Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Vb Lão Hạc được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Lão Hạc– Nam Cao-A. Mục tiêu cần đạt : (SGV tr 35)1. Kiến thức:Giúp HS: – Thấy đc tình cảnh khốn cùng và nhân cách cao quý của nhân vật Lão Hạc, qua đó hiểu thêm về số phận đáng thương và vẽ đẹp tâm hồn đáng trọng của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8.– Thấy đc lòng nhân đạo sâu sắc của nhân vật Nam Cao ( qua nhân vật ông Giáo ).2. Kĩ năng: Rèn cho HS kĩ năng phân tách nhân vật.3. Thái độ:Giáo dục HS biết yêu thương, cảm thông quý trọng con người nghèo khổ bất hạnh có tâm hồn cao cả.
B. Chuẩn bị : – ảnh nhà văn Nam Cao + tuyển tập Nam Cao tập 1 – Phiếu học tập. – HS soạn bài, túm tắt VB. GV chuẩn bị bài dạy. C. Các hoạt động dạy – học : – Kiểm tra bài cũ : Phõn tớch tõm lý chị Dậu qua đoạn trích ” TNVB” nhận xột của em về tớnh cỏch chị Dậu? – Vào bài : ……. GVHSNội dung cần đạt
Hóy giới thiệu về tỏc giả VB ” Lóo Hạc”? GV chốt. – Trỡnh bày cỏ nhõnI. Tiếp xúc văn bản: 1. Tỏc giả : (SGK tr 45)
-Yêu cầu HS đọc phần tóm tắt nội dung đầu VB ( Chữ nhỏ): tỡnh cảm Lóo Hạc– Tỡnh cảm của LH với con chú vàng
2. Đọc- chú thích: – Đọc diễn cảm, chú ý biểu hiện tâm trạng, tỡnh cảm, thỏi độ qua giọng điệu từng nhân vật.
– Sự túng quẫn đe dọa Lóo Hạc lỳc này– HD đọc VB và tỡm hiểu chỳ thớch– Đọc phần tóm tắt chuẩn bị sẵn– Lưu ý chỳ thớch 5, 6,9 ,10,11,15,21,24, 28, 30,31,40,43 (Dành 3 phỳt cho HS tự đọc chú thích)
– Tóm tắt đoạn VB tin chữ to
GV củng cố, nhận xột việc túm tắt của HS1 HS túm tắt3. Túm tắt VB cần phõn tớch – Lóo Hạc sang nhờ ụng giỏo:
GV dẫn : ở phần đầu truyện, ta thấy đó nhiều lần LH núi đi nói lại ý định bán ” cậu Vàng’, cho thấy lóo đó suy tớnh đắn đo nhiều lắm, coi đây là việc hệ trọng bởi ” cậu Vàng” là người bạn thân thiết, là kỷ vật của anh con trai mà lóo rất thương yêu. Vậy vỡ sao mà cuối cựng lóo lại đành lũng bỏn cậu?
Lóo Hạc kể chuyện bỏn chú, ụng giỏo cảm thụng và an ủi lóo. Lóo Hạc nhờ cậy ụng giỏo 2 việc.
– Em hóy tỡm từ ngữ, hỡnh ảnh miờu tả thỏi độ, tâm trạng của LH khi lóo kể chuyện bỏn cậu Vàng với ụng giỏo? – tỡm phỏt hiện chi tiết– Cố làm ra vui vẻ, cười như mếu, mặt dột nhiên co rúm lại, vết nhăm xô lại, ép nước mắt chảy, đầu ngoẹo, miệng mếu máo như con nít lu lu khóc
– Những từ ngữ, chi tiết, hỡnh ảnh ấy diễn tả điều gỡ trong tõm trạng Lóo Hạc ? – Suy nghĩ nờu ý kiến cỏ nhõn(Lột tả sự day dứt, ăn năn vỡ ” già bằng này tuổi đầu rồi cũn đánh lừa một con chó”, thể hiện một cừi lũng đau đớn, xót xa, ân hận thương tiếc.. đang dân trào ũa vỡ khi cú người hỏi đến.
