Các Nghị Quyết Của Đảng Về Công Tác Cán Bộ / Top 9 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Nghị Quyết Của Đảng Ủy Trường Về Công Tác Quy Hoạch Cán Bộ

– Căn cứ Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19/12/2023 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử;

– Căn cứ Nghị quyết số 516-NQ/BCSĐ ngày 24/9/2023 của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về phân cấp xem xét, phê duyệt quy hoạch cán bộ của các cơ sở giáo dục đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo;

– Căn cứ Quyết định số 3268/QĐ-BGDĐT ngày 29/8/2023 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, kéo dài thời gian giữ chức vụ, thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm, luân chuyển công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

– Căn cứ Quy định số 1953-QĐi/TU ngày 03/5/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý;

– Căn cứ Quy định số 1954-QĐi/TU ngày 04/5/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử;

– Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ Trường khóa XXXI, nhiệm kỳ 2023 – 2023;

– Căn cứ Quy chế số 2472/QC-ĐHV ngày 16/9/2023 của Đảng ủy, Hội đồng Trường và Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh về quy chế phối hợp giữa Đảng ủy, Hội đồng Trường và Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh, nhiệm kỳ 2023-2023,

Ngày 02/10/2023, Ban Chấp hành Đảng bộ Trường đã họp và quyết nghị:

Giao tập thể lãnh đạo Trường Đại học Vinh (Ban Thường vụ Đảng ủy Trường, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng) xem xét, quyết định phê duyệt quy hoạch đối với các chức danh do Hội đồng Trường và Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh bầu, quyết định, bổ nhiệm theo các quy định của Đảng, Nhà nước, Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tỉnh ủy Nghệ An. Tập thể lãnh đạo Trường Đại học Vinh chịu trách nhiệm về những quyết định trong công tác quy hoạch cán bộ thuộc thẩm quyền được phân cấp; định kỳ báo cáo Ban Chấp hành Đảng bộ Trường theo quy định.

Thống nhất định hướng công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các đơn vị thuộc và trực thuộc Trường Đại học Vinh như sau:

Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ có đức, có tài, có triển vọng đưa vào quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý.

Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và thực tế đội ngũ cán bộ; phải gắn với các khâu khác trong công tác cán bộ, lấy quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cấp trên, bảo đảm sự liên thông, gắn kết giữa quy hoạch của các đơn vị với nhau.

Phải đánh giá đúng cán bộ trước khi đưa vào quy hoạch trên các mặt: phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; năng lực thực tiễn; uy tín; sức khỏe; chiều hướng và triển vọng phát triển.

Thống nhất thực hiện chủ trương quy hoạch cán bộ lên chức vụ cao hơn. Các đồng chí đương nhiệm về nguyên tắc đã phải có đủ tiêu chuẩn, điều kiện của chức vụ đang đảm nhiệm, nếu có triển vọng phát triển thì đưa vào quy hoạch chức vụ cao hơn; nếu đủ tiêu chuẩn, điều kiện tái cử, tái bổ nhiệm thì là nguồn đương nhiên để xem xét khi tiến hành công tác nhân sự của nhiệm kỳ mới.

Tối thiểu phải quy hoạch 02 người vào 01 chức danh; không quy hoạch 01 người vào quá 03 chức danh.

Phấn đấu đạt cơ cấu ba độ tuổi và tỷ lệ cán bộ nữ trong quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước, Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tỉnh ủy Nghệ An.

– Các tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể của từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý được công khai để cán bộ tham gia bỏ phiếu giới thiệu, phê duyệt quy hoạch được biết.

– Danh sách cán bộ đưa vào quy hoạch và đưa ra khỏi quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý được công khai trong cấp ủy, tập thể lãnh đạo cấp trên và đơn vị; đồng thời thông báo cho cá nhân cán bộ biết.

Căn cứ quy hoạch cán bộ, cấp ủy, tập thể lãnh đạo đơn vị xây dựng và đề nghị Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Trường và Hiệu trưởng Nhà trường phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ.

– Việc cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử các chức vụ lãnh đạo, quản lý nói chung phải căn cứ vào quy hoạch cán bộ.

