyền sống của ngưòi nông dân. Thực tế ấy được bộc lộ qua lòi cay đắng của anh Dậu: “Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì phải tù, phải tội”.

Chỉ trong một đoạn trích ngắn ngủi, Ngô Tất Tố đã xây dựng được một hình tượng nhân vật cai lệ rất điển hình với tính cách đậm nét và nhất quán. Những chi tiết miêu tả hành động của hắn “sầm sập tiến vào”; “trợn ngược hai mắt”; “đùng đùng giật phắt cái thừng”; “bịch luôn vào ngực chị Dậu”; “Sấn đến để tóm anh Dậu”; “Tát vào mặt chị Dậu đánh bốp”… cùng thống nhất thể hiện bản chất lỗ mãng, hung hăng, độc ác của hắn. Khi bản chất ấy lộ ra, người ta không còn ngạc nhiên khi thấy tên cai lệ này dưòng như không nghe được tiếng nói con người, không mảy may đếm xỉa đến lời van xin, giãi bày của chị Dậu, và cũng không nói được tiếng ngươi, chỉ thấy hắn “quát”, “thét”, “hầm hè”, “nham nhảm”.

Tác giả đã để chị Dậu đối đáp với cai lệ một vài câu và chỉ qua ngần ấy câu thôi, sự lỗ mãng, thô bạo của cai lệ một lần nữa được khẳng định. Lời giãi bày của chị Dậu càng lễ phép, có lí, có tình bao nhiêu thì lời đáp của cai lệ càng thô tục, hung hãn bấy nhiêu: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!”; “Nếu không có tiền nộp SƯU cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!”.

Với tên tay sai mẫn cán, đắc lực của giai cấp thông trị này, lòng trắc ẩn là một khái niệm không tồn tại. Hắn sẵn sàng thẳng tay đánh một người phụ nữ, sẵn sàng bắt trói một ngưòi ốm nặng đến độ không còn sức chống cự, thậm chí đến mạng sống cũng còn khó giữ. Hắn sẵn sàng dỡ nhà, cắm đất, đẩy một gia đình tới bước đưòng cùng chỉ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Như vậy, từ ngôn ngữ, cử chỉ đến hành động bủa cai lệ đều thể hiện một bản chất tàn bạo, phi nhân tính của hắn.

Đồng thời, như trên đã nói, cai lệ hành động vối tư cách là ngưòi thừa hành công vụ, là người nhà nước, do đó, hắn chính là đại diện tiêu biểu cho chê độ ấy. Bản chất tàn bạo của hắn cũng chính là bản chất tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Xét ở bình diện này, nhân vật cai lệ đã có một ý nghĩa khái quát hoá cao, là hiện thân sinh động của giai cấp thống trị nói chung, hệ thông địa chủ – cưòng hào ác bá ở nông thôn Việt Nam nói riêng lúc bấy giờ.

3. Câu hỏi 3 (SGK, trang 33)

Đọc lướt toàn đoạn trích, chú ý sự thay đổi trong cách xưng hô, giọng điệu, hành động của chị Dậu. Suy nghĩ giải thích căn nguyên của những hành động ấy.

Trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu được đặt vào một tình thế đặc biệt nguy khốn (đã phân tích ở Câu 1). Đó là một hoàn cảnh điển hình, thòi điểm mà tính cách nhân vật được bộc lộ rõ ràng và đầy đủ nhất.

Mở đầu đoạn trích, chị Dậu hiện lên với dáng vẻ của một ngựời vợ nghèo hiền hậu, yêu thương chồng con. Hành động lấy quạt, quạt cho cháo chóng nguội, “rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm”, “đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không”, giọng dịu dàng, lo lắng nói vối chồng… đều thể hiện điều đó.

Khi bọn cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào, chị đã van xin tha thiết. Dáng điệu run run, cách xưng hô cháu – ông, sắc mặt xám lại, lời lẽ quỵ luỵ… của chị đã cho thấy thân phận thấp cổ bé họng của người nông dân xưa. Họ bị áp bức đến độ phải nhẫn nhục chịu đựng, đến độ phải van xin cả những kẻ tay sai mạt hạng nhất của bọn quan lại. Nhưng những lời van xin tha thiết của chị không được đếm xỉa. Đến khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi sấn đến để trói anh Dậu”, chị đã “liều mạng cự lại”: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Hành động “cự lại” của chị lúc này vẫn chỉ là bằng lí lẽ. Chị nói đến cái lí đương nhiên trong cuộc sông, cái đạo lí tôi thiểu trong phép ứng xử giữa người với người. Chị không xưng “cháu” nữa mà xưng “tôi”. Bằng sự thay đổi đó, chị đã đứng thẳng lên, có vị thế ngang hàng với cai lệ. Nhưng rồi lí lẽ cũng chẳng ăn thua. Cai lệ vẫn tàn nhẫn thẳng tay “tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu”, chị đã vùng lên: “Chị Dậu nghiến hai hàm rằng: – Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Dương như sự tức giận, phẫn uất đã lên đến cao độ. Chị Dậu không còn ý thức kìm chế theo thân phận bị áp bức của mình nữa mà đã tự xưng là “bà”, gọi cai lệ là “mày”. Cách xưng hô ấy, câu nói hết sức “đanh đá” ấy cho thấy sự căm giận ngùn ngụt của chị. Vị thế giữa chị và cai lệ đã bị đảo ngược. Chị không còn là một người phụ nữ yếu đuôi, bé mọn nữa mà đang nhìn bọn tay sai với tư thê của người trên.