– Em cú nhận xột gỡ về nghệ thuật miờu tả của tỏc giả qua đoạn văn miêu tả Lóo Hạc– Trỡnh bày cỏ nhõnTác giả đó thể hiện chõn thật, cụ thể, chớnh xỏc từng diễn biến tõm trạng đau đớn cứ dâng lên, như không thể kỡm nộn nổi nỗi đau – phù hợp tâm lý, hỡnh dỏng và cỏch biểu hiện của những người già.
Tìm Hiểu Chung Về Tác Phẩm Lão Hạc
1. Tìm hiểu chung
a. Hoàn cảnh sáng tác
– Lão Hạc là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân của Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943.
b. Bố cục: 3 phần
– Phần 1 (từ đầu … “nó thế này ông giáo ạ”): Sự day dứt, dằn vặt của lão Hạc sau khi bán con Vàng.
– Phần 2 (tiếp … “một thêm đáng buồn”): Lão Hạc gửi gắm tiền bạc, trông nom nhà cửa.
– Phần 3 (còn lại): Cái chết của lão Hạc.
c. Tóm tắt
Lão Hạc là một người nông dân nghèo, sống cùng một con chó gọi là cậu Vàng. Lão có một người con trai nhưng vì nghèo không có tiền lấy vợ nên đã bỏ đi làm đồn điền cao su. Một mình lão phải tự lo liệu mưu sinh. Sau trận ốm thập tử nhất sinh, nhà lão không còn gì nữa, lão đành phải bán cậu Vàng – con chó mà lão hết mực thương yêu như con trai mình. Lão mang hết số tiền bán chó và dành dụm được từ việc bán mảnh vườn gửi nhờ ông Giáo. Mấy hôm sau lão kiếm được gù ăn nấy. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó nói dối là đánh bả con chó hay sang vườn để giết thịt ăn nhưng thực ra là để tự tử. Cái chết của lão Hạc dữ dội, vật vã, chẳng ai hiểu vì sao lão chết ngoại trừ ông Giáo và Binh Tư.
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
a. Giá trị nội dung
Thể hiện số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân.
b. Giá trị nghệ thuật
– Sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể là nhân vật hiểu, chứng kiến toàn bộ câu chuyện và cảm thông với nhân vật chính.
– Nghệ thuật phân tích tâm lí già dặn, kể chuyện chân thực, màu sắc trữ tình đan xen triết lí sâu sắc.
– Xây dựng được nhân vật có tính cá thể hóa cao.
Một Số Vấn Đê Khi Tìm Hiểu Truyện Ngắn Lão Hạc Của Nam Cao
LÃO HẠC CỦA NAM CAO Đề 1: Phân tích truyện ngắn Lão Hạc để làm nổi bật cách nhìn người nông dân của Nam Cao. I.Tìm hiểu đề: 1. Thể loại: Phân tích tác phẩm, phân tích truyện ngắn. 2. Nội dung: Giá trị hiện thực của truyện ngắn Lão Hạc. Đây là một bức tranh thu nhỏ của đời sống nhân dân thời thực dân pk trước c/m, miêu tả quá trình bần cùng hoá đến chỗ phá sản và lưu vong của tầng lớp này, tiêu biểu là Lão Hạc, một lão nông trong tọt cùng đen tối khổ đau vẫn sáng ngời tấm long lương thiện nhân từ và vị tha của mình. II.Dàn ý: 1.Mở bài: Giới thiệu thời điểm và hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao. Năm 1943, ông “giáo khổ trường tư” Nam Cao cùng chung số phận với mọi tầng lớp nhân dân sống dở chết dở trong xã hội thực dân nửa phong kiến. 2. Thân bài: Phân tích giá trị hiện thực của truyện ngắn Lão Hạc Là bức tranh thu nhỏ của đời sống nông dân. Truyện miêu tả quá trình người nông dân bị bần cùng hoá đến chỗ phá sản và lưu vong: Lão Hạc không có việc làm, thằng con trai lão không có tiền cưới vợphải bỏ làng vào Nam làm phu đồn