– Khi đề nghị bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử chức danh nào thì ưu tiên chọn cán bộ theo thứ tự có trong quy hoạch của chức danh đó; rồi đến các đồng chí trong quy hoạch các chức danh tương đương.

2.8.1. Đối tượng nhóm 1

– Tiêu chuẩn chung: Theo các quy định của Đảng, Nhà nước, Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tỉnh ủy Nghệ An.

– Tiêu chuẩn riêng: có học vị tiến sĩ; có kinh nghiệm giảng dạy đại học ít nhất 05 năm; sử dụng thành thạo ngoại ngữ phục vụ công tác chuyên môn; giao tiếp được bằng tiếng Anh.

– Các chức danh áp dụng: Viện trưởng; Trưởng khoa; Trưởng các đơn vị: Phòng Đào tạo, Phòng Đào tạo Sau đại học, Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế, Phòng Tổ chức Cán bộ, Trung tâm Đảm bảo chất lượng, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Trung tâm Bồi dưỡng Nghiệp vụ Sư phạm, Trung tâm Thực hành – Thí nghiệm.

– Trường hợp đặc biệt do Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy và Hiệu trưởng Nhà trường xem xét, quyết định.

2.8.2. Đối tượng nhóm 2

– Tiêu chuẩn chung: Theo các quy định của Đảng, Nhà nước, Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tỉnh ủy Nghệ An.

– Các chức danh áp dụng: Phó Viện trưởng; Phó Trưởng khoa; Phó Trưởng các đơn vị: Phòng Đào tạo, Phòng Đào tạo Sau đại học, Phòng Khoa học và Hợp tác quốc tế, Phòng Tổ chức Cán bộ, Trung tâm Đảm bảo chất lượng, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Trung tâm Bồi dưỡng Nghiệp vụ Sư phạm, Trung tâm Thực hành – Thí nghiệm.

– Trường hợp đặc biệt do Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy và Hiệu trưởng Nhà trường xem xét, quyết định.

2.8.3. Đối tượng nhóm 3

– Tiêu chuẩn: Theo các quy định của Đảng, Nhà nước, Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tỉnh ủy Nghệ An.

– Các chức danh áp dụng: Trưởng, Phó Trưởng các đơn vị: Phòng Hành chính Tổng hợp; Phòng Công tác chính trị – Học sinh, sinh viên; Văn phòng Đảng – Đoàn thể; Phòng Quản trị và Đầu tư; Phòng Kế hoạch – Tài chính; Phòng Thanh tra – Pháp chế; Ban Quản lý Cơ sở II; Trung tâm Giáo dục thường xuyên; Trung tâm Công nghệ thông tin; Trung tâm Nghiên cứu – Đổi mới sáng tạo; Trung tâm Thông tin – Thư viện Nguyễn Thúc Hào; Trung tâm Dịch vụ, Hỗ trợ sinh viên và Quan hệ doanh nghiệp; Trung tâm Nội trú.

2.8.4. Đối tượng nhóm 4

– Tiêu chuẩn: Theo các quy định của Đảng, Nhà nước, Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tỉnh ủy Nghệ An.

– Các chức danh áp dụng: Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Chuyên và Trường Thực hành Sư phạm.

2.8.5. Đối tượng nhóm 5

– Tiêu chuẩn: Theo các quy định của Đảng, Nhà nước, Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tỉnh ủy Nghệ An và cơ quan chủ quản.

– Các chức danh áp dụng: Giám đốc, Tổng Biên tập Nhà xuất bản; Tổng Biên tập, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học; Kế toán trưởng; Trưởng Phòng khám đa khoa.

Cán bộ trong quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý là những đồng chí có triển vọng đảm nhận chức danh quy hoạch, do vậy, ở thời điểm giới thiệu, phê duyệt quy hoạch không nhất thiết phải đáp ứng đầy đủ điều kiện và tiêu chuẩn của chức danh quy hoạch, mà cần được rèn luyện, thử thách, đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh quy hoạch.

