Bạn đang xem bài viết Top 6 Bài Soạn “Tìm Hiểu Chung Về Văn Tự Sự” Lớp 6 Hay Nhất được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phần I: Ý NGHĨA VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ
Trả lời câu 1 (trang 27 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Trong đời sống hàng ngày người ta thường nghe những yêu cầu và những câu hỏi như sau:
– Bà ơi, bà kể chuyện cổ tích cho cháu nghe đi!
– Cậu kể cho mình nghe Lan là người như thế nào.
– Bạn An gặp chuyện gì mà lại thôi học nhỉ?
– Thơm ơi, lại đây tớ kể cho nghe câu chuyện này hay lắm.
a) Gặp trường hợp như thế, theo em, người nghe muôn biết điều gì và người kể phải làm gì?
Lời giải chi tiết:
a) Gặp những trường hợp như trên, người nghe muốn tìm hiểu sự việc, con người, câu chuyện của người kể, còn người kể phải thông báo, cho biết, giải thích giúp người nghe hiểu.
b) Muốn biết Lan là một người bạn tốt người kể cần phải kể ra những việc làm, hành động, tư tưởng, tình cảm cụ thể của Lan đối với bạn bè. Chẳng hạn:
+ Giúp đỡ bạn trong học tập.
+ Giúp bạn trong hoàn cảnh khó khăn, sẵn sàng chia sẻ khó khăn với bạn.
+ Luôn quan tâm, an ủi, động viên bạn bè vượt lên hòan cảnh để học tập, rèn luyện tốt.
– Phải kể những biểu hiện cụ thể như vậy thì người nghe với hiểu một cách tường tận, và có sự đánh giá đúng đắn về đốì tượng.
Trả lời câu 2 (trang 28 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Truyện Thánh Gióng mà em đã học là một văn bản tự sự. Văn bản này cho ta biết những điều gì? Vì sao có thể nói truyện Thánh Gióng là truyện ngợi ca công đức của vị anh hùng làng Gióng?
Hãy liệt kê các sự việc theo thứ tự trước sau của truyện. Truyện bắt đầu từ đâu, diễn biến như thế nào, kết thúc ra sao? Từ thứ tự các sự việc đó, em hãy suy ra đặc điểm của (phương thức) tự sự.
Lời giải chi tiết:
– Truyện Thánh Gióng cho ta biết Thánh Gióng là một vị anh hùng dân tộc đã đứng lên giết giặc ngoại xâm đem lại hạnh phúc cho nhân dân
– Các sự việc trong truyện được sắp xếp theo thứ tự sau:
1. Sự ra đời kì lạ của Thánh Gióng.
2. Thánh Gióng biết nói và nhận trách nhiệm đánh giặc.
3. Thánh Gióng lớn nhanh như thổi.
4. Thánh Gióng vươn vai thành tráng sĩ cưỡi ngựa sắt, mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt đi đánh giặc.
5. Thánh Gióng đánh tan giặc
6. Thánh Gióng lên núi, cởi bỏ áo giáp sắt bay về trời.
7. Vua lập đền thờ phong danh hiệu.
8. Những dấu tích còn lại của Thánh Gióng.
– Trong các sự việc trên thì:
+ Sự việc 1 là sự việc mở đầu.
+ Các sự việc từ 2 đến 7 là sự việc diễn biến.
+ Sự việc 8 là sự việc kết thúc.
– Từ thứ tự các sự việc trên ta có thể suy ra đặc điểm của phương thức tự sự là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
Phần II: LUYỆN TẬP
Trả lời câu 1 (trang 28 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Đọc mẩu chuyện sau và trả lời câu hỏi: Trong truyện này, phương thức tự sự thể hiện như thế nào? Câu chuyện thể hiện ý nghĩa gì?
Ông già và thần chết
Một lần ông già đẵn xong củi và mang về. Phải mang đi xa ông già kiệt sức, đặt bó củi xuống rồi nói:
– Chà, giá Thần Chết đến mang ta đi thì có phải hơn không!
Thần Chết đến và bảo:
– Ta đây, lão cần gì nào?
Ông già sợ hãi bảo:
– Lão muốn ngài nhấc hộ bó củi lên cho lão.
(Lép Tôn-xtôi, Kiến và chim bồ câu)
Lời giải chi tiết:
* Phương thức tự sự của truyện được thể hiện ở chỗ: Truyện được kể theo trình tự thời gian, sự việc nối tiếp nhau, kết thúc bất ngờ, ngôi kể thứ ba. Nội dung của truyện kể diễn biến tư tưởng của một ông già.
* Ý nghĩa của câu chuyện:
– Ca ngợi trí thông minh của ông lão.
– Thể hiện tư tưởng yêu cuộc sống, dù kiệt sức thì sống cũng hơn chết.
Trả lời câu 2 (trang 29 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Bài thơ sau đây có phải tự sự không, vì sao? Hãy kể lại câu chuyện bằng miệng.
Sa bẫy
Bé Mây rủ mèo con
Đánh bẫy bầy chuột nhắt
Mồi thơm: cá nướng ngon
Lửng lơ trong cạm sắt.
Lũ chuột tham hoá ngốc
Chẳng nhịn thèm được đâu!
Bé Mây cười tít mắt
Mèo gật gù, rung râu.
Đêm ấy Mây nằm ngủ
Mơ đầy lồng chuột sa
Cùng mèo con đem xử
Chúng khóc ròng, xin tha !
Sáng mai vùng xuống bếp:
Bẫy sập tự bao giờ
Chuột không, cá cũng hết
Giữa lồng mèo nằm… mơ !
(Nguyễn Hoàng Sơn, Dắt mùa thu qua phố )
Lời giải chi tiết:
* Bài thơ Sa bẫy chính là một bài thơ tự sự. Tuy diễn đạt bằng thơ năm tiếng nhưng bài thơ đã kể lại một câu chuyện có đầu có đuôi, có nhân vật, chi tiết, diễn biến sự việc nhằm mục đích chế giễu tính tham ăn của mèo đã khiến mèo tự mình sa bẫy của chính mình.