điền cao su. Binh Tư và những anh táo tợn thì làm nghề ăn trộm. Phân tích ông giáo người nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể cũng phải thất nghiệp, bán dần sách quí để nuôi miệng. Đây là một bổ sung cho bức tranh bên trên. Phân tích Lão HẠc và số phận của người nông dân lúc bấy giờ: LÀ người lương thiện sống bằng nghề làm thuêdành dụm mua được một mãnh vườn nhỏ, nhưng rồi vợ chết, con bỏ đi, đành sống cô độc với con chó vàng. cuối cùng lão phải bán con chó vàng và ăn bả chó tìm đến cái chết chỉ vì thương con, muốn dành mãnh vườn và hoa lợi cho con. Nghệ thuật thể hiện với ngòi bút vừa hiện thực, vừa trữ tình, cách kể linh hoạt, hấp dẫn. 3. Kết bài – Đối chiếu với thực tế các truyện khác cùng một đề tài của tác giả để khẳng định giá trị của truyện trên. – Đối chiếu với hoạt động cách mạng của Nam Cao và một số tác phẩm khác để thấy nét ảm đạm thiếu tích cực của truyện ngắn Lão Hạc. Đề 2: Trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao có đoạn: … Hôm sau Lão Hạc sang nhà tôi. Vừa thấy tôi lão bảo ngay: Cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ. Cụ bán rồi? Bán rồi, họ mới bắt xong. Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đoi mắt ầng ậng nước. Tôi muốn ôm chầm lấy lão mà oà lên khóc… Tại sao việc bán chó lại dằn vặt Lão Hạc đến như vậy? Bởi lẽ gì mà lão phải bán cậu vàng? Qua những chi tiết đó, em có suy nghĩ gì về Lão Hạc? Tìm hiểu đề: Thể loại: Phân tích nhân vật. Nội dung: Là một người nghèo khổ nhưng Lão Hạc rất ngay thật, giàu tình cảm, giàu lòng tự trọng, dù trong hoàn cảnh ết sức túng quẩn vẫn giữ được nhân cách trong sáng và cao đẹp. Tư liệu: Truyện ngắn Lão Hạc và một số tác phẩm khác của Nam Cao. Dàn bài: Mở bài: Gấp những trang văn của Nam Cao lại chúng ta dường như vẫn còn cảm thấy ngột ngạt và ám ảnh khôn nguôi với số phậncủa những người nghèo khổ, trong đó có những người nông dân nghèo. Với tấm lòng nhân đạo và sự hiểu biết sâu sắc, nhà văn đã xây dựng thành công những hình tượng nhân vật sinh động.Điểm đáng quí ở Nam Cao là cái nhìn nhân hậu đầy cảm thông đối với người nông dân nghèo. Các nhân vật này trong tác phẩm của ông dù bị chà đạp, bị đày đoạ, bị đẩy vào chỗ bế tắc không còn đường sống vẫn giữ được nhân cách và phẩm hạnh đáng quí trọng của mình. Lão Hạc, nhân vật chính của truyện ngắn cùng tên chính là một con người như thế. Thân bài: Vì sao việc bán cậu vàng lại dằn vặt Lão Hạc: Đối với Lão Hạc cậu vàng vừa là một con vật thân tình vừa là một con vật gợi nhớ về đứa con trai của lão: Tuổi già cô độc, lão xem cậu vàng như một người bầu bạn sớm hôm của lão. Lão chăm sóc nó như chăm một đứa cháu nhỏ, lão nựng nịu mắng yêu nó như mắng yêu một đứa cháu, lão gọi nó là cậu vàng như một bà hiếm hoi đặt tên cho đứa con cầu tự. Ngoài ra cậu vàng là con chó của cháu nó mua về nuôi định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt. Cậu vàng gợi lão nhớ đến đứa con tha hương của mình và đặc biệt là nỗi giày vò về trách nhiệm làm cha khônảộtn vẹn của lão. Là người rất đôn hậu, giàu tình cảm nên lão không nỡ bán