3. Tổ chức thực hiện

– Chịu trách nhiệm trước tập thể lãnh đạo Nhà trường về việc: nhận xét, đánh giá, thẩm định về tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống; năng lực công tác và ưu, khuyết điểm của cán bộ được giới thiệu vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý.

– Khi triển khai thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, cần mời các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Trường, thành viên Ban Giám hiệu được phân công phụ trách đơn vị tham dự hội nghị; trước khi tổ chức hội nghị cần báo cáo về dự kiến nhân sự và thời gian tổ chức thực hiện hội nghị triển khai công tác quy hoạch; nhằm thực hiện đúng quy trình, đảm bảo số lượng, chất lượng và thời gian thực hiện.

– Báo cáo tập thể lãnh đạo Nhà trường (qua Ban Tổ chức Đảng ủy Trường) phê duyệt kết quả quy hoạch cán bộ. Hồ sơ gồm có: Tờ trình của cấp ủy, tập thể lãnh đạo đơn vị. Danh sách nhân sự đề nghị phê duyệt quy hoạch cán bộ. Hồ sơ nhân sự quy hoạch: Sơ yếu lý lịch (theo mẫu 2C/TCTW); Bản sao các văn bằng, chứng chỉ về trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ; Bản kê khai tài sản, thu nhập cá nhân; Bản tự nhận xét, đánh giá về kết quả công tác của cá nhân trong 5 năm gần nhất; Nhận xét, đánh giá của chi ủy chi bộ nơi sinh hoạt và công tác về cán bộ được quy hoạch; Nhận xét của cấp ủy nơi cán bộ cư trú thường xuyên về trách nhiệm công dân của cán bộ và gia đình cán bộ được quy hoạch. Giấy chứng nhận sức khỏe do bệnh viện đa khoa huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên cấp (còn trong thời hạn 6 tháng).

– Đối chiếu với tiêu chuẩn chức danh quy hoạch cán bộ cán bộ lãnh đạo, quản lý để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, viên chức theo quy định; định kỳ hàng năm rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý báo cáo tập thể lãnh đạo Nhà trường.

– Hướng dẫn các tổ chức đảng, đơn vị, đoàn thể thuộc và trực thuộc Trường thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý.

– Tổng hợp kết quả đề nghị phê duyệt quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý của các tổ chức đảng, đơn vị, đoàn thể thuộc và trực thuộc Trường, tham mưu để tập thể lãnh đạo Nhà trường xem xét, phê duyệt theo quy định.

3.3. C ác đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Trường

Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các tổ chức đảng, đơn vị, đoàn thể được phân công phụ trách để thực hiện đúng quy trình, đảm bảo số lượng, chất lượng và thời gian thực hiện.

Diễn đạt được những điều muốn trình bày cho người khác hiểu và hiểu được người khác nói bằng tiếng Anh những thông tin chung về chuyên môn và giao tiếp thông thường (Đạt trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên (đang trong thời hạn hiệu lực) theo quy định Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Diễn đạt được những điều muốn trình bày cho người khác hiểu và hiểu được người khác nói bằng ngoại ngữ những thông tin chung về chuyên môn và giao tiếp thông thường (Đạt trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên (đang trong thời hạn hiệu lực) theo quy định Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Tập Trung Triển Khai Nghị Quyết Của Đảng Về Công Tác Cán Bộ

Chiều 2-7, Ban Tổ chức Trung ương tổ chức hội nghị giao ban trực tuyến 6 tháng đầu năm 2023 của ngành Tổ chức xây dựng Đảng. Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính chủ trì và chỉ đạo hội nghị. Trưởng ban Tổ chức Thành ủy Trần Đình Hồng chủ trì tại điểm cầu Đà Nẵng.

Phát biểu kết luận hội nghị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính khẳng định, 6 tháng đầu năm 2023 công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực, tương đối toàn diện; đồng thời, đề nghị toàn ngành Tổ chức xây dựng Đảng nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ trong 6 tháng cuối năm 2023.