* Kể lại câu chuyện:
Bé Mây rủ mèo con đánh bẫy lũ chuột nhắt bằng cá nướng thơm lừng treo lơ lửng trong cái cạm sắt. Cả bé, cả mèo đều nghĩ bọn chuột sẽ vì tham ăn mà mắc bẫy ngay. Đêm ngủ, Mây nằm mơ thấy cảnh chuột bị sập bẫy đầy lồng. Chúng chí cha chí chóe khóc lóc, cầu xin tha mạng.
Sáng hôm sau, ai ngờ khi xuống bếp xem, bé Mây chẳng thấy chuột, cũng chẳng còn cá nướng, chỉ có ở giữa lồng, mèo ta đang cuộn tròn ngáy khò khò… Chắc mèo đang mơ!…
Trả lời câu 3 (trang 29 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Hai văn bản: Huế: Khai mạc trại điêu khắc quốc tế lần thứ ba và Người Âu Lạc đánh tan quân Tần xâm lược trong SGK có nội dung tự sự không? Vì sao? Tự sự ở đây có vai trò gì?
Lời giải chi tiết:
– Cả hai văn bản đều có nội dung tự sự với nghĩa kể chuyện, kể việc.
– Tự sự ở đây có vai trò giới thiệu, tường thuật, kể chuyện thời sự hay lịch sử.
Trả lời câu 4 (trang 30 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Hãy kể câu chuyện để giải thích vì sao người Việt Nam tự xưng là con Rồng, cháu Tiên.
Lời giải chi tiết:
Tổ tiên người Việt xưa là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lạc Long Quân nòi Rồng hay chơi ở vùng sông hồ ở Lạc Việt (Bắc Bộ Việt Nam). Bà Ầu Cơ là giống tiên phương Bắc xuống chơi vùng Lạc Việt, thấy cảnh đẹp quên về. Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp nhau rồi đem lòng yêu nhau, họ trở thành vợ chồng. ít lâu sau Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng nở ra một trăm người con. Người con trưởng được chọn làm vua, gọi là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đời đời cha truyền con nối. Biết ơn và tự hào về dòng giống của mình, người Việt tự xưng là con Rồng, cháu Tiên.
Trả lời câu 5 (trang 30 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Trong cuộc họp lớp đầu năm Giang, đề nghị bầu Minh làm lớp trưởng, vì bạn Minh đã chăm học, học giỏi, lại thường giúp đỡ bạn bè. Theo em, Giang có nên kể vắn tắt một vài thành tích của Minh để thuyết phục các bạn cùng lớp hay không?
Lời giải chi tiết:
Bạn Giang nên kể vắn tắt một vài thành tích của Minh để các bạn trong lớp hiểu Minh là người chăm học, học giỏi lại thường hay giúp đỡ bạn.
Top 6 Bài Soạn “Thầy Bói Xem Voi” Lớp 6 Hay Nhất 2022
Nội Dung Chính Của Bài Viết
I. Đôi nét về tác phẩm: Thầy bói xem voi1. Tóm tắtNăm ông thầy bói mù góp tiền để xem con voi có hình thù thế nào. Mỗi ông sờ một bộ phận của voi. Ông sờ vòi bảo con voi sun sun như con đỉa; ông sờ ngà bảo con voi chần chẫn như cái đòn càn; ông sờ tai bảo con voi như cái quạt thóc; ông sờ chân nói con voi như cái cột đình; ông sờ đuôi lại bảo con voi tun tủn như các chổi sể cùn. Năm ông cãi nhau rồi đánh nhau toác đầu chảy máu.
2. Bố cục (3 phần)– Phần 1 (từ đầu đến “thầy thì sờ đuôi”): Hoàn cảnh xem voi của các thầy bói– Phần 2 (tiếp đó đến “như cái chổi sể cùn”): Các thầy bói xem voi và phán về voi– Phần 3 (còn lại): Kết quả của việc xem voi
3. Giá trị nội dungTừ câu chuyện chế giễu cách xem voi và phán về voi của năm ông thầy bói, truyện “Thầy bói xem voi” khuyên người ta: muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện.
4. Giá trị nghệ thuật– Cách giáo huấn nhẹ nhàng, tự nhiên mà sâu sắc– Dùng đối thoại, tạo nên tiếng cười kín đáo, hài hước– Dùng lối nói phóng đại– Lặp lại các sự việc
II. Đọc – hiểu văn bản:
Câu 1: Hãy nêu cách thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán như thế nào?
*Các cách thầy bói xem voi và phán về voi:
Cách xem voi của năm ông thầy là dùng tay để sờ vì mắt các thầy đều mù. Mỗi thầy chỉ sờ được một bộ phận của voi (vòi, ngà, tai, chân, đuôi), sờ được bộ phận nào thì phán hình thù con voi như thể (như con đỉa, như cái đòn càn, như cái quạt, như cái cột nhà, như cái chổi sể cùn), tưởng đó là toàn bộ con voi.
*Thái độ của năm ông thầy bói khi phán về voi:
– Cả năm ông thầy bói đều phán sai về voi nhưng ai cũng khẳng định chỉ có mình là đúng và phủ nhận ý kiến của người khác. Cách phán này mang tính chủ quan, sai lầm.
– Năm ông không ai chịu nhường ai thành ra xô xát.
Câu 2: Năm thầy bói đều đã được sờ voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào?
Câu 3: Truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi” cho ta bài học:
– Muốn hiểu đúng và đầy đủ bất cứ một sự vật, sự việc gì, chúng ta cần phả xem xét, nhận xét, đánh giá một cách thận trọng, toàn diện, tổng hợp ý kiến của nhiều người. Chỉ có như vậy mới tránh được các sai lầm như những thầy bói trong truyện.
– Phải có cách xem xét sự vật phù hợp với sự vật đó và phù hợp với mục đích xem xét.
III. LUYỆN TẬP:
Kể một số ví dụ của em hoặc của bạn em đã nhận định, đánh giá sự vật hay con người một cách sai làm như kiểu “Thầy bói xem voi” và hậu quả của nó:
VD: Bạn em rất hay đem ra so sánh sự giàu – nghèo của hai bạn cùng lớp.
Nhưng sự thật không phải như vậy bạn A lại sinh ra trong một gia đình nghèo, do bố bạn bị bắt đi tù nên bạn mới như vậy.