cậu vàng. Vì vậy mà viẹc bán cậu vàng dằn vặt lão, làm lão đau khổ. Vì lẽ gì lão phải bán cậu vàng? Vì cảnh nhà túng quẫn lại thêm khẩu phần ăn của cậu vàng còn tốn hơn lão: Mỗi ngày cả người và chó tốn đến ba hào mà gia sự vẫn đói deo đó dắt. Bỡi vậy lão tính nếu bán cậu vàng đi thì sẽ đỡ khẩu phần ăn trong nhà mà con chó cũng chấm dứt được kiếp sống lay lắt của nó. Lão sợ cứ để ăn ít con chó vàng sẽ gầy đi, bán hụt tiền. Lão đang cần tiền để nhờ người làm đám ma, khi chết khỏi phièn hà xóm làng Lão sợ nuôi nó thì sẽ tiêu lạm vào số tiền của thằng con. a Vì vậy lão quyết định bán cậu vàng. Những suy nghĩ về Lão Hạc: Lão là một con người giàu phẩm chất đáng quí: Giàu tình cảm, giàu lòng cảm thương: Bán cậu vàng xong lão đã khóc vì thương nó, lão tự hấy mình tệ bạc với nó,nỡ đánh lừa một con chó, rồi lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước… cái đầu lão nghoẹo về một bên… Lão Hạc rất thương con, đứa con phải tha hương của mình. Lão luôn nghĩ đến con và hết sức hết lòng vun vén, sẵn sàng nhận cái chết cho con mình đỡ khổ. Giàu lòng tự trọng: Tuy nghèo khó nhưng biết trộng danh dự, lão hạc không muốn làm khổ con, làm phiền ông giáo. Biết ông giáo cũng nghèo hổ như mình , laoc khước từ mọi sự đỡ đần của ông. Khong muốn cái chết của mình làm phiền luỵ xóm làng, lão đã gữi tiền ông giáo nhờ bà con làm tang hộ. Dù trong hoàn cảh hết sức cùng quẫn, Lão Hạc vẫn giữ được nhân cách trong sáng và cao đẹp. Điều này một số nhân vật khác của Nam Cao đã không làm được như: Chí hèo, Binh Chức,Năm Thọ… những kẻ cố cùng này không giữ được mình nên tha hoá, mất nhân cách: Ăn trộm, ăn cướp, bê ha rượu chè. chúng tôi cả bà cái Tý trong Một bữa no cũng vì đói mà chịu nhục trước sự hắt hủi của bà phó Thụ… Lão Hạc đúng là một hình tượng nhân vật sáng đẹp, một tâm hồn cao cả, một nhân cách trong sáng ẩn chứa trong một con người bình thường. Hình tượng đó không những khiến người đọc phải xót xa thương cảm mà còn phải suy nghĩ về cách sống của mình …. 3.Kết bài: – Lão Hạc là một truyện ngắn xuất sắc của Nam cao. Đọc tác phẩm chúng ta chứng kiến một bức tranh sinh động về đời sống của nông thôn Việt Nam trước cách mạng để thêm cảm thông sâu sắc nỗi khổ cực bế tắc của người nông dân nghèo đói lúc bấy giờ… – Măt khác truyện ngắn Lão Hạc cũng nói lên một cách đầy xúc động về tình cha con. Tấm lòng người cha đối với con của Lão Hạc thật cao đẹp và xúc động. BÀI ĐỌC THÊM GỮI LÃO HẠC Hiu hắt ao đầm Con cò nhỏ Trọn đưòi riêng Bì bõm Đậu cành mềm Rơi thỏm Đau đáu chỉ một điều: “Có xáo thì xáo nước trong” Lão đó Có phải không? Lão Hạc Ngoi chưa khỏi Vòng đói nghèo Khúc hát lại chìm nổi Tủi cực Giữa trang văn vẫn là vầng sáng lương tâm Giấu giữa thân xác còm khô Trái tim tươi đỏ Chẳng thể sống dối lừa (Cho dẫu là với chó) Lời vinh danh con người Lão Hạc ơi ! Phải chi tôi được là « ông giáo » Được trao lại tận tay đứa con trai của lão Đâu chỉ mãnh văn tự miếng vườn Mà luôn cả trái tim nồng kí thác lại của người cha Trái tim Qua bao trận đói mềm Qua bao cơn bệh dữ Chẳng chút phôi pha Trái tim Đánh thức trong