Trong đó, quyết tâm tạo chuyển biến tích cực trong tinh giản biên chế; đẩy mạnh xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh ở cấp phường, xã; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân; tinh gọn bộ máy nhưng phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp hợp lý; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát về công tác tổ chức xây dựng Đảng và tự kiểm tra về công tác cán bộ…

Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính đề nghị các cấp ủy Đảng tích cực thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương 4, 5, 6, 7 (khóa XII), nhất là tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Cùng với đó, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng ở các cấp nhằm tạo sức lan tỏa, nhanh chóng đi vào thực tiễn cuộc sống.

Trong 6 tháng cuối năm 2023, ngành Tổ chức xây dựng Đảng tập trung triển khai các đề án về lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng theo chương trình toàn khóa của cấp ủy các cấp; kiên trì thực hiện mục tiêu phấn đấu toàn ngành mỗi năm thực hiện tinh giản 4% đến 5% biên chế để đến năm 2023 giảm 15% đến 20% biên chế; đổi mới công tác tuyên truyền, vận động về tổ chức xây dựng Đảng…

NAM BÌNH

Một Số Nội Dung Cơ Bản Về Cán Bộ Và Công Tác Cán Bộ Theo Nghị Quyết Đại Hội Xii Của Đảng

“Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ hơn. Thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, được dư luận đồng tình, có tác dụng, hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ về cơ bản đã thực hiện theo quy hoạch. Tiến hành xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định và thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt. Việc thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được quan tâm” (1).

Bên cạnh những ưu điểm, Đại hội XII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, coi đây là nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội: “Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo đảm sự liên thông, gắn kết. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu” (2).

Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội XII của Đảng xác định các chủ trương, phương hướng đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, trong đó xác định rõ:

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, có đầy đủ phẩm chất, năng lực và coi đó là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng và sự nghiệp cách mạng. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Cấp ủy Đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt, thực hiện quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ theo các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới. Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đổi mới cơ chế, chính sách. Thông qua hoạt động thực tiễn để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.

Quán triệt và nghiêm túc thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.

Xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng, khâu trọng yếu trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Đảng phải xây dựng đội ngũ cho các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ”(3). Vì thế, Đảng phải trực tiếp nắm vấn đề cán bộ, từ việc định ra đường lối, chính sách cán bộ đến việc quyết định bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể nhân dân, chuẩn bị cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; thông qua các tổ chức đảng để thực hiện đường lối, chính sách cán bộ. Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi đây là một việc quan trọng bậc nhất của lãnh đạo.

Ban hành và thực hiện nghiêm các quy định, quy chế, cơ chế về cán bộ và công tác cán bộ.

Chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ phải được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đại hội XII chỉ rõ: “Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp…”(4).

Phải xây dựng cho được tiêu chí để đánh giá cán bộ. Hằng năm, trước khi kết thúc nhiệm kỳ hoặc chuyển công tác, căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả công việc thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân mà có đánh giá khách quan trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình của cán bộ; chống địa phương, cục bộ mà đánh giá công chức thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học.

Việc tuyển chọn cán bộ phải thực hiện dân chủ, công khai, bảo đảm tuyển chọn đúng những người có đủ tiêu chuẩn theo từng chức danh. Những năm qua, một số bộ, ngành, cơ quan, đơn vị đã tổ chức thi tuyển chức danh lãnh đạo. Việc thi tuyển này đã đem lại hiệu quả tích cực. Đây là vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu để tổ chức thực hiện.

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ.

Đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ chiến lược nói riêng là lực lượng nòng cốt trong xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách; đồng thời là lực lượng chỉ đạo, hướng dẫn và trực tiếp tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; sau khi có đường lối, chủ trương đúng thì công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ giữ vai trò quyết định. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược có số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng là vấn đề có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đổi mới quan điểm, phương pháp, quy trình đánh giá cán bộ, bảo đảm đánh giá công khai, minh bạch, trung thực, khách quan, toàn diện, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ và uy tín trong cơ quan, đơn vị làm thước đo chủ yếu. Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ; đối với cán bộ diện quy hoạch lâu dài, cần lựa chọn nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch là những người ưu tú trong công nhân và những người lao động, công chức trẻ, sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp, trong lực lượng vũ trang. Định kỳ lựa chọn bổ sung cán bộ đủ tiêu chuẩn, có triển vọng đưa vào quy hoạch.