Bài 1 trang 103 SGK Ngữ văn 6 tập 1
Hãy nêu cách các thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán như thế nào?
Trả lời
– Năm ông thầy bói xem voi bằng cách lấy tay sờ. Vì con voi quá to nên mỗi thầy chỉ “xem” một bộ phận của nó.
Mỗi thầy phán về con voi một cách chính xác và sinh động:
Thầy sờ voi thì thấy sun sun như con đỉa
Thầy sờ ngà thì thấy chần chẫn như cái đòn càn
Thầy sờ chân thì thấy sừng sững như cái cột đình
Thầy sờ tai thì thấy bè bè như cái quạt thóc
Thầy sờ đuôi thì thấy tun tủn như cái chổi sể cùn
– Thái độ của các thầy bói khi phán về voi:
Ai cũng tin là mình nói đúng nhất
Người sau bác bỏ người trước để khẳng định ý kiến của mình
Không biết lắng nghe ý kiến của nhau, từ bàn tán chuyển sang xô xát đánh nhau.
Bài 2 trang 103 SGK Ngữ văn 6 tập 1
Năm thầy bói đều đã được sờ vào voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào?
Trả lời
– Sai lầm của các thầy bói là ở chỗ: đáng lẽ phải xem cả con voi thì mỗi thầy lại chỉ sờ được một bộ phận của voi và bảo rằng đó là con voi. Vòi, chân, tai, ngà, đuôi đúng là của con voi thật, nhưng mới chỉ là những bộ phận riêng lẻ, chưa phải là cả con voi.
– Nếu các thầy chịu khó lắng nghe ý kiến của nhau, hỏi quản tượng, kết hợp với việc miêu tả, nhận thức của mỗi người, các thầy sẽ biết con voi là như thế nào.
– Họ đã chủ quan trong việc nhận thức sự vật hiện tượng, tự cho là mình đúng, như vậy họ không chỉ mù mắt mà còn mù về phương pháp đánh giá, mù về sự nhận thức.
Bài 3 trang 103 SGK Ngữ văn 6 tập 1
Truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi cho ta bài học gì?
Trả lời
Những bài học từ truyện Thầy bói xem voi:
– Khi xem xét một sự vật (hoặc sự việc) cần kết hợp các giác quan (tai nghe, mắt thấy…).
– Nếu không có điều kiện xem xét bằng đầy đủ các giác quan thì phải xem xét một cách toàn diện, không lấy cái bộ phận, đơn lẻ thay cho cái toàn thể.- Cần phải biết lắng nghe ý kiến của người khác, vừa nghe vừa kết hợp với phân tích, đánh giá, tổng hợp của riêng mình để có được một cái nhìn chính xác, toàn diện và đầy đủ nhất.
Câu hỏi luyện tập trang 103 SGK Ngữ văn 6 tập 1
Kể một số ví dụ của em hoặc của các bạn về những trường hợp mà em hoặc các bạn đã nhận định, đánh giá sự vật hay con người một cách sai lầm theo kiểu “Thầy bói xem voi” và hậu quả của những đánh giá sai lầm này.
Trả lời
Một số trường hợp có thể xảy ra như tình huống “Thầy bói xem voi”:
– Một bạn vô tình làm em ngã, em lại nghĩ rằng bạn có ý gây gổ cố tình đẩy ngã em.
– Bạn em mượn sách của em nhưng quên không trả và em nghĩ rằng bạn giả vờ quên để lấy luôn cuốn sách của em.
Tham khảo câu chuyện sau:
Khi em nghe được chuyện bạn An đã lấy cắp tiền của bạn Minh trong lớp, em đã vội vàng tin ngay dù không được chứng kiến điều đó. Chính vì vậy, em đã nghĩ bạn An là người không trung thực và không chơi với bạn từ đó. Các bạn trong lớp thường xuyên bàn tán và xa lánh An khiến bạn buồn khi bị cô lập. Đến vài ngày sau, khi Minh tìm được số tiền đó và An đã được minh oan.
Hậu quả: Em cảm thấy rất hối hận khi đã vội vàng kết luận về người khác dù không biết rõ sự việc. Sự đánh giá vội vàng của em đã dẫn đến những suy nghĩ sai lầm về tính cách và con người của bạn An.
Tổng kết
Từ câu chuyện chế giễu cách xem và phán về voi của năm ông thầy bói, truyện Thầy bói xem voi khuyên người ta muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện.
Trả lời câu 1 (trang 103 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Hãy nêu các cách thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán về voi như thế nào?
Lời giải chi tiết:
– Cách các thầy bói xem voi và phán về voi là: dùng tay để sờ vì mắt các thầy đều mù. Mỗi thầy chỉ sờ được một bộ phận của voi, sờ được bộ phận nào thì phán hình thù con voi như thế.
+ Thầy sờ vòi thì thấy sun sun như con đỉa
+ Thầy sờ ngà thì thấy chần chẫn như cái đòn càn
+ Thầy sờ chân thì thấy sừng sững như cái cột đình
+ Thầy sờ đuôi thì thấy tua tủa như cái chổi sể cùn
+ Thầy sờ tai thì thấy bè bè như cái quạt thóc.
– Thái độ của năm ông thầy bói khi phán về voi: Cả năm ông thầy bói đều phán sai về voi nhưng ai cũng một mực theo ý kiến chủ quan của mình và cho rằng ý kiến của người khác là sai.
Trả lời câu 2 (trang 103 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Năm ông thầy bói đã được sờ voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào?
Lời giải chi tiết:
Năm thầy bói đều đã được sờ voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ:
– Cả năm thầy đều có cách xem phiến diện: sờ một bộ phận nhưng đã nói cả con voi.
– Các thầy đều không chịu lắng nghe ý kiến của nhau mà chỉ một mực theo ý kiến chủ quan của mình.
Trả lời câu 3 (trang 103 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):
Truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi cho ta bài học gì?
Lời giải chi tiết:
Bài học rút ra từ truyện:
– Muốn hiểu đúng và đầy đủ bất cứ một sự vật, sự việc gì, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá một cách thận trọng, toàn diện.
– Phải biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến người khác
– Không dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nhận thức.