ta Từng mãnh lòng thơm sạch… Chúc lão ngủ được yên Trong lòng trang sách Sau khi trao nguồn máu ấy cho đời… (Trần Ngọc Hưởng) Đề 3: Phân tích vẻ đẹp con người trong “Lão Hạc” của Nam Cao Tôi đọc lại truyện ngắn Nam Cao trong một trưa vắng người. Nỗi buồn cắn xé từng trang. Những khuôn mặt dị dạng méo mó, trồi lên dưới lớp bụi lầm than ngụp lặn trong dòng sông sôi sục khổ đau, chới với, những cánh tay kêu cứu. Khi tiếng hóc tiếng cười ồn ào và những gương mặt ấy bị làn sóng bản năng dìm xuông, tôi mới thấy Lão Hạc.Trông lão cô đơn trên dòng sông của mình, khuất sau cái bóng dềnh dàng, ngất ngưỡng của Chí Phèo có một không hai! Khó thấy Lão ạc trong những đứa con nổi tiếng của Nam Cao. Lão hiền quá, thánh quá, thành không “độc”! Thế mà tôi e lão được bố đẻ thương nhất. Không thương sao khi trong cơn lũ nghiệt ngả của dòng đời ngày ấy Nam Cao đã bế lão lên để lão không bị dìm xuống, bị cuón trôi như bao đứa khác.Cho đến chết lão không hề hoẹn ố, vẫn đẹp như ngọc. Qua lão, NGƯỜI đã chiến thắng CON, bất chấp nghịch cảnh. Bỗng tôi nhận ra Lão Hạc thật quí! Lặng lẽ, không dữ dội, lão trụ vững được nhờ tâm hồn nặng gấp trăm lần thể xác còm cõi của lão. Lão là hình ảnh ông bố Nam Cao trong đời thường Tiết độ, giữ gìn, ăn không no, nói không lớn…Còn tinh anh tinh huyết trút cả lên trang viết, để cho đời một thứ văn chương đầy ma lực cuốn hút bởi sự chân thật, sinh động, đầy chất người và tình người. Những gì Nam Cao muốn nhắn gữi trong 10 năm cầm bút ngắn ngủi đã gần đủ trong Lão Hạc – Sống mòn, chết thảm, chết thể xác, chết tinh thần, cái đói, miếng ăn, nước mât. Không những thế, Lão Hạc còn cái vượt trội. Con người ở đó tuy KHỔ mà rất ĐẸP. Có thể nói Chí Phèo và Lão Hạc đều là đỉnh của ngọn núi Nam Cao. Chí Pheo- Kẻ lưu manh độc đáo thì Lão Hạc cũng là người lương thiện độc đáo! Đọc Lão Hạc tôi bàng hoàng trước bi kịh nhân cách! uốn giữ nó, con gười phải hi sinh, đánh đổi. Tố cáo phê phán guồng máy xã hội sẵn sàng nghiến nát con người chỉ là áo ngoài của Lão Hạc. Cứu lấy con người, bảo vệ nhân phẩm sau cơn lũ sẵn sàng cuốn phăng tất cả mới là gan ruột của truyện ngắn duy nhất không nằm dưới bóng Chí Phèo. Ba hay bốn nhân vật! Đó là tài Nam Cao xoay quanh một câu chuỵen kể. Kể và ngẫm. kể và chuỷên hoá từ mình qua nhân vật, kẻ có mặt đén người khuất mặt, bên ngoài đến bên trong…nhân vật nhoè lẫn vào nhau: Người cha, lão nông dân, ông giáo nghèo-tác giả, cậu vang-kỉ niệm. Có khi không hình dáng cụ thể, bóng đứa con nặng trĩu trong từng hơi thở của lão Hạc. Người ta mơ hồ, 200 bạc vô tri mà thủ phạm. Mãnh vườn cằn mà tựa đất thiêng… Cũng như những bần cố nông khác , lão không có ruộng cày.Còn sức đổi lấybát cơm. Kiệt sức, đói! Điều dó đáng lẽ chưa xẩy ra cho lão, người có trong tay mãnh vườn ba sào, con chó béo và 25 đồng bạc vào lúc cùng kiệt. Thế mà lão ăn tựa kẻ không có cắc bạc (…) Dưới mắt thiên hạ, lão còn chừng ấy, nhưng trong mắt lão, lão đã trắng tay! Mãnh vườn ư? Để cho con. Tiêu một xu cũng là tiêu vào tièn của cháu. Ba mươi đồng bạc (cả tiền bán chó) là tiền ma chay cho mình, khỏi