Cảnh tượng chị Dậu quật ngã cai lệ và người nhà lí trưởng thể hiện sức mạnh ghê gớm tiềm ẩn bên trong ngưòi phụ nữ “lực điền”. Đôi lập với bộ dạng thảm hại của hai tên tay sai, hình ảnh chị Dậu nổi bật lên với tư thế ngang tàng của ngưòi dám đứng lên tự bảo vệ lẽ công bằng cho bản thân và cho những ngưòi thương yêu. Sức mạnh ấy phải chăng chính là sức mạnh của lòng yêu thương? Sự thay đổi thái độ của chị Dậu, hành động bất ngờ, quyết liệt của chị do bị o bê quá mà thành “tức nước vỡ bò”. Dù là van xin, dù là cãi lí hay phản kháng… cũng chỉ là các cách khác nhau để bảo vệ người chồng ốm yếu trong tình thế nguy kịch. Hiểu như thế chúng ta mới thấy hành động quyết liệt, giọng điệu đanh đá của chị Dậu ở đoạn sau không hề mâu thuẫn với thái độ dịu dàng, nhẫn nhịn, lo lắng ở đoạn đầu, thậm chí còn bổ sung, thông nhất với nhau. Đơn giản vì đó là những biểu hiện khác nhau của một tấm lòng yêu thương chồng con rất mực.

Như vậy, nhân vật chị Dậu đã được xây dựng như một tính cách đa diện: hiền dịu, hi sinh nhưng không hề yếu đuối mà vẫn tiềm tàng một tinh thần phản kháng, một sức sống mạnh mẽ. Chị đã nhận thức được sự bất công và không chấp nhận: “Thà ngồi tù. Để chúng nó. làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”. Mặc dù, hành động của chị Dậu có tính chất bột phát, chưa giải quyết được vấn đề (sau đoạn này, cả nhà chị Dậu vẫn bị trói, điệu ra đình làng) nhưng đã khẳng định được sức mạnh tiềm tàng của người nông dân, ý thức của họ về sự bất công và báo trước một xu thế tất yếu sẽ xảy ra theo quy luật “Con giun xéo lắm cũng quằn”.

4. Câu hỏi 4 (SGK, trang 33)

Cần hiểu ý nghĩa của thành ngữ “Tức nước vỡ bờ” dựa vào nội dung đoạn trích để tìm ra những lí do dẫn đến việc đặt tiêu đề đó.

Nhan đề “Tức nước vỡ bờ” đặt cho đoán trích này rất thoả đáng. Trước hết, đây là một thành ngữ dân gian; với đặc điểm súc tích, giàu ý nghĩa của những cụm từ cấu trúc kiểu này, nhan đề “Tức nước vỡ bờ” vừa thông nhất, vừa bổ sung, làm nổi bật ý nghĩa của đoạn trích.

Thành ngữ “Tức nước vỡ bờ” là một kinh nghiệm mà ông cha ta đã đúc kết, nêu lên một chân lí khách quan: Một sự vật khi bị dồn nén đến một mức độ nhất định tất yếu sẽ phá vỡ khuôn khổ ấy. Có thể nói hành động của chị Dậu được thể hiện trong đoạn trích chính là điểm gặp gỡ giữa Ngô Tất Tô” và tư tưởng người xưa khi cùng thể hiện lôgíc cuộc sống: có áp bức tất có đấu tranh. Rõ ràng, bằng cảm quan hiện thực của mình, nhà văn đã nhận thức được xu hướng tất yếu của thời đại: Người nông dân bị chà đạp, áp bức quá tất sẽ vùng lên đấu tranh. Không chỉ thế, Ngô Tất Tố còn dự đoán trước được sức mạnh phản kháng sẽ vô cùng mạnh mẽ. Dù chưa vạch ra con đưòng đấu tranh tự giác mà sau này Cách mạng tháng Tám đã vạch ra cho nhân dân ta, nhưng với những nhận thức biện chứng, tiến bộ ấy, Ngô Tất Tố đã có một nền tảng để vững vàng đón nhận ánh sáng của Đảng, giác ngộ và hướng ngòi bút theo Cách mạng tháng Tám trong giai đoạn về sau.

5. Câu hỏi 5 (SGK, trang 33)

Chứng minh nhận định trên dựa trên cơ sở tìm hiểu việc tạo dựng tình huống, việc miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đôi thoại trong đoạn văn ấy.

Đọc đoạn văn “Tức nước vỡ bờ”, chúng ta có cảm giác như đang xem một vở kịch ngắn, trong đó đoạn chị Dậu đánh nhau với hai tên tay sai chính là phần mở nút. Tính kịch không chỉ được thể hiện ở chỗ tác giả chú trọng đến ngôn ngữ đốì thoại, hành động, cử chỉ của nhân vật mà chủ yếu là ở tài tạo lập tình huống, dàn dựng các chi tiết, thúc đẩy sự kiện diễn biến theo một chiều hướng đầy kịch tính. Phải chăng vì lẽ đó, nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”?