Xây dựng, hoàn thiện, cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược làm cơ sở cho việc phát hiện, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng. Tạo sự thống nhất cao về nhận thức, hành động của các cấp, ngành và nhân dân về luân chuyển cán bộ; thực hiện luân chuyển trên cơ sở quy hoạch cán bộ. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa luân chuyển, điều động và tăng cường cán bộ. Kết hợp hài hòa giữa luân chuyển với ổn định đội ngũ cán bộ. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với cán bộ luân chuyển, tạo điều kiện để cán bộ luân chuyển hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Phát hiện kịp thời các nhân tố mới, có triển vọng, bồi dưỡng và đào tạo hợp lý, không để lãng phí cán bộ, không để chảy máu chất xám, sao cho ngày càng có nhiều cán bộ chiến lược tốt, cán bộ chiến lược giỏi, trung thực, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có bản lĩnh sáng tạo, đổi mới, bứt phá để phát triển. Cải cách căn bản chính sách tiền lương, bảo đảm đãi ngộ xứng đáng với cống hiến của mỗi người, tạo cơ hội, môi trường, điều kiện cho cán bộ phát triển.

Sớm xây dựng chiến lược tiến cử, trọng dụng nhân tài. Cần quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc tiến cử, trọng dụng nhân tài; có cơ chế để nhân dân tiến cử hiền tài. Có chế độ thi tuyển khách quan, bình đẳng để lựa chọn được những người thật sự có đức, có tài phục vụ Tổ quốc và nhân dân.

Thượng tá, TSVŨ PHÚ DŨNG – Cục Cán bộ, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, H.2023, tr.188-18

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, H.2023, tr.194-195.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, H.2023, tr.206.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, H.2023, tr.206.

Công Tác Cán Bộ Là “Công Việc Gốc” Của Đảng

1. CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ VỪA HỒNG VỪA CHUYÊN

Để chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong những năm 1924-1927, tại Quảng Châu, Trung Quốc Nguyến Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã mở lớp huấn luyện chính trị, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán cho phong trào cách mạng. Đối với Hồ Chí Minh, điều mà Người quan tâm trước hết ở người cán bộ cách mạng là ” Tư cách người cách mệnh “. Theo Người, “tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại. Chịu khó. Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghiã cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật…” là hệ tiêu chuẩn thuộc về tư cách đạo đức mà người cán bộ cách mạng nhất định phải có. Những phẩm chất này là những đòi hỏi nghiêm khắc đối với người cán bộ, giúp người cán bộ có sức hấp dẫn, quy tụ, lôi cuốn được quần chúng nhằm thực hiện mục tiêu của công cuộc giải phóng.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào cách mạng Việt Nam đã có người cầm lái, Người càng dành sự quan tâm hơn đến công tác bồi dưỡng, đào tạo và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ. Không phụ lòng Người, lớp cán bộ cốt cán đầu tiên đã ngày một trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh cách mạng ở thành thị và nông thôn, ở vùng đồng bằng và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số,v.v.. Lăn lộn trong phong trào quần chúng, được bồi dưỡng nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, rèn luyện đạo đức cách mạng theo chuẩn mực “Tư cách người cách mệnh”, tích lũy kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, trong phương pháp vận động và tổ chức quần chúng, đội ngũ cán bộ do Hồ Chí Minh xây dựng và rèn luyện thực sự trở thành những người tiên phong trong phong trào vận động quần chúng, đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành chính quyền, góp phần làm nên thành công của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa thu năm 1945.

Bác Hồ nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo xã và Ban chủ nhiệm HTX nông nghiệp thôn Lạc Trung, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc về công tác quy hoạch ruộng đất (25/1/1961)

Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Quán triệt nguyên tắc huấn luyện cán bộ phải coi trọng cả lý luận, chính trị, văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện đạo đức, v.v.. trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta đã: 1) Xây dựng, bồi bưỡng đội ngũ cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, khoa học, giáo dục, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; đã thu hút nhân tài, kêu gọi hiền tài tham gia sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đào tạo đội ngũ cán bộ bám dân, bám địch, tổ chức chiến đấu chống địch tại chỗ; gửi con em của miền Nam ruột thịt ra “vun trồng trên đất Bắc”, gửi những hạt giống đỏ đi đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa anh em, chuẩn bị lực lượng kế cận. 2) Mở các trường đào tạo lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, quân sự, văn hóa… để đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ.

Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, vì “cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức, thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, phải gắn bó mật thiết với nhân dân, v.v..để được dân tin, dân phục, dân yêu; đồng thời chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân với những căn bệnh thường mắc như: cậy quyền và cậy thế, kiêu ngạo và xa hoa, quan liêu và coi thường quần chúng, tự kiêu và không muốn học tập, không thực hiện tốt tự phê bình và phê bình… luôn là nguy cơ hiện hữu, dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của những cán bộ, đảng viên “thoái bộ”.

Con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế đang rất cần một đội ngũ cán bộ không chỉ nhiều về số lượng mà còn phải mạnh về chất lượng. Hơn lúc nào hết, năng lực lãnh đạo (chỉ đạo; tổ chức thực hiện); nhân cách (phẩm chất đạo đức; năng lực, trí tuệ; phong cách; bản lĩnh chính trị) đã trở thành thước đo đánh giá hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng. Do đó, muốn đủ đức và tài, vừa hồng vừa chuyên, làm mực thước cho dân, gương mẫu đi đầu, hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao phó, mỗi cán bộ phải thường xuyên nỗ lực học tập và rèn luyện về mọi mặt, vì “cách mạng là một nghề, làm nghề gì cũng phải học”. Song, với mỗi cán bộ, học lý luận và học trong sách vở thì chưa đủ mà cần phải học kinh nghiệm của nhân dân, phải học những bài học kinh nghiệm của Đảng được tổng kết qua mỗi kỳ Đại hội để vừa học vừa hành, đem lý luận áp dụng vào thực tiễn, bổ sung những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động của cách mạng để luôn xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

2. ĐỂ CÓ CÁN BỘ TỐT VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TỐT ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC TIỄN

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, trong bất cứ thời kỳ nào của cách mạng, cán bộ và công tác cán bộ cũng là vấn đề trọng yếu, chẳng những có ý nghĩa to lớn đối với công tác xây dựng Đảng mà còn góp phần quyết định sự thành bại trong tổ chức và lãnh đạo cách mạng của Đảng. Với vị trí là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, theo Hồ Chí Minh cán bộ là những người đem đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ đến với nhân dân; đồng thời cũng là người chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người nói, “khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. Do đó, muốn đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống và tổ chức công việc đạt hiệu quả, cần phải có đội ngũ cán bộ tài đức, tuyệt đối trung thành với Đảng, có năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện, liên hệ mật thiết với nhân dân, luôn gần dân, hiểu tâm tư nguyện vọng của dân để thuyết phục nhân dân một cách có lý, có tình…

Đối với Hồ Chí Minh, huấn luyện đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên, bồi dưỡng phong cách làm việc khoa học, quần chúng, tránh quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, bè phái, địa phương chủ nghĩa, tránh tư túng, tham lam, luôn nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, vì Đảng vì nhân dân mà gương mẫu đi đầu trong mọi công việc, v.v.. là sự quan tâm chu đáo, nhất quán trong tư tưởng và hành động của Người ở mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử. Thời chiến cũng như thời bình, nơi chiến trường hay tại hậu phương, trong học tập, lao động sản xuất hay khi chiến đấu, Hồ Chí Minh cũng luôn quan tâm công tác cán bộ, dìu dắt đội ngũ cán bộ về mọi mặt, nhất là gương mẫu trong rèn luyện đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,v.v.. trở thành những người công bộc tận tụy; và chính Người cũng là một mẫu mực của tấm gương đạo đức cách mạng.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng gần 90 năm qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác cán bộ được Đảng luôn chú trọng triển khai trong thực tế. Thực hiện công tác cán bộ, triển khai các Nghị quyết Đại hội Đảng, Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII (6/1997), Nghị quyết Trung ương 4 khóa X (1/2007) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội và xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI (5/2013), v.v.. đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa phương đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới và hội nhập sâu rộng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ các cấp nói riêng vẫn còn một số hạn chế như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI ” Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về ” Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ” đã chỉ ra. Đó là, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được xây dựng một cách cơ bản; một bộ phận cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh chính trị, ngại rèn luyện. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc… Quy hoạch cán bộ vẫn còn thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp,các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn quy hoạch theo chức danh…Trong khi đó, việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội, gây mất niềm tin của nhân dân. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm, “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa”…

Việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về ” Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về ” Những điều đảng viên không được làm“, Quy định 101-QÐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về ” Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp“, Quy định 55-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về ” Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên“… cũng đã tạo được bước chuyển quan trọng trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, công tác cán bộ nói riêng. Song trên thực tế, vẫn còn nhiều cán bộ, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao… Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ” gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các Quy định Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước,v.v..

Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải chủ trì hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TƯ của Bộ Chính trị và các nghị quyết Trung ương 6, 7 khóa XII

Bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa những thời cơ, thuận lợi lớn đi đôi cùng những bất trắc khó lường. Trong đó, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược vừa hồng vừa chuyên nói riêng ngang tầm nhiệm vụ, lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa lịch sử, lâu dài và sâu sắc. Coi cán bộ là “tiền vốn của Đoàn thể” và công tác cán bộ “là công việc gốc của Đảng”, trên cơ sở thấm nhuần những yêu cầu, chỉ dẫn của Hồ Chí Minh và thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về ” Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về ” Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ “, cán bộ và công tác cán bộ phải được đặc biệt chú trọng theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.

Để có đội ngũ cán bộ tốt và công tác cán bộ tốt, các cấp ủy Đảng, ban, ngành chức năng từ Trung ương đến địa phương phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, trước hết là nhận thức của cấp ủy về công tác cán bộ và “vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp” của Đảng. Việc tuyên truyền, giáo dục phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác cán bộ gắn với các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, với xây dựng và chỉnh đốn Đảng, với đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ để nâng cao nhận thức, trách nhiệm về công tác cán bộ. Phải đặt cán bộ, công tác cán bộ trong mối quan hệ toàn diện, phát triển và không định kiến nhằm: 1) Hiểu biết, đánh giá đúng cán bộ, lựa chọn cán bộ, huấn luyện cán bộ, dùng cán bộ, phân phối cán bộ sát thực tiễn, giữ gìn cán bộ, kết hợp các loại cán bộ đúng, phù hợp yêu cầu. 2) Xây dựng và thực hiện tốt chính sách cán bộ theo tinh thần: “Hiểu biết cán bộ, Khéo dùng cán bộ, Cất nhắc cán bộ, Thương yêu cán bộ, Phê bình cán bộ”.

Trong đào tạo cán bộ, chú trọng đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng. P hải tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại các trường, lớp theo các hình thức phù hợp; theo kế hoạch, theo định kỳ, theo lộ trình, sát với yêu cầu và điều kiện của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc quy hoạch, đề bạt, luân chuyển cán bộ phải xem xét toàn diện cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản trị, trong công tác và cách sinh hoạt, trong rèn luyện nhân cách người cán bộ cách mạng, v.v.. để phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm của cán bộ. Cùng với đó, để cán bộ phát huy được năng lực, sở trường của mình, mỗi người phải được đặt vào đúng công việc cách mạng đang cần; vì công việc mà đặt người, chứ không phải vì người mà định việc, để tránh những sai phạm: “1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực. 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình”. Đồng thời, phải sử dụng đan xen cán bộ trẻ và cán bộ già, cán bộ cũ và cán bộ mới trên tinh thần tôn trọng nhau, giúp nhau hạn chế khuyết điểm, phát huy ưu điểm để cùng tiến bộ. Sau khi đề bạt cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, vẫn cần theo dõi, bồi dưỡng, giúp đỡ để họ hoàn thành nhiệm vụ, thiết thực tạo nguồn cán bộ kế cận.