phiền hàng xóm. Chỉ còn lão, sở hữu duy nhât của lão. Lão bắt lão ăn món ăn tự chế, khi món ăn tự chế đã cạn, thân xác già nua vô dụng vẫn đòi hỏi sự tồn tại, lão tự kết thúc. Tinh thần lão mới kiên định làm sao! Như thành trì kiên cố được xây bằng LÒNG TỰ TRỌNG và TÌNH THƯƠNG. Đói khổ, đớn đau không khuất phục nổi. Nhà văn Kim Lân đã tặng lão từ “bất khuất”, bất khuát trước kẻ thù đã khó, nhưng trước mình mới thật khó hơn. Cuộc chiến thầm lặng ấy cũng đòi hỏi hi sinh nhưng có chết cũng chỉ chết mỉa: “Cho lão chết! Ai bảo laoc có tiền mà chịu khổ…!” Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao viết “Lão Hạc” sau Chí Phèo, trẻ con không được ăn thịt chó, tư cách mõ, một bữa no. Nhân vật trong truyện đó từng ngã quị trước bản năng, miếng ăn, cái đói. Đói khiếp thật, miếng ăn đáng quý thật! Nhưng vì nó mà dánh đổi tất cả thì quá đáng buồn. Suốt cuộc đời ngắn ngủi của Nam Cao “117-1951), ĐÓI LUÔN ÁM ẢNH.Ông từng cua chát: “Trọn đời tôi, tôi chỉ lo chết đói. Như thế bảo còn nghĩ đến cái to tát sao đươc”. Thế mà ông nghĩ đấy, nghĩ đén nhân cách và tinh thần trước khi đói khổ. Miếng ăn thành thử thách. Nam Cao đã trộn lẫn hai cuộc đời thực từ làng Đại Hoàng quê ông để sáng tạo lão Hạc, trao cho lão vũ khí tinh thần và không muốn lão thua cuộc. Lão đã lớn từ trang sách, trở thành biểu tượng của nhân cách. Chưa bao giờ chất giọng Nam Cao trân trọng và nghiêm nghị đến thế! Xót mà không đau, buồn mà vẫn tin ở con người. Hạt giống lương thiện quằn quại mãi ở “Chí Phèo” nay đã thành cây cao ngẫng đầu trong “lão Hạc”. Nam Cao, “Nhà văn không biết khóc” cho khốn khó đời mình lại rất dễ khóc cho đời người. Khó biết nhân vật hay tác giả khóc. bỡi mỗi chữ ứa lệ khi lão hạc khóc, khi “rân rấn” khi “ầng ậng”, khi khóc thầm, khi vỡ oà. Nước mắt ẩn trong nụ cười: “Cười đưa đà”, “cười nhạt”, “cười và ho sòng sọc”, “cười như mếu”…Thật xúc động khi đọc đoạn lão khóc con đi phu: “Tôi chỉ còn khóc, chứ còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó người ta giữ….chứ đâu cò là con tôi…” Đoạn văn như bị xé từng mãnh về ngữ điệu hay từng mãnh tim tơi tả của lão biến thành văn? Đứt nối, nghẹn ngào, tức tưởi. TÔI-NÓ-NGƯỜI TA, ranh giới ngả nghiêng! “nó” cứ vuột khỏi “tôi” về phía “người ta”để trên trang giấy nỗi đau bất lực xé ruột. Con lão ra đi để lại kỉ nịêm buồn – con chó mua về nuôi định lúc nà cưới vợ thì giết thịt. Lão gọi là cậu vàng, bắt rạn, tắm, cho ăn trong bát, chữi yêu, nói chuyện…Cậu thế chỗ đứa con, cùng lão chia xẻ niềm đau và hiu quạnh. Thế mà cuối cùng lão phải bán vì không có gạo nuôi cậu. Bán cậu, lão nghĩ dến cái chết. Lão chết thì cậu tiêu đời. Để cậu đi trước còn được việc. BÁn xong lão cố tình vui vẻnhưng trông lão cười như mếu…lão hu hu khóc… Tôi cũng khóc vì chất người bộc lộ cao độ trong tiếng khóc ấy. Lão khóc vì trót lừa một con chó. Tôi khóc vì những giọt nước mắt chân thật tinh khiết như rỉ ra từ đá của một con người! Phải là người “biết khóc” mới tả được đoạn ấy. Ít cữ mà chan chứa nỗi đau cùng cái đẹp, thấm thía “tuổi già giọt lệ như sương”. Oà vỡ nhiều nỗi niềm. Cậu vàng chết cungc đỡ tủi… Con đi phu, lão chết già nửa. bán cậu vang, lão chết hẳn. Lão chết từ đó, chẳng đợi đến khi tự tử bằng bã chó. Tôi tự hỏi sao lão không chọn cái chế khác nộe nhàng hơn, đỡ đớn đau hơn? Thì ra lão quá nhạy cảm! Cái gì do lão, lão không quên. Lão không quên mình là người cha không tròn trách nhiệm nên chết để giữ vườn cho con; lão không quên lão đã đưa cậu vàng vào chỗ chết nên chọn cái chết bằng bã chó. Khó quên câu nói của lão: “ Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người…kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”! Kiếp chó- kiếp người, ý thức ấy thạt sâu cay! Tâm hồn lão cũng vậy, bản chất thiên lương tư sáng trong đói nghèo, ngu dốt. Không thể phân biệt được đó là vẻ đẹp của người mẹ, ngwoif cha, nông dân vô học hay kẻ có học…Đó là vẻ đẹp CON NGƯỜI sâu sắc, thăm thẳm! Cái chết dữ dội như con chó dại ấy lại là cái chết của một con người nặng yêu thương, trọng nghĩa tình. Nó khép lại thiên truỵên nhưng không đè nặng tim tôi như cái chết của Chí Phèo, bà cụ trong một bã no, Lang rận…Họ đã trở thành bóng ma thơ thẩn trong các ngõ trăng lênh láng đói nghèo của làng Vũ Đại ngày ấy, tơi tả, nhàu nát, khổ đau nhưng vẫn cháy bỏng khát vọng được sống như một con người! Sống trong văn Nam Cao cực nhục đấy nhưng vẫn có gì chân thực cao quí. Miếng ăn, cái đói, nước mắt đều tự vượt mình đẻ ngưòiđọc suy nggĩ. Trang viết của Nam Cao không chỉ dừng lại ở tiếng kêu cứu đói, khổ mà còn cứu láy nhân cách, nhân phẩm bị chà đạp bỡi đói khổ. Có thứ văn chương không viết cho một thời. Văn Nam Cao trong trường hợp ấy. Soi vào bức tranh hôi hổi niềm đau, tạp lẫn xấu đẹp, vẫn thấy mình, thấy người trong đólẽ sống cũng từ những cái khong nguyên vẹn, tròn trịa yên lành ấy ra đi. Đói với hiện thực, Nam Cao không nặng về phê phán, tố cáo mà khơi gợi, ngẫm nghĩ. Bi kịch đời thường trở thành bi kịch vĩnh cửu ỡi những điều vặt vãnh nhất cũng tự nói lên ý nghĩa về cuộc sống và con người. Người ta gọi ông là nhà hiện thực phê phán. Còn tôi muốn gọ ông là nhà văn hiện thực-nhân bản. Ông đẻ lại những câu chuyện “không có hậu” mà “hậu” trong lòng thì dằn vặt những nhân vật bất hủ nhào nặn bởi chất liệu cuộc đời và tấm lòng nhà văn có tài. Họ mãi cùng ông sống trên trang viết Nam Cao. Gấp sách, thấm thía lời ông: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn”. Giá mà học được chữ “cố” của Nam Cao, tôi tin sẽ gặp anh Chí, Lão Hạc bằng xương, bằng thịt ở bất cứ mọi thời. Liệulúc ấy tâm đời có xúc động như khi gặp trên trang sách? (Hoàng Thị Thương-Tiếng nói tri âm )
Văn Bản Hai Cây Phong Tìm Hiểu Xuất Xứ Của Vb Tìm Hiểu Những Chi Tiết Của Làng Ku
a. Xuất xứ
– Hai cây phong là phần đầu truyện Người thầy đầu tiên.
– Đôi nét về tác phẩm Người thầy đầu tiên:
+ Mở đầu tác phẩm là hình ảnh hai cây phong cao lớn được trồng cạnh nhau trên một ngọn đồi lộng gió. Không ai biết rõ về nguồn gốc của hai cây phong đó. Mãi sau nay, khi làng Cu-cu-rêu đón bà An-tư-nai một người hoạ sĩ nổi tiếng cũng là người dân làng về mở trường, bí mật về hai cây phong mới được hé lộ.