Trước hết, cái “khéo” của Ngô Tất Tố là đã đấy nhân vật vào một tình huống mà mâu thuẫn đã đạt đến độ gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết: chị Dậu phải tìm mọi cách để đối phó với tên cai lệ và ngưòi nhà lí trưởng, bảo vệ tính mạng cho ngươi chồng đau ốm. Hoàn cảnh điển hình ấy là điều kiện tiên quyết để một nhân vật được nâng lên thành tính cách điển hình.

Trong đoạn trích, ngôn ngữ đốì thoại trở thành một phương tiện hữu hiệu để tác giả khắc hoạ tính cách nhân vật. Đối lập với những lòi nói có lí, có tình của chị Dậu, thì ngôn ngữ thô tục, lỗ mãng của tên cai lệ không thể lẫn và che giấu được một bản chất tàn ác, bất nhân.

Đặc biệt, ngôn ngữ tác giả với giọng điệu châm biếm đã tạo nên vẻ đa diện, sự cuốn hút của đoạn văn. Ngô Tất Tố đã miêu tả cảnh tượng chị Dậu quật ngã hai tên tay sai một cách sinh động với giọng điệu hài hước ấy. Tiếng cười hả hê của ngưòi đọc bật lên khi được chứng kiến sự đối lập giữa một bên là chị Dậu với tư thế ngang tàng, sức mạnh ghê gớm và một bên là bộ dạng thảm hại của hai tên tay sai. Tên cai lệ “lẻo khoẻo” bị chị Dậu “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa”, “ngã chổng quèo trên mặt đất”, còn tên ngưòi nhà lí trưởng cũng chẳng khá hơn, bị “túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Sự hài hước còn toát lên ở chỗ, vừa ngay trước khi bị “chị chàng con mọn” làm cho bẽ mặt, cai lệ và tên ngưòi nhà lí trưởng còn hùng hổ, dữ tợn, tay gậy, tay thước doạ nạt chị. Lúc đó, chúng hung hăng bao nhiêu thì giờ đây chúng thảm bại, tơi tả bấy nhiêu. Trong vài dòng miêu tả, Ngô Tất Tô đã thực hiện việc mở nút “vở kịch” của mình một cách “tuyệt khéo”: các hành động dồn dập nhưng không rối, trái lại, rất rõ nét, đầy đủ, không thừa, không thiếu. Nhờ thế, Ngô Tất Tô” đã “làm cho độc giả hả hê một chút sau khi đọc những trang rất buồn thảm” (Vũ Ngọc Phan). Đó là sự hả hê khi được chứng kiến sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác trong xã hội xưa.

Chúng ta cũng không thể không nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật qua việc khắc hoạ diễn biến tâm lí rất tiêu biểu của Ngô Tất Tô trong đoạn văn này. Thái độ, tâm trạng, kéo theo hành động của chị Dậu thay đổi từ chỗ dịu dàng, nhún nhường, nín nhịn, lễ phép, thậm chí quỵ luỵ đến chỗ cứng cỏi, đanh thép và cuôì cùng là quyết liệt, ghê gớm. Diễn biến ấy được miêu tả chân thực, sinh động và hợp lôgíc. Nó khiến cho tính cách nhân vật trở nên đa dạng mà vẫn nhất quán, giàu tính hiện thực.

Như vậy, với sự tài tình trên mọi phương diện (nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tao dựng tình huống, ngôn ngữ…), Ngô Tất Tô đã rất thành công trong đoạn trích này nội riêng và trơng tiểu thuyêt “Tắt đèn” nói chung. Đến đây, có thể khẳng định rằng lòi nhận xét của Vũ Ngọc Phan về đoạn văn là hoàn toàn xác đáng.

6. Câu hỏi 6 (SGK, trang 33)

Giải thích nhận xét của Nguyễn Tuân trước khi đi vào chứng minh. Đặt tác phẩm trong bối cảnh ra đòi để hiểu hơn ý nghĩa “xui người nông dân nổi loạn” của tiểu thuyết này.

Như Nguyễn Tuân đã nhận xét, vối tác phẩm “Tắt đèn”, Ngô Tất Tô” đã “xui ngưòi nông dân nổi loạn”. Điều đó có nghĩa là khẳng định giá trị hiện thực và khả năng tác động mạnh mẽ của tác phẩm này. Với cuốn tiểu thuyết của mình, Ngô Tất Tố đã phơi bày bộ mặt xấu xa, đê tiện của bọn địa chủ, cường hào ác bá; đã chỉ ra cho người nông dân thấy rằng cuộc sông của họ đã khổ quá rồi và họ chỉ còn cách phải đấu tranh, không thể chịu đựng hơn được nữa; đồng thòi nhắc họ rằng trong con người họ đang tiềm tàng một sức mạnh ghê gớm cần được phát huy.

Chỉ riêng đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” cũng bao hàm đầy đủ những giá trị đó.

Qua tình huống giằng co giữa một bên là gia đình chị Dậu nghèo xác xơ, không có tiền đóng thuế, đang bị đẩy đến bước đường cùng với một bên là những kẻ đốc thúc, thu thuế cho bằng được; tác giả đã phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của bọn tay sai nói riêng, của chế độ xã hội đương thời nói chung. Đọc lên, chúng ta không thể không căm giận trước cái ác nghiễm nhiên hoành hành như thế. Bên cạnh đó, tình cảnh khổ sở của gia đình chị Dậu không chỉ khơi gợi niềm cảm thương mà chắc chắn còn khiến độc giả thời đó tự nhìn nhận, ý thức sâu sắc hơn nữa cảnh ngộ của chính mình hay những người xung quanh mình. Quan trọng hơn cả, bằng hành động phản kháng quyết liệt của chị Dậu và sự chiến thắng của chị, tư thế của chị; tác giả đã khẳng định một chân lí cuộc sông “Tức nước vỡ bờ”, đã dự báo xu thế đấu tranh tất yếu của ngưòi dân bị áp bức. Đồng thời, khẳng định sức mạnh tiềm tàng của họ. Một khi người ta đã ý thức được nỗi khổ của mình, ý thức được nguyên nhân nỗi khổ, ý thức được vũ khí, sức mạnh mà họ có, lẽ đương nhiên người ta sẽ đấu tranh. Nói Ngô Tất Tô” đã “xui người nông dân nổi loạn”, chính là vì thế!

Giá trị đặc sắc hơn cả của “Tắt đèn” là ở chỗ đã xây dựng được một điển hình chân thực, đẹp đẽ, khoẻ mạnh về ngưòi phụ nữ nông dân lao động. Qua nhân vật chị Dậu, tác giả không những thấu hiểu nỗi thông khổ của ngưòi nông dân bị áp bức bóc lột mà còn khang định phẩm chất đẹp đẽ ỏ họ, không gì có thể vùi dập. Tác phẩm có những trang thật cảm động, miêu tả nỗi lòng người mẹ, người vợ của chị Dậu. Chị còn là một phụ nữ lao động đảm đang, tháo vát, thông minh. Sống trong nghèo khổ, chị vẫn có một ý thức về nhân phẩm trong trắng mà mạnh mẽ, tiền tài không thể làm vẩn đục, bạo lực không thể khuất phục. Chị Dậu rất mực dịu hiền nhưng không hề yếu đuôi. Khi cần, chị phản kháng dũng cảm, thể hiện một sức sống kiên cường, bất khuất của người nông dân Việt Nam.

Tác Phẩm: Tức Nước Vỡ Bờ (Trích “Tắt Đèn”)

Nội dung

(Mở đầu tác phẩm là không khí căng thẳng, ngột ngạt của một làng quê trong những ngày sưu thuế. Tiếng trống mõ, tù và inh ỏi, tiếng thét lác, đánh đập, tiếng kêu khóc vang lên như trong một cuộc săn người. Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” nên mấy hôm nay chị phải chạy vạy ngược xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp. Chị đành phải rứt ruột đem cái Tí, đứa con gái đầu lòng 7 tuổi, bán cho lão Nghị Quế bên thôn Đoài. Ngờ đâu chị lại còn buộc phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái! Thật là cùng đường. Giữa đình làng, tiếng kêu uất ức của chị vang lên thảm thiết. Đêm hôm ấy, người ta cõng anh Dậu rũ rượi như một xác chết ở ngoài đình về trả cho chị. Gọi mãi anh không tỉnh chị vô cùng hoảng sợ, đau đớn. May sao, nhờ bà con xung quanh xúm đến cứu giúp, anh Dậu đã từ từ mở mắt. Một bà lão hàng xóm ái ngại cảnh cả nhà chị nhịn đói suốt từ hôm qua, mang đến cho chị bát gạo để nấu cháo…) Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc ra la liệt. Rồi chị lấy quạt quạt cho chóng nguội. Tiếng trống và tiếng tù và[1](!) đã thủng thẳng đua nhau từ phía đầu làng đến đình. Tiếng chó sủa vang các xóm. Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang: – Bác trai đã khá rồi chứ? – Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề lệt bệt[2] chừng như vẫn mỏi mệt lắm. – Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu[3], không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm rề rề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn.

– Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì. – Thế thì phải giục anh ấy ăn mau đi, kẻo nửa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy! Rồi bà lão lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn. Cháo đã hơi nguội. Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt. Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm: – Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không. Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào đến miệng, cai lệ[4] và người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước[5] và dây thừng. Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái(6) cũ: – Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau! Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai: – Anh ta lại sắp phải gió[6] như đêm qua đấy! Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu: – Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa! Chị Dậu run run: – Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ[7] tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…

Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát: – Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất! Chị Dậu vẫn thiết tha: – Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại! Cai lệ vẫn giọng hầm hè: – Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à! Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng: – Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia! Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu. Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn: – Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! -Tha này! Tha này! Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu. Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại: – Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu. Chị Dậu nghiến hai hàm răng:

– Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền[8], hắn ngã chỏng quèo[9] trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét đòi trói vợ chồng kẻ thiếu sưu. Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chàng “hầu cận[10] ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống vừa run vừa kêu: – U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội. Chị Dậu vẫn chưa nguôi cơn giận: – Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội[11] mãi thế, tôi không chịu được…

(Mở đầu tác phẩm là không khí căng thẳng, ngột ngạt của một làng quê trong những ngày sưu thuế. Tiếng trống mõ, tù và inh ỏi, tiếng thét lác, đánh đập, tiếng kêu khóc vang lên như trong một cuộc săn người. Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” nên mấy hôm nay chị phải chạy vạy ngược xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp. Chị đành phải rứt ruột đem cái Tí, đứa con gái đầu lòng 7 tuổi, bán cho lão Nghị Quế bên thôn Đoài. Ngờ đâu chị lại còn buộc phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái! Thật là cùng đường. Giữa đình làng, tiếng kêu uất ức của chị vang lên thảm thiết. Đêm hôm ấy, người ta cõng anh Dậu rũ rượi như một xác chết ở ngoài đình về trả cho chị. Gọi mãi anh không tỉnh chị vô cùng hoảng sợ, đau đớn. May sao, nhờ bà con xung quanh xúm đến cứu giúp, anh Dậu đã từ từ mở mắt. Một bà lão hàng xóm ái ngại cảnh cả nhà chị nhịn đói suốt từ hôm qua, mang đến cho chị bát gạo để nấu cháo…)Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc ra la liệt. Rồi chị lấy quạt quạt cho chóng nguội.Tiếng trống và tiếng tù và(!) đã thủng thẳng đua nhau từ phía đầu làng đến đình.Tiếng chó sủa vang các xóm.Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:- Bác trai đã khá rồi chứ?- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề lệt bệtchừng như vẫn mỏi mệt lắm.- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm rề rề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn.- Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì.- Thế thì phải giục anh ấy ăn mau đi, kẻo nửa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy!Rồi bà lão lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.Cháo đã hơi nguội.Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt. Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm:- Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không.Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào đến miệng, cai lệvà người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thướcvà dây thừng.Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái(6) cũ:- Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai:- Anh ta lại sắp phải giónhư đêm qua đấy!Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:- Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa!Chị Dậu run run:- Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễtiền sưu của nhà nước đâu?Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:- Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!Chị Dậu vẫn thiết tha:- Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!Cai lệ vẫn giọng hầm hè:- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:- Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu.Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!-Tha này! Tha này!Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.Chị Dậu nghiến hai hàm răng:- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèotrên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét đòi trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chàng “hầu cậnông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống vừa run vừa kêu:- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội.Chị Dậu vẫn chưa nguôi cơn giận:- Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tộimãi thế, tôi không chịu được…

Đọc Hiểu Văn Bản: Tức Nước Vỡ Bờ

Tuyển tập bằng BA CÁCH tuyệt hay. Cách soạn bài độc đáo với 3 nội dung NGẮN NHẤT, SIÊU NGẮN, CHI TIẾT hứa hẹn sẽ giúp bạn soạn văn 8 xuất sắc nhất

Khái quát tác phẩm: Tức nước vỡ bờ

Chị Dậu thương con đứt ruột vì vừa bán nó, chồng vừa mới trả về sau trận đánh tàn ác của kẻ đòi sưu. Vừa được người hàng xóm cho bát gạo chị Dậu bén nấu cho chồng ăn. Bát cháo chưa kịp ăn xong thì bè lũ cái lệ và người nhà lý trưởng kéo đến đòi sưu. Mặc cho những lời van xin thống thiết của chị Dậu, chúng vẫn hoành hành, hống hách chị. ” Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu xong vào đánh khiến cai lệ ngã chổng khoèo.

– Phần 1 (từ đầu … ngon miệng hay khôn g): Cảnh chị Dậu lo lắng chăm sóc cho chồng

– Phần 2 (còn lại): Cảnh chị Dậu đương đầu với cai lệ và tay sai

Soạn bài Tức nước vỡ bờ 3 cách Câu 1 (trang 32 Ngữ Văn 8 Tập 1)

– Anh Dậu- chồng chị tối hôm quá bị bắt và đánh đập đến ngất rồi mới được trả về, sáng nay tỉn lại nhưng người thì ” lề bề lệt bệt”. Anh đang đợi cháo nguội một chút để ăn.

– Cháo vừa nấu chín từ bát gạo mà bà con hàng xóm thương tình cho, đang còn nóng hổi.

Tình thế của chị Dậu:

+ Gia đình đang lâm vào cảnh cùng đường, khốn khổ, tiền nộp sưu không có

+ Anh Dậu vừa được thả về sau khi bị đánh bầm dập, không còn chút sức lực vì thiếu tiền sưu.

+ Chị đang đút cháo cho chồng, mong chồng có gì lót dạ

+ Chưa kịp đưa chồng đi trốn thì cai lệ đến

Khi bọn tay sai vào nhà chị Dậu, tình thế của chị lúc bấy giờ:

– Nhà nghèo chị đã phải bán cả con, cả chó, bán cả gánh khoai…

– Anh Dậu đang ốm nặng, vậy mà vẫn bị tên cai lệ trói gô lại, điệu ra đình, anh đã chết ngất ở đấu, người ta vừa khiêng anh về cho chị Dậu, nhờ bà con hàng xóm cứu giúp anh đã tỉnh lại. Sáng sớm hôm sau, cháo vừa chín, cả nhà đang chuẩn bị ăn, anh Dậu nhịn suông từ hôm qua tới giờ đang run rẩy cầm bát cháo, anh vừa kề vào miệng thì lũ tay sai tiến vào

Câu 2 (trang 32 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Phân tích nhân vật cai lệ. Em có nhận xét gì về tính cách của nhân vật này và sự miêu tả của tác giả?

– Là một tên nghiện thuốc nặng, giọng nói khàn khàn nhưng cố thét ra những lời dạo nạt.

– Đứng đầu bè lũ đám người đi đòi sưu thuế. Là những tên lính quèn có chút chức tước trong làng, làm tay sai cho lũ tham quan nhưng chúng hống hách, vô lí.

– Những hành động như: tay roi song, tay thước và dây thừng, thét, cưới mỉa mai, chỉ, trợn mắt quát…cho thấy sự độc ác, xấc xược thẳng tay bóc lột một cách ngang ngược tầng lớp nhân dân lao động.

Cách miêu tả chi tiết, chân thực về hình dáng, hành động của tên cai lệ đã khắc họa nên sự thối nát và xấu xa của tầng lớp thống trị trong xã hội bấy giờ. Những điều đó cũng cho thấy thái độ căm ghét, khinh bỉ của tác giả.

Nhân vật cai lệ:

– Cử chỉ: Gõ đầu roi xuống đất thét, trợn ngược hai mắt quát, giọng hầm hè, đùng đùng giật phắt cái thừng, chạy sầm sập, bình bịch, tát,…

– Tiếng hắn như tiếng chó sủa, rít gầm của thú dữ. Hắn không biết nói tiếng của người và cùng không có khả năng nghe tiếng nói của đồng loại. Hắn cậy có quyền nên chửi bới, xưng hô rất thô lỗ. Bỏ ngoài tai lời van xin của chị Dậu.

Nhân vật cai lệ:

+ Cai lệ là một tên lính hầu hạ, phục vụ bọn quan nha, thực chất là những kẻ không có một chức trách gì quan trọng mà chỉ là một tay sai chuyên hành dân, đánh người

+ Hắn cùng người nhà lý trưởng xông thẳng vào nhà anh Dậu để bắt ép đòi bằng được tiền nộp sưu

+ Vào nhà chị Dậu một cách hống hách, lộng hành:

– Đập mạnh rồi xuống đất, hét to

– Trói người tàn bạo, hùng dữ, hắn sầm sập chạy đến bên anh Dậu mà trói mặc chị Dậu can ngăn

– Tát vào mặt người phụ nữ khốn khổ không do dự

– Bị ngã chỏng khoèo vẫn hét trói vợ chồng anh Dậu- trói người thành nghề của hắn

Ngôn ngữ, lời nói:

– Quát mắng, hầm hè, xưng hô “mày”-“tao” , giọng điệu hống hách, tỏ vẻ quyền uy

– Dù chị Dậu có hết lời van xin hắn vẫn ngang ngược, cố chấp, cắt ngang lời chị, không chút động lòng thương xót.

Tác giả đã khắc hoạ nhân vật cai lệ thông qua miêu tả về cả ngoại hình và hành động, đặc biệt là ngôn từ phát ra từ lời nói để thể hiện bản chất đê tiện và xấu xa của nhân vật cai lệ.

Câu 3 (trang 33 Ngữ Văn 8 Tập 1)

– Khi gặp bọn lính đến bắt người: lo lắng, nhẫn nhục, chịu đựng và van xin. Chị chỉ biết dùng lí lẽ phân tích cho đám người đó mong chúng thấu hiểu cho.

– Khi bọn lính quyết không tha cho anh Dậu: phẫn hận, căm tức tột cùng. Đám lính lệ không buông tha anh Dậu thậm chí còn đánh anh. Sự kìm nén quá sức chịu đựng bị bộc phát. Đổi xưng hô thành ông-tôi rồi mày-bà, dùng sực khỏe mạnh của người dân lao động để chống trả.

Như bao người phụ nữ Việt Nam tảo tần khác, chị yêu thương chồng con, có thể nhẫn nhịn để bảo vệ gia đình mình. Ai đó àm tổn thương đến họ, chị sẵn sàng đứng lên chống đối lại tất cả. Chị lmang nét đặc truwngc ủa người Việt Nam, yêu gia đình nhưng cũng can đảm và mạnh mẽ..

Diễn biến tâm lý của chị Dậu:

+ Khi cai lệ xông vào nhà, để bảo vệ chồng mình, chị van xin, nhún nhường, cố gắng trình bày những chật vật của mình để xin lòng thương từ chúng,mong chúng cho khất sưu. Giọng vừa run rẩy lo sợ, vừa chân thành, thống thiết. Khi tên cai lệ vẫn một mực hành động, hắn không hề thương cảm mà trái lại còn cố bắt trói anh Dậu thì chị Dậu liều mạng để chống cự lại hắn. Đưa ra lý lẽ để chống lại hành động tàn ác của chúng, đỉnh điểm là sự phản kháng mãnh liệt của chị Dậu khi đẩy ngã tên cai lệ chỏng quèo.

+ Miêu tả diễn biến tâm lý của chị Dậu là rất chân thực, rất hợp lý, cho thấy được đằng sau vẻ tiều tụy, yếu đuối là một bản lĩnh đặc biệt của người đàn bà đã chịu nhiều nỗi phẫn uất và ấm ức, sự phản kháng ấy là điều tất yếu.

Nhân vật chị Dậu:

– Chúng đặt chị vào tình huống khó xử, chúng để vận mệnh của anh Dậu trong tay chị, nhưng cũng chính lẽ đó, sức sống tiềm tàng của chị được bộc lộ sâu sắc.

– Chị tha thiết van xin bọn chúng. Chị là người phụ nữ thôn quê quen dịu dàng, nhẫn nhục

+ Cháu van ông .. ông tha cho

– Trước những lời van xin của chị, chúng vẫn xông vào, vẫn tỏ thái độ

+ Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.

+ Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem.

+ Túm lấy cổ hắn ấn dúi ra cửa, ngã chỏng quèo.

+ Túm tóc lẩng cho một cái, ngã nhào ra thềm.

Câu 4 (trang 33 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Em hiểu thế nào về nhan đề Tức nước vỡ bờ được đặt cho đoạn trích? Theo em, đặt tên như vậy có thỏa đáng không? Vì sao?

-Nghĩa đen: việc làm quen thuộc của nhà nông là đắp đập ve bờ để giữ nước hoặc ngắn nước bên ngoài vào ruộng. Nước càng lên cao sức nước càng mạnh, xô vào thành bờ làm nó rạn nứt rồi vỡ ra.

-Nghĩa bóng: sự áp bức càng lớn, nhưng chỉ có một giới hạn, vượt qua nó người ta sẽ không chịu đựng nữa mà chống trả lại. Nhan đề này rất phù hợp với bài viết vì thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của chị Dậu.

Nhan đề “Tức nước vỡ bờ”:

Thể hiện ý nghĩa: khi những người nông dân bị đẩy đến đường cùng, áp bức đến cùng cực, họ sẽ không chấp nhận cam chịu, phản kháng quyết liệt và mạnh mẽ để bảo vệ chính những người mà mình thương yêu.

Nhan đề “Tức nước vỡ bờ”

– Nêu lên quy luật tự nhiên: mạch nước càng đầy lên, khi nước bị tức thfi nó phải nổi sóng, tràn ra phá vỡ bờ.

– Sự tức nước chính là sự tàn nhẫn của tên cai.

– Vỡ bờ chính là sự vùng lên của chị Dậu.

Câu 5 (trang 33 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Tình huống được xây dựng một cách khéo léo, tự nhiên, miêu tả một cách chân thực và sinh động. Những hành động được miêu tả một cách logic: Đầu tiên khi chị Dậu phản kháng bị mấy tên linh đánh mấy bịch vào ngực, tát bốp cái vào má. Nhưng rồi sức của những tên lính quanh năm quanh bàn thuốc, chỉ biết quát tháo dọa nát người khác không bằng đục người đàn bà lực điền lao động quanh năm. Tên lính nhỏ con bị chị xô ngã. Ngôn ngữ và lời thoại họp lí với dòng cảm xúc của nhân vật.

– Từ ngữ trong đoạn văn miêu tả cảnh chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ đều được lấy nguyên vẹn từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân miền Bắc

– Giọng văn pha chút hài hước của tác giả làm nổi bật sức mạnh ghê gớm của chị Dậu và sự thảm bại của những tên cai

+ Tình huống: sau khi đã van xin, nhún nhường mà cai lệ nhất quyết không chịu tha, chị Dậu đứng ra chống lại bằng hành động cương quyết: đánh lại tên cai lệ

+ Miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ:

– Tên cai lệ: hống hách, thô bạo, đánh chị Dậu , xấn đến trói chồng chị, lời nói thô lỗ, tàn nhẫn, sức loẻ khoẻo, ngã lăn quay ra đất miệng vẫn lảm nhảm

– Chị Dậu: mặt xám lại, nghiến hai hàm răng mà nói trong sự phẫn uất, túm lấy cổ rồi đùi ra cửa , sức xô đẩy mạnh mẽ, nhanh nhẹn

Ngôn ngữ đối thoại thể hiện rõ sự căm tức của chị Dậu và sự hung tàn của kẻ quyền cao, qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ

+ Đây là một đoạn tuyệt khéo bởi khắc hoạ được hình ảnh chị Dậu nghị lực, đầy bản lĩnh, dám đương đầu với những kẻ chuyên quyền, những kẻ tay sai của thực dân.

Câu 6 (trang 33 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Nhận xét của Nguyễn Tuân hoàn toàn đúng. Trong cái xã hội phong kiến thối nát khi mà mọi bất công đều đè lên đầu lên cổ người dân thì kết quả của sự chịu đựng luôn là bóc lột thậm tệ hơn. Nếu như đều sẽ bị hà hiếp tại sao không thử đứng lên đấu tranh đòi lại chút công bằng cho chính mình. Nhiều người cùng vùng lên sẽ tạo sức mạnh to lớn.

Đó là một nhận xét hợp lý,bởi:

Trong bất kì xã hội bào, nếu có áp bức thì chắc chắn sẽ phải có đấu tranh, đấu tranh là điều cần thiết nếu muốn phát triển. Những người nông dân, họ chịu sự bóc lột nặng nề nhất, tàn nhẫn nhất, họ có lòng căm thù nhất bởi những khổ đau mà xã hội thực dân gây ra, giai cấp nông dân cần tiên phong trong việc phản kháng, đấu tranh.

– Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến, tác phẩm đã có tác dụng làm thức dậy hiện thực cuộc sống trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân nhận định như vậy là không sai, mặc dù lúc đó Ngô Tất Tố chưa được giác ngộ cách mạng, song ông đã phát hiện ra được lực lượng cách mạng tiêu biểu trong quần chúng nhân dân, từ đó thúc đẩy, nêu cao tinh thần diệt trừ bọn thực dân và bè cánh của chúng. Ngòi bút của ông sắc mạnh nhữ gươm giáo. Xứng đáng được xem là người đồng hành cùng cách mạng của nhân dân ta.

Nội dung chính bài Tức nước vỡ bờ

Dàn Ý Phân Tích Chi Tiết Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ

– Chuyện xảy ra ở làng Đông Xá trong những ngày sưu thuế. Gia đình chị Dậu nghèo nhất nhì trong hạng cùng đinh. Đến kì nộp sưu, anh chị phải chạy vạy ngược xuôi nhưng vẫn không đủ tiền.

– Trước khi bị bắt ra ngoài đình, anh Dậu đã ủy quyền cho chị lo việc nhà. Chị bán cái Tí, đứa con gái đầu lòng 7 tuổi cho vợ chồng Nghị Quế. Chị đã bán con, bán cho để nộp sưu cho anh nhưng vẫn thiếu xuất sưu của người em chồng đã mất từ năm trước nên anh Dậu vẫn chưa được tha.

– Đến khi anh bị ngất sửu chúng mới trả về cho chị Dậu. Chị nấu cháo cho anh ăn, anh vừa kề bát cháo lên miệng thì bọn cai lệ kéo đến thúc sưu. Anh sợ quá lăn đùng ra ngất.

– Gánh nặng gia đình, tính mạng anh Dậu phụ thuộc hoàn toàn vào sự chèo chống của chị – người phụ nữ con mọn, chân yếu tay mềm.

– Chúng xuất hiện với những công cụ để hành hung: roi song, tay thước, dây thừng…

– Cử chỉ: gõ đầu roi xuống đất thét, trợn ngược hai mắt quát, giọng hầm hè, đùng đùng giật phắt cái thừng, chạy sầm sập…

c) Diễn biến tâm lí, tính cách của chị Dậu

* Trước khi bọn tay sai xuất hiện: Chị hiện lên là một người rất mực yêu thương chồng con.

– Khi anh Dậu vừa mới tỉnh, việc đầu tiên của chị là nấu cháo cho chồng và các con ăn:

+ Quạt cháo cho nhanh nguội để anh Dậu ăn.

+ Bước từng bước rón rén bưng cháo đến bên chồng.

+ Ngồi chờ chồng ăn cháo có ngon không và lo lắng cho sức khỏe của chồng.

– Những cử chỉ, lời nói chị dành cho người chồng đau yếu rất mộc mạc nhưng vô cùng đằm thắm, dịu dàng.

à Chị mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, hết lòng yêu thương chồng con.

* Khi bọn tay sai xuất hiện

– Lúc đầu: Phân trần, van xin bọn chúng cho khất sưu kể cả khi cai lệ quát tháo, dọa nạt vẫn một mực van xin tha thiết “nhà cháu đã túng lại phải đóng cả xuất sưu của chú nó nữa nên mới lôi thôi như thế chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà cháu đâu, hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất”.

– Lúc sau:

+ Những lời van xin, lễ phép tha thiết của chị đã bị tên cai lệ bỏ ngoài tai. Hắn cứ xông đến để trói anh Dậu và còn đánh chị khi bị chị ăn vạ. Hành động “bịch vào ngực chị Dậu mấy bịch” là giọt nước làm tràn li, không thể nín nhịn được nữa, chị đã liều mạng cự lại.

+ Lời lẽ của chị đã làm cai lệ tức giận, hắn đánh chị một cách tàn nhẫn và nhảy vào cạnh chồng chị.

+ Cùng với lời thách thức, chị đã xông vào đánh nhau với bọn chúng và nhanh chóng hạ gục hai tên tay sai. Trước sức mạnh của chị, hai tên tay sai vốn rất hung hăng, hống hách trở nên thật nực cười, thảm hại.

Tìm Hiểu Chung Về Tác Phẩm Lão Hạc

1. Tìm hiểu chung

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Lão Hạc là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân của Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943.

b. Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (từ đầu … “nó thế này ông giáo ạ”): Sự day dứt, dằn vặt của lão Hạc sau khi bán con Vàng.

– Phần 2 (tiếp … “một thêm đáng buồn”): Lão Hạc gửi gắm tiền bạc, trông nom nhà cửa.

– Phần 3 (còn lại): Cái chết của lão Hạc.

c. Tóm tắt

       Lão Hạc là một người nông dân nghèo, sống cùng một con chó gọi là cậu Vàng. Lão có một người con trai nhưng vì nghèo không có tiền lấy vợ nên đã bỏ đi làm đồn điền cao su. Một mình lão phải tự lo liệu mưu sinh. Sau trận ốm thập tử nhất sinh, nhà lão không còn gì nữa, lão đành phải bán cậu Vàng – con chó mà lão hết mực thương yêu như con trai mình. Lão mang hết số tiền bán chó và dành dụm được từ việc bán mảnh vườn gửi nhờ ông Giáo. Mấy hôm sau lão kiếm được gù ăn nấy. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó nói dối là đánh bả con chó hay sang vườn để giết thịt ăn nhưng thực ra là để tự tử. Cái chết của lão Hạc dữ dội, vật vã, chẳng ai hiểu vì sao lão chết ngoại trừ ông Giáo và Binh Tư.

2. Giá trị nội dung và nghệ thuật:

a. Giá trị nội dung

Thể hiện số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân.

b. Giá trị nghệ thuật

– Sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể là nhân vật hiểu, chứng kiến toàn bộ câu chuyện và cảm thông với nhân vật chính.

– Nghệ thuật phân tích tâm lí già dặn, kể chuyện chân thực, màu sắc trữ tình đan xen triết lí sâu sắc.

– Xây dựng được nhân vật có tính cá thể hóa cao.

Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Chung Về Tác Phẩm Tức Nước Vỡ Bờ trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!