Để có đội ngũ cán bộ tốt, công tác cán bộ phải được triển khai bài bản, có kế hoạch, có lộ trình nhằm đào tạo được một đội ngũ cán bộ các cấp toàn diện về chính trị, tư tưởng, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cách mạng, phong cách công tác,v.v.. theo đúng tiêu chí, tiêu chuẩn, chức danh quy định. Đó là những cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có trí tuệ và năng lực tư duy khoa học, độc lập, sáng tạo trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quần chúng; có phong cách quần chúng, gần dân, gắn bó mật thiệt với nhân dân; có tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,v.v.. để quy tụ, lãnh đạo nhân dân đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Đặc biệt, tập trung “xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.

Bên cạnh đó, để công tác cán bộ đạt hiệu quả, người làm công tác cán bộ phải nhiệt huyết, chính trực và liêm khiết, công tâm và khách quan trên tinh thần: Muốn đánh giá đúng về một con người, thì người đánh giá phải đủ tư cách. Bởi, người làm công tác cán bộ nếu “đã không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu” và “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng” [11]./.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.5, tr. 309

Tổng Hợp Điểm Mới Của Nghị Quyết 26 Về Công Tác Cán Bộ

Trước khi có Nghị quyết 27 về cải cách tiền lương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Nghị quyết 26 về công tác cán bộ, thể hiện nhiều đổi mới trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp. Bố trí cấp ủy cấp tỉnh, huyện không phải người địa phương

Nghị quyết đề ra mục tiêu đến năm 2023, đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Đến năm 2025, cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, nhất là chức danh chủ tịch Ủy ban nhân dân, nếu có điều kiện.

Đây được coi như một bước đột phá trong công tác cán bộ nhằm giảm thiểu tình trạng thiên vị, cục bộ, chạy chức, chạy quyền.

Đánh giá cán bộ thông qua khảo sát, so sánh

Một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ là đổi mới công tác đánh giá cán bộ.

Cụ thể, sẽ đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Lãnh đạo cấp trên phải từng trải qua vị trí chủ chốt cấp dưới

Trong công tác ứng cử, bổ nhiệm, bố trí cán bộ, tiếp tục thực hiện chủ trương bầu trực tiếp bí thư tại đại hội đảng bộ các cấp ở những nơi có điều kiện; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động và cam kết thực hiện.

Đặc biệt, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới; trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nhân sự không trúng cử cấp ủy cấp dưới thì không giới thiệu để bầu cấp ủy cấp trên.

Xây dựng từ chức, từ nhiệm phải trở thành nếp văn hóa

Nghị quyết 26 về công tác cán bộ chỉ rõ, phải xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hóa ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc “có lên, có xuống”, “có vào, có ra” trở thành bình thường trong công tác cán bộ.

Mở rộng thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo

Cũng theo Nghị quyết này, sẽ tiếp tục thực hiện thí điểm một số chủ trương như: Mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng; Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình…

Tiến tới xóa bỏ biên chế suốt đời

Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Nghị quyết yêu cầu nghiên cứu thực hiện cơ chế liên thông giữa cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công chức nói chung, giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư; có cơ chế cạnh tranh vị trí việc làm và tiến tới bỏ chế độ “biên chế suốt đời”.

Kiên quyết không để lọt người chạy chức, chạy quyền

Nghị quyết nhấn mạnh: Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược; đồng thời, không có “vùng cấm” trong việc xử lý những sai phạm về công tác cán bộ.

Tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự sẽ được công khai và minh bạch; các thông tin phản ánh của tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng về công tác cán bộ sẽ được xác minh và xử lý kịp thời.

Cải cách tiền lương, nhà ở để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc

Một trong những nhiệm vụ quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực là cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc.

Chính sách tiền lương sẽ được cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối tượng theo vị trí việc làm, chức danh, chức vụ, năng suất lao động, hiệu quả công tác…

Chính sách nhà ở sẽ được xây dựng theo hướng: Nhà nước thống nhất ban hành cơ chế, chính sách; địa phương quy hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua.