Cách Soạn Văn Bản Bài Bánh Chưng Bánh Giầy / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Soạn Bài : Bánh Chưng, Bánh Giầy

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài BÁNH CHƯNG, BÁNH GIẦY

1. “Tổ tiên ta từ khi dựng nước, đã truyền được sáu đời” – lời nói của Vua Hùng xác định thời gian xảy ra câu chuyện. Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh đất nước thanh bình và nhà vua đã già. Ý định của vua trong việc chọn người nối ngôi tức phải nối được chí của vua, không nhất thiết là con trưởng. Chính vì thế, nhà vua dùng hình thức thử tài để chọn (nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi).

2. Trong số các người con của vua, chỉ có Lang Liêu được thần giúp đỡ, vì: Mẹ chàng trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi chết. So với anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Mặt khác, tuy là con vua, nhưng “từ khi lớn lên, ra ở riêng” chàng “chỉ chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai” – sống cuộc sống như dân thường. Đồng thời, chàng là người hiểu được ý thần: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo”; đồng thời chàng có trí sáng tạo để thực hiện được ý đó: lấy gạo làm bánh để lễ Tiên vương.

3. Hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn để tế Trời, Đất, Tiên vương và Lang Liêu được chọn nối ngôi vua vì: hai thứ bánh đó thể hiện công sức lao động chăm chỉ, cần cù và thể hiện sự quý trọng nghề nông, quý trọng sản phẩm do con người làm ra; hai thứ bánh đó thể hiện ý tưởng sáng tạo sâu xa: bánh tròn tượng hình Trời, bánh vuông tượng hình Đất, với cách thức gói “các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài” và “lá bọc ngoài, mĩ vị để trong” thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa con người với thiên nhiên trong lối sống và trong nhận thức truyền thống của người Việt Nam; đồng thời thể hiện truyền thống đoàn kết, gắn bó và tinh thần đùm bọc nhau giữa những người dân đất Việt vốn là anh em sinh từ một bọc trứng Lạc Long – Âu Cơ.

Việc vua Hùng chọn Lang Liêu nối ngôi chứng tỏ vua trọng người vừa có tài có đức vừa có lòng hiếu thảo; đồng thời qua đó cũng đề cao lao động và phẩm chất sáng tạo trong lao động của nhân dân.

4. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy có nhiều ý nghĩa, trong đó nổi bật nhất là: thông qua việc giải thích nguồn gốc sự vật (bánh chưng, bánh giầy – hai thứ bánh tiêu biểu cho truyền thống văn hoá ẩm thực của người Việt Nam trong dịp tết cổ truyền Việt Nam), truyện đề cao trí thông minh và lòng hiếu thảo của người lao động, đề cao nghề nông. Qua cách vua Hùng lựa chọn người nối ngôi là Lang Liêu, truyện còn đề cao ý thức tôn kính tổ tiên, xây dựng phong tục tập quán trên cơ sở coi trọng những giá trị sáng tạo thiêng liêng của nhân dân, ca ngợi truyền thống đạo lí cao đẹp của dân tộc Việt Nam.

Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.

Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy tế Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.

Từ đó, việc gói bánh chưng và bánh giầy cúng lễ tổ tiên trở thành phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt Nam.

Khi kể cần chú ý thể hiện bằng nhiều giọng điệu khác nhau cho phù hợp với các nhân vật trong truyện. Cụ thể:

– Đoạn từ đầu đến “và nói” thể hiện lời người dẫn chuyện chậm rãi.

– Câu nói “Tổ tiên ta (…) có Tiên vương chứng giám” thể hiện lời của nhà vua tuyên bố ý định truyền ngôi và cách thử tài, cần trình bày bằng giọng trầm tĩnh, uy nghiêm.

– Đoạn tiếp theo “Người buồn nhất (…) khoai lúa tầm thường quá!” thể hiện sự băn khoăn, trăn trở của Lang Liêu khi nghe lời tuyên bố của vua cha và nghĩ đến cảnh ngộ của mình.

– Lời của vị thần linh “Trong trời đất (…) mà lễ Tiên vương” trình bày bằng giọng trầm lắng, thiêng liêng.

– Tiếp theo, “Tỉnh dậy (…) khen ngon” vẫn là lời người dẫn chuyện nhưng điểm nút của câu chuyện đã được mở ra, cần trình bày bằng giọng vui vẻ, trong sáng.