LUYỆN TẬP
Kể một số ví dụ của em hoặc các bạn về những trường hợp mà em hoặc các bạn đã nhận định, đánh giá sự vật hay con người một cách sai lầm theo kiểu “Thầy bói xem voi” và hậu quả của những đánh giá sai lầm này.
Lời giải chi tiết:
Trong giờ trả bài kiểm tra, Lan có điểm kiểm tra môn toán được 9 điểm. Trong các tiết học bình thường, Lan học kém hơn và chậm hiểu bài hơn các bạn. Vì vậy, các bạn ngồi bên cạnh xì xào rằng Lan đã chép bài của người khác hoặc vì Lan ôn “trúng tủ”, may mắn nên mới đạt điểm cao. Khi nghe được điều đó, Lan đứng dậy và bạn giải thích rằng: Vì em biết em chưa học tốt môn Toán nên em đã cố gắng nỗ lực ôn tập tốt, dành nhiều thời gian để luyện tập các dạng bài toán. Do đó, bài kiểm tra vừa rồi em đã làm được đề bài cô ra. Sau đó bạn mong cô cho thêm một bài tập bất kì để bạn được chứng minh khả năng thực sự của mình. Bạn đã lên bảng và giải bài toán đó với đáp án đúng.
Hậu quả: Như vậy, các bạn trong lớp đã không nhìn vào sự cố gắng thực sự của Lan để đánh giá mà suy luận, “đoán mò”. Khi đưa ra lời đánh giá một cách vội vàng, không hiểu bản chất của sự việc đã khiến cho bạn bị tổn thương.
Tóm tắt
Năm ông thầy bói mù góp tiền để xem con voi có hình thù thế nào. Mỗi ông sờ một bộ phận của voi. Ông sờ vòi bảo con voi sun sun như con đỉa; ông sờ ngà bảo con voi chần chẫn như cái đòn càn; ông sờ tai bảo con voi như cái quạt thóc; ông sờ chân nói con voi như cái cột đình; ông sờ đuôi lại bảo con voi tun tủn như các chổi sể cùn. Năm ông cãi nhau rồi đánh nhau toác đầu chảy máu.
Bố cục
Bố cục: 2 đoạn
– Đoạn 1 (Từ đầu đến “như cái chổi sể cùn”): Các thầy bói xem voi và phán về các bộ phận của con voi.
– Đoạn 2 (Còn lại): Hậu quả của việc phán voi.
Nội dung chính
Từ câu chuyện chế giễu cách xem và phán về voi của năm ông thầy bói, truyện khuyên người ta: muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện.
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG 1. Tóm tát truyện
Năm ông thầy bói nhân buổi ế hàng chung tiền biếu quản voi để xem voi. Mỗi người sờ một bộ phận của voi. Sau đó bàn tán.
– Thầy sờ vòi bảo voi sun sun như con đỉa.
– Thầy sờ ngà bảo voi chần chẫn như cái đòn càn.
– Thầy sờ tai bảo voi bè bè như cái quạt thóc.
– Thầy sờ chân cãi voi sừng – sững như cái cột đình.
– Thầy sờ đuôi nói voi tua tủa như cái chổi sể cùn.
Năm thầy cãi nhau không ai chịu ai, thành ra xô xát, đánh nhau toác đầu chảy máu.
2. Qua việc thuật lại cách xem voi và cuộc tranh luận, miêu tả voi của các thầy bói, truyện khuyên mọi người : Muốn tìm hiểu sự vật phải có cách tiếp cận thích hợp, phải xem xét toàn diện, không lấy bộ phận thay cho toàn thể, phải biết lắng nghe ý kiến của người khác, không dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nhận thức.
II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HlỂU VĂN BẢN
Câu 1. Các thầy bói xem voi bằng cách lấy tay sờ vì các thầy đều bị hỏng mắt. Bởi con voi quá to nên mỗi thầy chỉ “xem” được một bộ phận của nó. Vì thế khi nói về voi, mỗi thầy chỉ nói được đúng phần mình đã sờ thấy. Việc diễn tả khá chính xác và sinh động:
– Thầy sờ vòi thì thấy sun sun như con đỉa.
– Thầy sờ ngà thì thấy chần chẫn như cái đòn càn.
– Thầy sờ tai thì thấy bè bè như cái quạt thóc.
– Thầy sờ chân thì thấy sừng sững như cái cột đình.
– Thầy sờ đuôi thì thấy tua tủa như cái chổi sể cùn.
Thái độ của các thầy bói khi phán về voi:
– Ai cũng tin là mình nói đúng nhất.
– Người sau bác bỏ người trước để khẳng định ý kiến của mình.
– Không chịu lắng nghe ý kiến của nhau, từ bàn tán chuyển sang xô xát, đánh nhau.
Câu 2. Năm thầy bói đã tiếp xúc với voi thật, sờ thấy voi thật, nhưng không ai nói đúng về voi. Sai lầm của các thầy bói là ở chỗ:
– Họ đã dùng “tay” để xem voi, dùng cách sờ soạng thay cho mắt nhìn.
– Vì con voi quá to mỗi thầy chỉ xem được một bộ phận, chưa xem được toàn thể, nên tả lại cả con voi qua một bộ phận mình sờ thấy. Dù bộ phân đó là đúng, nhưng đó không phải là con voi, mà chỉ là vòi voi, ngà voi, tai voi, chân voi, đuồi voi mà thôi.
– Điều cuối cùng là họ không biết lắng nghe ý kiến của người khác. Nếu họ hỏi người quản tượng, kết hợp việc miêu tả, nhận thức của mỗi người, họ sẽ biết được con voi là như thế nào.
Câu 3. Những bài học của truyện Thầy hói xem voi:
– Phải tìm hiểu sự vật bằng phương cách tiếp cận thích hợp (xem phải dùng mắt, xem bằng “tay” sẽ không tránh khỏi mò mẫm, sai sót).
– Phải xem xét và khái quát một cách toàn diện, không lấy cái bộ phận, cái đơn lẻ thay thê’ cho toàn thể.
– Phải biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của người khác.
– Không dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nhận thức, như vậy chỉ có. thể dẫn đến toác đầu, chảy máu chứ không giúp hiểu biết về sự vật.
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Có thể tìm đọc trong sảch vở, quan sát trong đời sống để tìm ra những trường hợp phán đoán, đánh giá sai theo kiểu “Thầy bói xem voi”.
Ví dụ 1: Khi em nghe được chuyện bạn An đã lấy cắp tiền của bạn Minh trong lớp, em đã vội vàng tin ngay dù không được chứng kiến điều đó. Chính vì vậy, em đã nghĩ bạn An là người không trung thực và không chơi với bạn từ đó. Các bạn trong lớp thường xuyên bàn tán và xa lánh An khiến bạn buồn khi bị cô lập. Đến vài ngày sau, khi Minh tìm được số tiền đó và An đã được minh oan.
Ví dụ 2: Giờ ra chơi, em vừa định mở của phòng học thì bạn Nam ở lớp bên cạnh mở mạnh cụng vào người em. Mặc dù, Nam xin lỗi nhưng em vẫn rất giận. Em gây rối với bạn ấy. Em đã cho rằng Nam là kẻ ưa gây gổ với bạn bè. Mãi cuối năm học, Nam là học sinh xuất sắc lại là người gương mẫu về tư cách tác phong trong quan hệ với bè bạn và thầy cô. Em đã thấy mình hiểu sai
Ví dụ 3: Trong giờ trả bài kiểm tra, Lan có điểm kiểm tra môn toán được 9 điểm. Trong các tiết học bình thường, Lan học kém hơn và chậm hiểu bài hơn các bạn. Vì vậy, các bạn ngồi bên cạnh xì xào rằng Lan đã chép bài của người khác hoặc Lan xem tài liệu may mắn nên mới đạt điểm cao. Khi nghe được điều đó, Lan đứng dậy và bạn giải thích rằng: Vì em biết em chưa học tốt môn Toán nên em đã cố gắng nỗ lực ôn tập tốt, dành nhiều thời gian để luyện tập các dạng bài toán. Do đó, bài kiểm tra vừa rồi em đã làm được đề bài cô ra. Sau đó bạn mong cô cho thêm một bài tập bất kì để bạn được chứng minh khả năng thực sự của mình. Bạn đã lên bảng và giải bài toán đó với đáp án đúng.
Câu 1 (trang 103 sgk ngữ văn 6 tập 1)
Năm ông thầy bói xem voi bằng cách lấy tay sờ. Vì con voi quá to nên mỗi thầy chỉ “xem” một bộ phận của nó.
– Mỗi thầy phán về con voi một cách chính xác và sinh động:
– Thầy sờ voi thì thấy sun sun như con đỉa
– Thầy sờ ngà thì thấy chần chẫn như cái đòn càn
– Thầy sờ chân thì thấy sừng sững như cái cột đình
– Thầy sờ tai thì thấy bè bè như cái quạt thóc
– Thầy sờ đuôi thì thấy tun tủn như cái chổi sể cùn
Thái độ của các thầy bói khi phán về voi:
– Ai cũng tin là mình nói đúng nhất
– Người sau bác bỏ người trước để khẳng định ý kiến của mình
– Không biết lắng nghe ý kiến của nhau, từ bàn tán chuyển sang xô xát đánh nhau.
Câu 2 (Trang 103 sgk ngữ văn 6 tập 1)
Năm ông thầy bói sờ thấy voi thật nhưng không nắm được tổng thể của voi.
– Họ chỉ dùng “tay” để xem voi, dùng cách sờ soạng thay cho việc mắt nhìn
– Vì con voi quá to mỗi thầy chỉ xem được một bộ phận, chưa xem được toàn thể, nên tả lại con voi qua một bộ phận mình sờ thấy.
– Họ đã không cùng lắng nghe để bổ sung lẫn nhau, mà nhất quyết bảo thủ cho rằng ý kiến của mình đúng.
Câu 3 (trang 103 sgk ngữ văn 6 tập 1)
Bài học được rút ra trong bài Thầy bói xem voi:
– Phải tìm hiểu sự vật bằng các phương cách tiếp cận thích hợp
– Phải xem xét một cách khách quan, toàn diện
– Phải biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến người khác
– Không dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nhận thức
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Tóm tắt truyện: Năm ông thầy bói rủ nhau chung tiền biếu người quản voi để xem con voi có hình thù thế nào. Mỗi ông xem một bộ phận, cuối cùng cãi nhau, không ông nào chịu ông nào: ông xem vòi bảo voi sun sun như con đỉa; ông xem ngà bảo voi giống cái đòn càn; ông xem tai bảo nó giống cái quạt thóc; ông xem chân bảo voi sừng sững như cái cột đình; ông cuối cùng xem đuôi, bảo voi tun tủn như cái chổi sể cùn. Cãi nhau vì không thể phân thắng bại, năm ông đánh nhau toác đầu, chảy máu.
Ý nghĩa truyện:Sự vật bao giờ cũng do nhiều bộ phận, chi tiết hợp thành, cấu tạo thành. Câu chuvện nêu lên môi tương quan giữa bộ phận và toàn thể trong một sự vật: bộ phận làm nên toàn thể nhưng bộ phận không phải là toàn thể. Qua đó, phê phán những kẻ chĩ đoán mò, nhìn nhận sự vật một cách phiến diện, thấy bộ phận mà không thấy toàn cục, thấy cây mà chẳng thấy rừng. Đó là cách nhìn nhận sự vật thiếu khoa học dẫn đến cách đánh giá sai lầm.Từ câu chuyện chế giễu cách xem và phán về voi của năm ông thầy bói, truyện Thầy bói xem voi khuyên người ta: muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: (Trang 103 – SGK Ngữ văn 6 tập 1) Hãy nêu cách các thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán như thế nào?
Bài làm:Vì mù nên họ không thấy được cả con voi mà mỗi người chỉ sờ được một bộ phận của voi nhưng họ đều tưởng đã biết tất cả về voi. Cách xem và phán về voi của 5 thầy bói mù:Người thứ nhất: sờ vòi, phán, voi như đỉa.Người thứ 2: Sờ ngà, phán, voi như cái đòn cànNgười thứ 3: sờ tai, phán, voi như cái quạt thócNgười thứ 4: sờ chân, phán, voi như cái cột đìnhNgười thứ 5: sờ đuôi, phán, voi như cái chổi xể cùnThái độ của các thầy khi phán về voi:Ai cũng quả quyết ý kiến của mình là đúng, không chấp nhận ý kiến của người khác.Tranh cãi quyết liệt, cuối cùng dẫn đến xô xát đánh nhau chảy tóe máu đầu.
Câu 2: (Trang 103 – SGK Ngữ văn 6 tập 1) Năm thầy bói đều đã sờ được voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào?Bài làm:Sai lầm của các thầy bói là ở chỗ: đáng lẽ phải xem cả con voi thì mỗi thầy lại chỉ sờ được một bộ phận của voi và bảo rằng đó là con voi. Vòi, chân, tai, ngà, đuôi đúng là của con voi thật, nhưng mới chỉ là những bộ phận riêng lẻ, chưa phải là cả con voi.Nếu các thầy chịu khó lắng nghe ý kiến của nhau, hỏi quản tượng, kết hợp với việc miêu tả, nhận thức của mỗi người, các thầy sẽ biết con voi là như thế nào.Họ đã chủ quan trong việc nhận thức sự vật hiện tượng, tự cho là mình đúng, như vậy họ không chỉ mù mắt mà còn mù về phương pháp đánh giá, mù về sự nhận thức.
Câu 3: (Trang 103 – SGK Ngữ văn 6 tập 1) Truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi cho ta bài học gì?Bài làm:Truyện giúp cho chúng ta bài học về cách nhìn nhận, đánh giá trong cuộc sống: Phải nhìn nhận sự việc ở phương diện tổng thể, chứ không nên lấy cái bộ phận, đơn lẻ thay cho toàn thể.Phải biết lắng nghe ý kiến của người khác, vừa nghe vừa kết hợp với phân tích, đánh giá, tổng hợp của riêng mình để có được một cái nhìn chính xác, toàn diện và đầy đủ nhất. Muốn đánh giá một sự việc hiện tượng được chính xác cần phải có sự kết hợp nhiều yếu tố tai nghe, mắt thấy và suy nghĩ kĩ càng, không nên đánh giá vội vàng, phiến diện.
LUYỆN TẬPCâu 1: (Trang 103 – SGK Ngữ văn 6 tập 1) Kể một số ví dụ của em hoặc các bạn về những trường hợp mà em hoặc các bạn đã nhận định, đánh giá sự vật hay con người một cách sai lầm theo kiểu “thầy bói xem voi” và hậu quả của những đánh giá sai lầm này.
Bài làm:Ví dụ:1. Khi em nghe được chuyện bạn An đã lấy cắp tiền của bạn Minh trong lớp, em đã vội vàng tin ngay dù không được chứng kiến điều đó. Chính vì vậy, em đã nghĩ bạn An là người không trung thực và không chơi với bạn từ đó. Các bạn trong lớp thường xuyên bàn tán và xa lánh An khiến bạn buồn khi bị cô lập. Đến vài ngày sau, khi Minh tìm được số tiền đó và An đã được minh oan.
Hậu quả: Em cảm thấy rất hối hận khi đã vội vàng kết luận về người khác dù không biết rõ sự việc. Sự đánh giá vội vàng của em đã dẫn đến những suy nghĩ sai lầm về tính cách và con người của bạn An.
2. Trong giờ trả bài kiểm tra, Lan có điểm kiểm tra môn toán được 9 điểm. Trong các tiết học bình thường, Lan học kém hơn và chậm hiểu bài hơn các bạn. Vì vậy, các bạn ngồi bên cạnh xì xào rằng Lan đã chép bài của người khác hoặc vì Lan ôn “trúng tủ”, may mắn nên mới đạt điểm cao. Khi nghe được điều đó, Lan đứng dậy và bạn giải thích rằng: Vì em biết em chưa học tốt môn Toán nên em đã cố gắng nỗ lực ôn tập tốt, dành nhiều thời gian để luyện tập các dạng bài toán. Do đó, bài kiểm tra vừa rồi em đã làm được đề bài cô ra. Sau đó bạn mong cô cho thêm một bài tập bất kì để bạn được chứng minh khả năng thực sự của mình. Bạn đã lên bảng và giải bài toán đó với đáp án đúng.
Hậu quả: Như vậy, các bạn trong lớp đã không nhìn vào sự cố gắng thực sự của Lan để đánh giá mà suy luận, “đoán mò”. Khi đưa ra lời đánh giá một cách vội vàng, không hiểu bản chất của sự việc đã khiến cho bạn bị tổn thương.
Top 6 Bài Soạn “Mạch Lạc Trong Văn Bản” Lớp 7 Hay Nhất
Phần I: MẠCH LẠC VÀ NHỮNG YÊU CẦU VỀ MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN
1. Mạch lạc trong văn bản
a. Mạch lạc trong văn bản có những tính chất gì?
b. Trong văn bản, mạch lạc là sự tiếp nối của các câu, các ý theo một trình tự hợp lí. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
Trả lời:
a. Hai chữ mạch lạc trong đông y vốn có nghĩa là mạch máu trong thân thể. Trong một văn bản cũng có cái gì như mạch máu làm cho các phần của văn bản thống nhất lại, gọi là mạch lạc. Như vậy mạch lạc trong văn bản có những tính chất sau:
– Tuần tự đi qua khắp các phần, các đoạn trong văn bản
– Thông suốt, liên tục, không đứt đoạn.
b. Trong văn bản, mạch lạc là sự tiếp nối của các câu, các ý theo trình tự hợp lí: Vì các câu, các ý ấy thống nhất xoay quanh một ý chung.
2. Các điều kiện dể một văn bản có tính mạch lạc
a. Hãy cho biết toàn bộ sự việc trong văn bản xoay quanh sự việc chính nào. Sự chia tay và những con búp bê đóng vai trò gì trong truyện? Hai anh em Thành và Thủy có vai trò gì trong truyện?
c. Những mối liên hệ giữa các đoạn ấy có tự nhiên, hợp lí không?
Trả lời:
a.
– Văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê kể về nhiều sự việc chia tay của 2 anh em.
– Trong đó “sự chia tay “và “những con búp bê” là sự kiện chính, còn hai anh em Thành, Thủy là nhân vật chính của truyện.
b.