+ Antưnai năm 15 tuổi đã có một tuổi thơ vô cùng bất hạnh. Cô bé phải sống với người thím độc ác luôn đánh đập cô bé. Vào một ngày nọ, thầy giáo Đuy-sen một người thanh niên cộng sản được cử về mở trường dạy học ở làng Cu-cu-rêu, hai người đã gặp nhau. Thầy Đuy-sen vô cùng quý mến An-tư-nai và cầu xin gia đình bà thím cho An-tư-nai đi học. Sau bao nhiêu vất vả, cuối cùng thầy đã thành công.
+ Thầy Đuy-sen và An-tư-nai cùng lũ học trò đã trải qua rất nhiều khó khăn, trong thời tiết khắc nghiệt với cái rét lạnh cóng nhưng họ vẫn có một nghị lực phi thường. Nhưng không may mắn, bà thím An-tư-nai đã quyết gả cô cho một tên quý tộc to lớn và thô thiển để lấy tiền. Thầy Đuy-sen đã ra sức bảo vệ An-tư-nai. Hai thầy trò đã cùng nhau trồng hai cây phong bé nhỏ trên ngọn đồi và thầy Đuy-sen nói với An-tư-nai rằng giờ đây An-tư-nai như hai cây phong này vậy, nhưng sau này, khi lớn lên, An-tư-nai chắc chắn sẽ thành công.
+ Nhưng sự thật quá phũ phàng, An-tư-nai vẫn bị bắt đi làm vợ lẽ mặc sức thầy Đuy-sen đã ra sức chống cự bọn quý tộc đến nỗi bị chúng đánh gãy tay và máu chảy đầm đìa.
+ Sau ba ngày sống trong địa ngục, cuối cùng An-tư-nai đã được thầy Đuy-sen cùng công an giải cứu và đưa lên tỉnh học. Lúc này, An-tư-nai đã biết mình có tình cảm với thầy Đuy-sen. Cô viết thư cho thầy nhưng Đuy-sen không muốn làm ảnh hưởng tới việc học của An-tư-nai, anh đã không trả lời. Đã mấy lần An-tư-nai nhìn lần người khác thành Đuy-sen nhưng dường như điều đó gần như vô vọng vì Đuy-sen đã đi bộ đội và bị báo tin mất tích… Năm 1946, An-tư-nai trở về quê hương xưa, nơi cô đã lớn lên, đã sống những ngày tháng cùng với người thầy Đuy-sen của mình, đặt tên cho ngôi trường mà cô đỡ đầu là: “Trường Đuy-sen” – ngôi trường mang tên người cộng sản đầu tiên.
b. Những chi tiết của làng ku-ku-rêu: Kỉ niệm bọn trẻ chạy ào lên phá tổ chim. Chân đất, bám vào các mắt mấu…chấn động cả vương quốc loài chim. Ngồi dưới cành cây suy nghĩ…lắng nghe tiếng gió.
c. Hình ảnh hai cây phong
– Hai cây phong nằm ở trên đồi như ngọn hải đăng trên núi.
– Ai đến làng cũng đều thấy chúng trước tiên ⇒ Là dấu hiệu để nhận ra làng.
⇒ Phép so sánh chỉ giá trị tín nhiệm của hai cây phong. Khẳng định giá trị không thể thiếu đối với những người đi xa, thể hiện niềm tự hào về hai cây phong.
– Hai cây phong ấy cũng có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng: tiếng rì rào nhiều cung bậc khác nhau.
– Hai cây phong gắn bó với sự sống, với con người: nơi giúp bọn trẻ thấy một “thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”, nhìn ra vẻ đẹp mới và khơi gợi khát vọng khám phá miền đất lạ.
– Hai cây phong là nhân chứng cho hành động và tình cảm của thầy Đuy-sen.
– Cảnh trèo lên hai cây phong cho ta thấy đây là nơi hội tụ niềm vui, mở rộng chân trời hiểu biết, nơi khắc ghi những biến cố của làng.
⇒ Hình ảnh hai cây phong được xem là dấu ấn của làng đã in sâu vào trong trái tim, khối óc và trở thành một phần máu thịt của người đi xa.
Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Vb Lão Hạc trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!