– Đoạn cuối (“Từ đấy (…) hương vị ngày Tết”) cũng là lời dẫn chuyện nhưng là sau khi câu chuyện thử tài đã kết thúc, Lang Liêu lên làm vua nên thể hiện bằng giọng trong sáng, tự hào.

3. Ngày nay, vào dịp Tết, nhân dân ta vẫn còn lưu giữ thói quen làm bánh chưng, bánh giầy (như là một món ăn không thể thiếu trong ngày Tết, cũng như là một phẩm vật không thể thiếu để cúng lễ tổ tiên). Phong tục ấy vừa thể hiện nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá ẩm thực của người Việt ta, vừa thể hiện ý thức tôn kính tổ tiên, tôn kính những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc. Phong tục ấy cũng đồng thời là lời nhắn nhủ với con cháu đời nay về việc gìn giữ và phát huy những truyền thống đạo lí tốt đẹp của ông cha ta ngày trước.

4*. Truyện có nhiều chi tiết hay và hấp dẫn. Một trong những chi tiết ấy là chuyện Lang Liêu làm bánh. Chi tiết này hấp dẫn người đọc bởi cùng với sự cần cù hiếu thảo, Lang Liêu đã chứng tỏ mình là người xứng đáng được truyền ngôi. Chàng hoàng tử thứ mười tám của vua Hùng đã làm ra một thứ bánh vừa ngon lại vừa sáng tạo bằng sự thông minh và tài trí của mình. Và vì thế, chàng không những làm cho vua cha cảm thấy hài lòng mà các lang khác cũng tỏ ra mến phục.

Soạn Bài Bánh Chưng Bánh Giầy Ngắn Gọn

Soạn bài Bánh chưng bánh giầy ngắn gọn được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn học sinh tham khảo hiểu rõ về sự tích bánh chưng, bánh giày của dân tộc ta giúp học tốt môn Ngữ văn lớp 6 và chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

Bố cục bài Bánh chưng bánh giầy

– Phần 1 (Từ đầu … chứng giám): Nhà vua ra quyết định truyền ngôi.

– Phần 2 (tiếp … hình tròn): Lang Liêu và các hoàng tử tìm kiếm và làm lễ vật.

– Phần 3 (còn lại): Ý nghĩa và tục lệ làm bánh chưng bánh giầy.

Tóm tắt bài Bánh chưng bánh giầy

Đọc hiểu văn bản Bánh chưng bánh giầy

Câu 1 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Vua Hùng chọn người nối ngôi khi tuổi đã già, đất nước thanh bình. Với ý định chọn người nối chí, không nhất thiết là con trưởng thông qua cuộc thi tài, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi.

Câu 2 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Trong các con vua, chỉ có Lang Liêu được thần giúp đỡ vì chàng có hoàn cảnh không thuận lợi như các anh em. Chàng gần gũi với đời sống nhân dân, làm đồng áng, trồng lúa, khoai; cũng chỉ có chàng là hiểu được gợi ý của thần – lấy gạo làm bánh lễ Tiên vương.

Câu 3 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn tế lễ bởi hai thứ bánh đó thể hiện sự quý trọng nghề nông (thời bấy giờ là nước nông nghiệp); còn thể hiện ý tưởng sáng tạo sâu xa (tượng Trời, tượng Đất, thể hiện sự đùm bọc). Lang Liêu thể hiện là người có tài, có đức, có hiếu, xứng đáng trở thành minh quân trong tương lai.

Câu 4 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Ý nghĩa truyền thuyết: Giải thích nguồn gốc bánh chưng, bánh giầy, phong tục lễ tết, đó là thành tựu của văn minh nông nghiệp; đề cao lao động, đề cao nghề nông, thể hiện sự thờ kính Trời, Đất, tổ tiên của nhân dân ta.

Luyện tập Câu 1 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Ý nghĩa phong tục ngày Tết nhân dân ta làm bánh chưng, bánh giầy: Truyền thống tốt đẹp nhớ ơn tổ tiên và đề cao vai trò nghề trồng lúa nước.