– Hai anh em Thành Thủy phải chia tay, những con búp bê không chi tay, giống như tình cảm của hai anh em mãi gắn bó, không gì có thể chia cắt được → Đó là mạch lạc của văn bản.
c. Trong văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê”, các đoạn văn được nối với nhau bằng nhiều mối quan hệ:
– Đoạn kể về quá khứ với đoạn kể về hiện tại ⟶ liên hệ tâm lí.
– Đoạn kể về việc ở nhà với đoạn kể về việc ở trường ⟶ liên hệ không gian.
– Đoạn kể chuyện hôm qua với đoạn kể về chuyện sáng nay ⟶ liên hệ thời gian.
– Đoạn kể về tâm trạng của hai an hem với đoạn kể về cảnh vật bên ngoài ⟶ liên hệ tương phản.
– Cảnh chia đồ chơi với cảnh chia tay của hai an hem ⟶ liên hệ tương đồng.
⟹ Những mối liên hệ giữa đoạn là tự nhiên hợp lí.
Phần II: LUYỆN TẬP
Trả lời câu 1 (trang 32 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Hãy tìm hiểu tính mạch lạc của:
a) Văn bản Mẹ tôi. (Ét-môn-đô đơ A-mi-xi)
Trả lời:
Ý tứ chủ đạo của văn bản này là sự ca ngợi lòng yêu thương và sự hi sinh của mẹ đối với con.
Phần nội dung chính của bức thư gồm các phần:
– Đầu tiên là lời giới thiệu của nhân vật “tôi” nói rõ lí do vì sao bố viết thư cho mình.
– Phần tiếp theo là nội dung của bức thư, gồm có những phần sau:
+ Nỗi buồn của bố trước thái độ hỗn láo của En-ri-cô đối với mẹ.
+ Người bố gợi lại những ngày tháng mẹ lo lắng, chăm sóc cho En-ri-cô.
+ Nói về sự hi sinh và vai trò to lớn của người mẹ.
+ Bố giả định ngày mẹ mất và sự vô ích của nỗi hối hận muộn màng.
+ Thái độ nghiêm khắc của bố yêu cầu En-ri-cô phải xin lỗi mẹ và sửa chữa lỗi lầm.
Trình tự các phần xoay quanh và thể hiện được ý tứ chủ đạo một cách liên tục. Vì thế, văn bản Mẹ tôi rất mạch lạc.
b. Một trong 2 văn bản sau:
(1)
LÃO NÔNG VÀ CÁC CON
Hãy lao động cần cù gắng sức,
Ấy chân lưng sung túc nhất đời.
Phú nông gần đất xa trời
Họp riêng con lại, nói lời thiết tha
Rằng: “Ruộng đất ông cha để lại
Các con đừng khờ dại bán đi.
Kho vàng chôn dưới đất kia,
Cha không biết chỗ. Kiên trì gắng công
Tìm khắc thấy: cuối cùng sẽ thắng.
Xốc ruộng lên tháng tám sau mùa,
Tay cày, tay cuốc, tay bừa,
Xới qua xới lại, chẳng chừa chỗ không.”
Bố chết. Các con cùng gắng gổ
Lật tung đồng đây đó khắp nơi,
Kĩ càng công việc xong xuôi,
Cuối năm lúa tốt bời bời bội thu.
Vàng với bạc giấu mô chẳng thấy,
Rõ ràng ông bố ấy khôn ngoan,
Trước khi từ giã trần gian
Lấy câu “lao động là vàng” dạy con.
(La Phông-ten, Ngụ ngôn chọn lọc, Tú Mỡ dịch)
(2)
Mùa đông, giữa ngày mùa, làng quê toàn màu vàng – những màu vàng rất khác nhau. Có lẽ bắt đầu từ những đêm sương sa thì bóng tối đã hơi cứng và sáng ngày ra trông thấy màu trời có vàng hơn mọi khi. Lúa chín dưới đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm, không trông thấy cuống, như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Từng chiếc lá mít vàng sẫm. Tàu đu đủ, chiếc lá sắn héo lại mở năm cánh vàng tươi. Buồng chuối quả chín vàng đốm. Nắng vườn chuối đương có gió lẫn với lá vàng, như những vạt áo nắng, đuôi áo nắng, vẫy vẫy. Bụi mía vàng, từng đốt ngần phấn trắng. Dưới sân, rơm và thóc vàng giòn. Quanh đó, con gà, con chó cũng vàng mượt. Mái nhà phủ một màu rơm vàng mới. Tất cả đượm một màu trù phú, đầm ấm lạ lùng. Không có cảm giác héo tàn, hanh hao lúc sắp bước vào mùa đông.
Trả lời:
Văn bản (1)
– Chủ đề chính của văn bản là ca ngợi lao động “Lao động là vàng”.
– Văn bản được xây dựng theo bố cục ba phần.
+ Hai dòng đầu là mở bài: lời khuyên hãy cần cù lao động.
+ Mười bốn dòng giữa là thân bài kể chuyện Lão nông để lại kho tàng cho các con.
+ Bốn dòng cuối là kết bài: cách khuyên con lao động rất khôn ngoan của ông bố.
Văn bản (2)
+ Ý tứ chủ đạo của đoạn văn là: cái màu vàng của đồng quê.
+ Câu đầu giới thiệu thời điểm (mùa đông, giữa ngày mùa) và địa điểm (làng quê) khi mùa vàng xuất hiện. Tiếp theo tác giả tả màu vàng qua các sự vật cụ thể. Hai câu cuối nêu cảm xúc về màu vàng của làng quê.
⟹ Cả hai văn bản trên, ý tứ chủ đạo là đã được thể hiện xuyên suốt, nhất quán qua các phần một cách rõ ràng, hợp lí. Như thế, cả hai văn bản trở nên rất mạch lạc và hấp dẫn.
Trả lời câu 2 (trang 34 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Trong truyện Cuộc chia tay của những con búp bê, tác giả không thuật lại tỉ mỉ nguyên nhân dẫn đến sự chia tay của hai người lớn. Theo em như vậy có làm cho tác phẩm thiếu mạch lạc không?
Lời giải chi tiết:
– Sự việc chính của câu chuyện là cuộc chia tay giữa hai anh em Thành, Thuỷ và hai con búp bê. Các sự việc khác đều phải tập trung vào sự việc này.
Bài Soạn Lớp 6: Ngôi Kể Trong Văn Tự Sự
Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng để kể chuyện.
2. Các ngôi kể thường gặp trong tác phẩm tự sự
a. Ngôi kể thứ nhất: Người kể xưng tôi
b. Ngôi kể thứ ba: Người kể giấu mình, gọi sự vật bằng tên gọi của chúng – kể như người ta kể.
Đoạn a: Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả.
(Trích Em bé thông minh)
Đoạn b: Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao lâu, tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng. Đôi càng tôi mẫm bóng. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt.
(Tô Hoài – Dế Mèn phiêu lưu ký)
a. Đoạn a được kể theo ngôi nào? Dựa vào dấu hiệu nào để nhận ra điều đó?
b. Đoạn b được kể theo ngôi nào? Làm sao nhận ra điều đó?
c. Người xưng tôi trong đoạn 2 là nhân vật (Dế Mèn) hay là tác giả (Tô Hoài)?
d. Trong hai ngôi kể trên, ngôi kể nào có thể kể tự do, không bị hạn chế, còn ngôi kể nào chỉ được kể những gì mình biết và trải qua?
a. Đoạn a được kể theo ngôi thứ ba vì người kể giấu mình đi và gọi nhân vật bằng tên của chúng
b. Đoạn b được kể theo ngôi thứ nhất vì người kể xưng “tôi”.
c. Người xưng tôi trong đoạn 2 là tác giả (Tô Hoài)
d. Trong hai ngôi kể trên, ngôi kể thứ ba có thể kể tự do, không bị hạn chế, còn ngôi kể thứ nhất chỉ được kể lại những gì mình biết và trải qua.
Ghi nhớ:
Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng để kể chuyện.
Khi gọi các nhân vật bằng tên gọi của chúng, người kể ự giấu mình đi, tức là kể theo ngôi thứ ba, người kể có thể linh hoạt, tự do những gì diễn ra với nhân vật.
Khi tự xưng là “tôi” kể theo ngôi thứ nhất, người ể có thể trực tiếp kể ra những gì mình nghe, mình thấy, mình trải qua, có thể trực tiếp nói ra cảm tưởng, ý nghĩ của mình.
Để kể chuyện cho linh hoạt, thú vị, người kể có thể lựa chọn ngôi kể thích hợp.
Người kể xưng tôi trong tác phẩm không nhất thiết là chính tác giả.
Thay đổi ngôi kể trong đoạn văn sau thành ngôi thứ ba và nhận xét ngôi kể đem lại điều gì mới cho đoạn văn:
Ngày nào cũng vậy, suốt buổi tôi chui vào trong hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn làm thành một cái giường ngủ sang trọng. Rồi cũng lo xa như các cụ già trong họ hàng dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con dường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được.
(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí)
Trả lời:
Thay đổi ngôi thứ nhất thành ngôi thứ ba:
Ngày nào cũng vậy, suốt buổi Dế Mèn chui vào trong hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn làm thành một cái giường ngủ sang trọng. Rồi cũng lo xa như các cụ già trong họ hàng dế, Dế Mèn đào hang sâu sang hai ngả làm những con đường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được.
Thay đổi ngôi kể trong đoạn văn sau thành ngôi thứ nhất và nhận xét ngôi kể đem lại điều gì khác cho đoạn văn:
Một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn. Thanh định thần nhìn rõ: con mèo già cua bà chàng, con meo già vẫn chơi đùa với chàng ngày trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc thạch xanh giương lên nhìn người. Thanh mún cười lại gần vuốt ve con mèo.
(Thạch Lam, Dưới bóng hoàng lan)
Trả lời:
Thay đổi ngôi kể từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất, ta được:
Một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn. Tôi định thần nhìn rõ: con mèo già cua bà chàng, con meo già vẫn chơi đùa với chàng ngày trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc thạch xanh giương lên nhìn người. Tôi mún cười lại gần vuốt ve con mèo.
Trả lời:
Truyện “Cây bút thần” kể theo ngôi thứ ba, gọi tên sự vật cần kể. Mặc dù trong truyện có dùng từ em nhưng em ở đây không phải chỉ ngôi thứ nhất mà chỉ ngôi thứ ba – nhân vật Mã Lương.
Vì sao trong các truyện cổ tích, truyền thuyết người ta hay kế chuyện theo ngôi thứ ba mà không kể theo ngôi thứ nhất?
Trả lời:
Trong các truyên cổ tích, truyền thuyết, người ta hay kể chuyện theo ngôi thứ ba mà không kể theo ngôi thứ nhất vì:
Truyện đề cập tới nhiều nhân vật khác nhau, mỗi nhân vật tham gia vào một sự kiện nên không thể lúc nào người kể cũng hoá thân vào ngôi thứ nhất một cách dễ dàng được.
Truyện đề câp tới nhiều khoảng không gian khác nhau nên nếu kể theo ngôi thứ nhất, người kể phải có mặt tại tất cả các khoảng không gian đó mới có đủ tư cách để kể. Đây là điều không thể có trong thực tế đời sống.
Trả lời:
Khi viết thư, bao giờ cũng sử dụng ngôi kể thứ nhất dù có lúc người viết xưng tôi, em, tớ lại có lúc xưng con, cháu, …. Xưng hô thế nào là tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa người nhận thư với người viết.
Dùng ngôi kể thứ nhất kể miệng về cảm xúc của em khi nhận được quà tặng của người thân.
Trả lời:
Hôm qua, khi chú bưu tá đến nhà và giao cho em một hộp quà. Em đã rất ngạc nhiên khi biết đó là món quà của bố gửi về cho em. Bố đi công tác đã lâu, em và mẹ nhớ bố rất nhiều. Hộp quà được thắt chiếc nơ màu xanh là màu em yêu thích. Bố gửi về cho một bộ xếp hình và một con búp bê bằng gỗ bạch dương của nước Nga. Em tự hứa sẽ cố gắng học tập để đạt kết quả cao hơn nữa, để xứng đáng với niềm tin và tình yêu thương bố đã dành cho em.
Cập nhật thông tin chi tiết về Top 6 Bài Soạn “Tìm Hiểu Chung Về Văn Tự Sự” Lớp 6 Hay Nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!