Câu 2* (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Có thể chọn chi tiết thần báo mộng cho Lang Liêu. Chi tiết này tạo nên tính thần kì, hấp dẫn cho truyện, thể hiện rằng Lang Liêu xứng đáng là người kế vị tốt nhất vì được thần phù trợ, hiểu được ý thần, biết quý trọng nghề nông, có tính sáng tạo.

Soạn Bài Bánh Chưng, Bánh Giầy (Chi Tiết)

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Tóm tắt

Vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm trong số hai mươi người con trai một người thật tài đức để nối ngôi nên đã ra điều kiện: không nhất thiết là con trưởng, ai làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi.

Các lang đua nhau sắm lễ thật hậu, thật ngon. Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, rất buồn vì nhà nghèo, chỉ quen với việc trồng khoai trồng lúa, không biết lấy đâu ra của ngon vật lạ làm lễ như những lang khác. Sau một đêm nằm mộng, được một vị thần mách nước, chàng bèn lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh loại hình tròn, loại hình vuông dâng lên vua. Vua thấy bánh ngon, lại thể hiện được ý nghĩa sâu sắc nên lấy hai thứ bánh ấy tế Trời, Đất và lễ Tiên vương, đặt tên bánh hình tròn là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng và truyền ngôi cho Lang Liêu.

Câu 1 Trả lời câu 1 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1): Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh nào, với ý định ra sao và bằng hình thức gì? Lời giải chi tiết:

– Hoàn cảnh vua Hùng chọn ngôi: Giặc ngoài đã yên, vua có thể tập trung chăm lo cho dân được no ấm; vua về già, muốn truyền ngôi.

– Ý định của vua: Người nối ngôi vua phải nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng.

– Hình thức: Điều vua đòi hỏi mang tính chất là một câu đố đặc biệt để thử tài: Nhân ngày lễ Tiên vương, các lang dâng lễ vật sao cho vừa ý vua cha.

Câu 2 Trả lời câu 2 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1): Vì sao trong các con vua, chỉ có Lang Liêu được thần giúp đỡ? Lời giải chi tiết:

Trong các con vua, chỉ có Lang Liêu được thần giúp đỡ vì:

– Lang Liêu là người thiệt thòi nhất: nghèo, chỉ làm việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Lang Liêu là con vua nhưng rất gần gũi với dân thường.

– Quan trọng hơn, chàng là người duy nhất hiểu được ý thần (“Trong trời đất không gì có quý bằng hạt gạo […] Các thứ khác đều ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được”) và thực hiện được ý thần: “Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương”. Còn các lang khác chỉ biết mang cúng Tiên vương sơn hào hải vị – những món ăn ngon nhưng vật liệu để chế biến thành các món ăn ấy thì con người không làm ra được.

Câu 3 Trả lời câu 3 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1): Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn để tế Trời, Đất, Tiên vương và Lang Liêu được chọn nối ngôi vua? Lời giải chi tiết:

– Hai thứ bánh có ý nghĩa thực tế: quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo nuôi sống con người và là sản phẩm do chính con người làm ra.

– Hai thứ bánh có ý tưởng sâu xa: tượng trưng cho trời, đất và muôn loài.

– Hai thứ bánh, do vậy hợp với ý vua, chứng tỏ dược tài đức của người con có thể nối chí vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, của đồng ruộng, do chính tay mình làm ra mà tiến cúng Tiên vương, dâng lên cha thì đúng là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo, trân trọng những người sinh thành ra mình.

Câu 4 Trả lời câu 4 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1): Hãy nêu ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy? Lời giải chi tiết:

– Truyện giải thích nguồn gốc hai loại bánh cổ truyền của dân tộc: Bánh chưng bánh giầy.

– Truyện đề cao lao động, đề cao nghề nông.

– Giải thích phong tục làm bánh, chưng bánh giầy thờ cúng tổ tiên ngày Tết.

⟹ Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy có nhiều ý nghĩa, trong đó nổi bật nhất là: thông qua việc giải thích nguồn gốc sự vật (bánh chưng, bánh giầy – hai thứ bánh tiêu biểu cho truyền thống văn hoá ẩm thực của người Việt Nam trong dịp tết cổ truyền Việt Nam), truyện đề cao trí thông minh và lòng hiếu thảo của người lao động, đề cao nghề nông. Qua cách vua Hùng lựa chọn người nối ngôi là Lang Liêu, truyện còn đề cao ý thức tôn kính tổ tiên, xây dựng phong tục tập quán trên cơ sở coi trọng những giá trị sáng tạo thiêng liêng của nhân dân, ca ngợi truyền thống đạo lí cao đẹp của dân tộc Việt Nam.

Luyện tập LUYỆN TẬP Trả lời câu 1 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1): Trao đổi ý kiến: ý nghĩa của phong tục ngày Tết nhân dân ta làm bánh chưng, bánh giầy. Trả lời:

Ý nghĩa của phong tục ngày Tết nhân dân ta làm bánh chưng, bánh giầy là đề cao nghề nông, đề cao sự thờ kính Trời, Đất và tổ tiên của nhân dân ta. Cha ông ta đã xây dựng phong tục tập quán của mình từ những điều giản dị nhưng rất thiêng liêng, giàu ý nghĩa. Quang cảnh ngày Tết nhân dân ta gói hai loại bánh này còn có ý nghĩa giữ gìn truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và làm sống lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam.

Trả lời câu 2 (trang 12 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1): Đọc truyện Bánh chưng bánh giầy, em thích nhất chi tiết nào? Vì sao? Trả lời:

Các em có thế nêu theo sự cảm nhận của mình, đây chỉ là một ví dụ:

– Chi tiết Lang Liêu nằm mộng thấy thần đến khuyên bảo: “Trong trời đất, không có gì quý bằng hạt gạo…”. Đây là chi tiết thần kì làm tăng sức hấp dẫn cho truyện. Trong các con vua, chỉ có Lang liêu mới được thần giúp đỡ. Chi tiết này còn nêu bật được giá trị của hạt gạo ở một đất nước mà cư dân sống bằng nghề nông và hạt gạo là lương thực chính; đồng thời chi tiết này thể hiện một cách sâu sắc cái đáng quý, đáng trân trọng của sản phẩm do con người làm ra.

Bố cục Bố cục:

– Đoạn 1 (Từ đầu … đến ” chứng giám “): Vua chọn người nối ngôi.

– Đoạn 2 (Tiếp theo … đến ” nặn hình tròn “): Cuộc đua tài.

– Đoạn 3 (Còn lại): Kết quả thi tài.

ND chính

Suy tôn tài năng, phẩm chất của con người trong việc dựng xây đất nước.

chúng tôi

Tóm Tắt Truyện “Bánh Chưng, Bánh Giầy”

“Bánh chưng, bánh giầy” kể về chuyện Vua Hùng thứ sáu truyền ngôi cho con trai. Nhưng ông có hai mươi người con nên không biết chọn người nào cho xứng đáng. Ông bèn gọi các con đến và bảo: sắp đến lễ Tiên vương, nếu ai làm lễ hợp ý vua thì sẽ được truyền ngôi. Các lang ai cũng muốn lên ngôi nên ra sức là cỗ lớn. Họ sai người lên rừng xuống biến tìm vật quý để dâng lên. Trong đó có Lang Liêu, chàng là con thứ 18, mẹ mất sớm. Lang Liêu hàng ngày chỉ lo việc đồng áng nên nhà không có gì dâng lên ngoài lúa, khoai. Lang Liêu rất phiền lòng.

Một đêm, chàng mơ có thần đến bảo: trên trời đất không có gì quý bằng gạo, gạo là thứ ta làm ra, ta ăn hàng ngày nên hãy dùng gạo làm bánh dâng lên vua. Làng Liêu tỉnh dậy vui mừng làm theo. Chàng chọn thứ gạo nếp thơm, trắng, hạt tròn đều, đem vo thật sạch. Chàng dùng đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong gói thành hình vuông. Nấu một ngày một đêm. Cũng thứ gạo nếp ấy chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn tròn.

Ngày lê Tiên vương, các lang mang sơn hào hải tới, nhưng vua ưng ý bánh của Lang Liêu và chọn lên tế Trời, Đất và Tiên Vương. Lễ xong mọi người đem bánh ra ăn ai cũng tấm tắc khen. Vua đặt tên cho bánh hình vuông là bánh chưng, tượng là Đất, bánh hình trời tượng là tời, đặt là bánh giầy. Lang Liêu dâng lễ vật hợp ý nên được nối ngôi vua. Từ đất, nhân dân ta có phong tục Tết làm bánh chưng, bánh giầy.

Tóm tắt truyện “Bánh chưng, bánh giầy” mẫu 2

Vua Hùng lúc về già muốn truyền ngôi nhưng chưa biết chọ ai trong hai mươi người con trai. Giặc ngoài đã được dẹp yên, nhưng ông muốn vị vua tương lai phải biết lo cho nhân dân có dời sống ấm no. Vua gọi các con đến và bảo: “Năm nay nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám”.

Các lang trở về đua nhau tìm của ngon vật lại trên rừng dưới biển để dâng lễ. Chỉ có người con thứ mười tám, Lang Liêu, thiệt thòi từ nhỏ. Chàng quan năm gắn bó với đồng áng, nhà chàng chỉ lúa, khoai là nhiều. Chàng rất buồn lòng. Một đêm, chàng mơ thấy một vị thền mách rằng hãy dùng gạo làm bánh dâng vua, không có gì quý bằng gạo, gạo nuôi sống con người. Thức dậy lang lieu vui vẻ làm theo. Chàng chọn thứ gạo nếp ngon nhất làm hai loại bánh. Loại thứ nhất, chàng để nguyên gạo, dùng đậu xanh và thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn để gói thành hình vuông. Loại bánh này phải luộc một ngày một đêm. Còn loại bánh còn lại thì chàng đem gạo đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.

Đến ngày lễ Tiên vương, trong vô số của ngon vật lạ thì vua lại chọn hai thứ bánh của Lang Liêu dâng lên tế Trời, Đất, Tiên vương. Sau khi lễ xong, vua cho đem bánh ra ăn, ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua đặt tên cho thứ bánh hình tròn, tượng là đất là bánh giầy. Thứ bánh hình vuông tượng là đất, có thịt mỡ, đậu xanh, lá dong tượng là cầm thú, cây cỏ muôn loài, vua đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, ngụ ý là đùm bọc nhau. Lang Liêu dâng lễ hợp ý, được vua truyền ngôi cho. Từ đây, cứ đến ngày Tết, nhân dân ta lại làm bánh chưng, bánh giầy.

Tóm tắt truyện “Bánh chưng, bánh giầy” mẫu 3

Hùng Vương thứ 6 lúc về già muốn truyền ngôi, nhưng ông có 20 người con không biết chọn người nào cho xứng đáng. Nhà vua gọi các con lại và bảo rằng nhân lễ Tiên vương ai làm lễ vừa ý người sẽ truyền ngôi báu cho. Các lang ai cũng muốn ngôi báu nên cố làm vừa ý vua. Nhưng không ai biết ý vua cha như thế nào. Họ đua nhau lên rừng, xuống biển tìm những của quý, làm cỗ thật hậu thật ngon đi lễ Tiên vương. Trong số các lang, có Lang Liêu là người con thứ 18. Chàng mất mẹ từ bé, sau khi ra ở riêng chàng chỉ chăm lo việc đồng áng. Vì vậy lễ Tiên vương chàng không có dâng lên ngoài gạo khoai khiến chàng rất buồn lòng.

Một đêm, chàng mơ có thần bảo chàng hãy dùng gạo làm bánh để làm lễ Tiên vương. Thức dậy, Lang Liêu vui mừng làm theo. Chàng chọn thứ gạo nếp dẻo, thơm, hạt chọ đều làm hai thứ bánh một hình vuông, một hình tròn. Bánh hình vuông chàng dùng đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong gói rồi luộc một ngày một đêm. Bánh hình tròn chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn tròn.

Đến ngày Lê tiên vương, vua Hùng đã chọn hai thứ bánh của chàng để tế Trời, Đất, Tiên Vương. Khi lễ xong, vua sai người đem bánh ra ăn cùng quần thần, ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua đặt tên cho bánh hình vuông là bánh chưng, bánh hình tròn là bánh giầy. Bánh trưng hình vuông có gạo, thịt, đậu tượng trưng cho muôn thú, cây cỏ tượng cho Đất. Đồng thời bánh được bọc ngoài bằng lá dong thể hiện sự đùm bọ lẫn nhau. Bánh giầy hình tròn tượng cho Trời. Vua cũng rất vừa ý về ý nghĩa của hai chiếc bánh và truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, nhân dân ta sẽ làm bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết để thắp hương và ăn.