Share
Facebook
Twitter
Pinterest
Từ bao đời nay, truyện Kiều đã bước ra khỏi phạm trù là một tác phẩm văn học của một thời đại mà sống dậy bước đi trong từng lời ăn tiếng nói, từng nếp nghĩ nếp sống, là mảnh tâm hồn thiêng liêng của con người Việt Nam. Mỗi buổi chiều về, trong hoàng hôn vàng như rót mật, các bà các cụ lại ngồi ngâm nga những câu Kiều “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Ngay cả những đúa trẻ chưabiết đọc chữ cũng thuộc dăm ba câu Kiều truyền miệng. Người Việt Nam mà không biết tới truyện Kiều của Nguyễn Du thì chưa phải người Việt Nam hoàn toàn. Trong tác phẩm ấy có rất nhiều đoạn thơ đặc sắc khơi gợi cảm xúc của biết bao bạn đọc. Một trong số đó la đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH LỚP 9
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên”
Hình tượng Thúy Kiều từ lâu đã bất diệt trong văn học bởi một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng số phận hẩm hiu, bất hạnh. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã khắc họa nội tâm của nàng Kiều khi bị giam lỏng nơi chốn lầu cao hoang vu.
Mở đầu đoạn trích là một khung cảnh ảo não nhuốm tâm trạng cô đơn, thê lương của con người:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”
Hai chữ “khóa xuân” chứa đầy sự chua chát xót xa. Tuổi thanh xuân, tuổi trẻ đầy những cảm xúc, với mối tình Kim Trọng trong như sớm mai giờ đây đã trôi vào dĩ vãng, đã bị dập vùi nơi đất khách quê người, nơi đầy nhiễu nhương ô nhục. Kiều ở trên lầu cao đến mức núi thì xa mà trăng thì lại rất gần. Không gian như mở ra đến vô cùng vô tận:
“Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Bên này là cồn cát vàng mênh mông hoang vắng, bên kia là những bụi hồng cuốn lên mù mịt. Bốn bề chỉ toàn cát bụi, núi trăng, cô tịch, não nùng!
Cảnh buồn vì người buồn hay cảnh buồn lại càng làm cho nàng Kiều thêm sầu? Để rỗi nàng tự thấy thân phận “bẽ bàng” đầy ê chề, đau đớn của mình khi bị lừa bán vào lầu xanh. “Mây sớm đèn khuya” gợi ra vòng thời gian tuần hoàn khép kín, gợi ra không khí tù đọng, ngột ngạt ở lầu Ngưng Bích. Câu thơ “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” khiến người đọc liên tưởng đến quy luật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Bởi vậy tả cảnh mà hiện ra cả một thế giới tâm hồn của Kiều.
Trong cảnh lẻ loi, Thúy Kiều nhớ tới mối tình với chàng Kim, hồi tưởng lại đêm hai người thề nguyền đính ước dưới trăng. Chữ “tưởng” nghe sao mà xót xa, khi trở về với hiện tại thì mọi điều tốt đẹp đã tan biến, nàng lại tự băn khoăn, tự dằn vặt mình “tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”. Nàng nhớ về gia đình về cha mẹ, tự hỏi hai em ở nhà có chăm sóc tốt cho đấng sinh thành không, liệu ai sẽ là người quạt mát cho cho cha mẹ những trưa hè oi bức, ủ ấm chăn cho cha mẹ nằm những ngày đông lạnh giá. Nguyễn Du đã để nàng Kiều nhớ về Kim Trọng, về chữ tình trước và chữ hiếu sau. Điều này ắt hẳn cũng có cái hợp tình hợp lý của đại thi hào. Với gia đình, nàng đã bán mình chuộc cha và em, coi như phần nào đền đáp công ơn dưỡng dục còn với Kim Trọng, nàng là người đã phụ tấm lòng, phản bội lại lời thề. Sự tinh tế của Nguyễn Du khiến người đọc càng thêm trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của nàng: vừa là một người tình nhất mực thủy chung, vừa là một người con hiếu thảo.
Tám câu cuối chính là những câu thơ đặc sắc nhất của đoạn trích, là khuôn vàng thước ngọc của lối thơ tả cảnh ngụ tình. Điệp từ “Buồn trông” vừa mở ra bốn bức tranh thiên nhiên khác nhau về thiên nhiên và số phận con người vừa nhấn mạnh nỗi buồn sâu đậm của người con gái kia. Nhìn cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển xa, vào lúc chiều hôm khi vạn vật tìm về bến đỗ càng tô đậm thêm nỗi nhớ nhà nhớ quê da diết. Nhìn cánh hoa mỏng manh trôi man mác giữa ngọn nước mới sa tung bọt trắng xóa, nàng lại tự xót thương phận đời chìm nổi lênh đênh, bị vùi dập không thương tiếc. Câu hỏi tu từ “Biết là về đâu” là cả sự hoang mang vô định của Kiều về tương lai mịt mờ tăm tối. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” từ chân mây đến mặt đất chỉ toàn một màu xanh xanh như gợi ra sư héo hon, tàn lụi. Bức tranh cuối đầy âm thanh và dữ dội “gió cuốn mặt duềnh”, “ầm ầm tiếng sóng” như báo trước phong ba bão táp còn đang đợi nàng ở phía trước.
Đọc đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, trái tim độc giả như cũng thổn thức theo từng nhịp tâm trạng của nàng Kiều và đồng cảm xót thương cho tình cảnh bất hạnh của nàng.
Thúy Kiều
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CẢM NHẬN ĐOẠN TRÍCH “KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH” LỚP 9
“Truyện Kiều” hay còn được gọi là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng nghe mới kêu đứt ruột” là một kiệt tác văn học của đại thi hào Nguyễn Du. Số phận và vẻ đẹp của Kiều – kiếp hồng nhan mà bạc mệnh – được Nguyễn Du khắc họa rõ nét trong tác phẩm. Đặc biệt là đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã khắc họa cho người đọc thấy được số phận và cuộc đời của nàng Kiều khi phải bước chân vào chốn gió bụi đoạn trường, lầu xanh ô trọc nhưng Kiều vẫn giữ nguyên vẹn được phẩm chất cao đẹp và đáng trân trọng của mình.
Đoạn trích trên phản ánh tâm trạng buồn tủi, thương nhớ người yêu, thương nhớ cha mẹ và xót thương cho thân phận cay đắng của Thúy Kiều. Đoạn thơ là một dẫn chứng chứng minh cho nhận xét: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của thi hào Nguyễn Du. Thiên nhiên ở đây bị bao phủ trong một nỗi buồn trĩu nặng, bởi Thúy Kiều nhìn cảnh bằng cặp mắt u uất, đau thương. Nỗi buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật và cảnh vật hoang vắng, đìu hiu càng gợi mối sầu trong lòng người con gái bất hạnh. Đang được sống trong không khí êm ấm, đùm bọc của gia đình; đang say sưa hạnh phúc với mối tình đầu ngọt ngào, trong sáng, Thúy Kiều bỗng dưng bị rơi vào cạm bẫy của cuộc đời. Nàng bị lừa gạt trắng trợn, bị đánh đập dã man, bị xúc phạm đến phẩm hạnh. Bao tai họa dồn dập đến với nàng chỉ trong một thời gian quá ngắn. Cả thể xác lẫn tâm hồn nàng bị những thế lực đen tối giày xéo, chà đạp không thương tiếc. Giờ đây, một mình ngồi trước lầu Ngưng Bích, giữa chôn đất khách quê người, Kiều hoàn toàn cô đơn, không một người thân thích để chia sẻ tâm sự đau thương. Bởi vậy, nỗi buồn đau càng lớn, càng sâu. Thúy Kiều chỉ còn biết san sẻ nỗi lòng cùng cảnh vật quanh nàng.
Trong sáu câu thơ đầu, tác giả tả khung cảnh quanh lầu Ngưng Bích bằng những nét chấm phá tài tình: vẻ non xa, tấm trăng gần, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo. Nguyễn Du đã mượn cảnh để nói lên tâm trạng Thúy Kiều:
“Trước Lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ờ chung.”
Cha mẹ, các em, người yêu… tất cả đã xa xôi, cách biệt trùng trùng. Sống giữa một lũ mặt người dạ thú như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh… Kiều chẳng khác gì một con cừu non giữa bầy lang sói. Có ai hiểu nỗi lòng nàng trong cảnh huống này? Nhìn một dáng núi xa, ngắm một vầng trăng gần, nàng cảm thấy đó là bè bạn. Nhưng những người bạn không lời này đâu có an ủi, chia sẻ được nổi buồn đang chất ngất trong lòng nàng? Bởi thế, nỗi buồn không thể nào vơi. Dõi tầm mắt ra bốn phương, tám hướng, không hướng nào loé lên được một chút vui:
“Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.”
Không một bóng người trên một vùng đất mênh mông, hoang vắng. Ướm vào thân phận, Kiều thấy mình nào có khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi. Giữa người với cảnh vừa có nét tương phản, vừa có nét tương đồng. Nỗi buồn của Kiều dường như cũng mở ra đến vô cùng như không gian vô tận trước mắt nàng. Càng cảm thương cho thân phận, cõi lòng nàng càng tan nát:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Cảnh buồn thì hay gợi nhớ. Kiều lặng lẽ, âm thầm gạt lệ khi hồi tưởng về bao điều tốt đẹp nay đã thành quá khứ. Nàng da diết nhớ người yêu cùng với mối tình đầu mãnh liệt và trong sáng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.”
Hình ảnh hai người cùng uống chén rượu thề trăm năm gắn bó đêm nào dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời giờ vẫn còn đậm nét, tươi nguyên trong kí ức nàng. Nàng thương chàng Kim giờ này đang sốt ruột trông chờ tin tức người yêu. Nghĩ về cha mẹ, lòng Kiều càng xót xa, đau đớn:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mẩy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Giờ nàng đã đi xa biền biệt, lấy ai chăm sóc mẹ cha? Tuy đã cố dứt chữ tình đổ đáp đền chữ hiếu nhưng nàng vẫn không khỏi băn khoăn, thổn thức khi nghĩ đến cảnh cha già mẹ yếu, mòn mỏi đợi mong con trong vô vọng. Điều đó càng khẳng định nàng là người con hiếu thảo. Mang một tâm trạng như thế nến Kiều nhìn đâu cũng chỉ thấy buồn:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Bốn lần từ buồn trông được nhắc lại, mỗi lần mở đầu cho một cảnh. Kiểu kết cấu lặp này gây ấn tượng mạnh về nỗi buồn sâu sắc của Kiều. Tám câu thơ, bốn bức tranh phong cảnh nhỏ trong một bức tranh phong cảnh – tâm tình rộng lớn. Bức thứ nhất: cửa bể chiều hôm mênh mông màu xám bạc. Trên cái nền ấy nổi lên một cánh buồm đơn độc, thấp thoáng ẩn hiện, không biết về phương trời nào. Bức thứ hai: ngọn nước mới sa (nước đổ từ trên cao xuống), cuốn theo những cánh hoa bị sóng gió dập vùi, đẩy đưa vào cõi vô định. Bức thứ ba: nội cỏ rầu rầu, héo úa, không còn sức sống. Bức thứ tứ: gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng…
Chúng ta bắt gặp ở đây bút pháp quen thuộc của Nguyễn Du. Cảnh vật chỉ mang tính ước lệ nhưng phản ánh rõ tình người, cụ thể là nỗi buồn không giới hạn của Kiều. Mỗi cảnh ngụ một ý, tăng dần lên theo suy nghĩ và mặc cảm về thân phận con người: lẻ loi, cô độc, trôi nổi, dập vùi, héo tàn và linh tính báo trước về một tương lai đen tối đầy bão tố.
BÀI LÀM VĂN MẪU SỐ 3 PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH “KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH”
Nguyễn Du đã trải qua mười năm gió bụi, sống trong thời đại “một phen thay đổi sơn hà”, chứng kiến bao đổi thay ghê gớm “thương hải biến vi tang điền” để rồi đã viết ra những vần thơ mà như có máu chảy trên đầu ngòi bút. Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích “ là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất của “Truyện Kiều” qua đó đã tái hiện hình ảnh Kiều trong cuộc sống nơi chốn lầu xanh.
Mở đầu đoạn trích là bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích”
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Câu thơ mở đầu “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”, cái tên “Ngưng Bích” vốn là cái tên rất đẹp nhưng lại là nơi “khóa” tuổi xuấn củ Kiều. Kiều như con chim phải sống trong lồng. Nàng từ lầu Ngưng Bích trông ra và thấy “vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”, đó là hình ảnh của những dãy núi trải dài. Xung quang là “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Khung cảnh có gì đó rất hoang vắng, rợn ngợp và không có bóng người. Trong khung cảnh đó, Kiều thấy “bẽ bàng”- một tâm trạng đau đớn, tủi thẹn cho thân phận sống nơi lầu Ngưng Bích của chính mình. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” để chỉ vòng thời gian cứ thế lặp lại hay cũng chính là cảnh Kiều đang bị giam hãm. “ Như chia tấm lòng” để chỉ một trái tim đang bị chia cắt…
Trong hoàn cảnh ấy, Kiều nhớ đến người yêu của mình là Kim Trọng đang ngày đêm mong ngóng đến người yêu:
“ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Nàng nhớ lại cái đêm mà hai người dưới ánh trăng đã cùng thề nguyền:
“ Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song”
vậy mà nay, chính nàng lại là người phá vỡ lời thề ấy. Nàng hình dung ra rằng lúc này đây Kim Trọng cũng đang ở quê nhà ngóng chờ nàng. Câu hỏi tu từ “tấm son gột rửa bao giờ cho phai” cùng từ “son”diến tả tâm trạng đau đớn đến tột cùng của nàng.
Rồi nàng nhớ về cha mẹ của mình:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nàng nhớ Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, điều này là hoàn toàn hợp lý bởi với cha mẹ, Kiều đã bán mình để chuộc cha, như vậy chữu “hiếu” phần nào đã được báo đáp. Điển tích, điển cổ “quạt nồng ấp lạnh”, “Sân Lai cách mấy nắng mưa” nói về tấm lòng hiếu thảo của người con gái đối với cha mẹ, nàng băn khoăn không biết giờ này có ai thay mình để chăm sóc cho cha mẹ hay không.
Từ đó, nàng buồn cho kiếp đời của mình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cửa bể xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại như một bản nhạc trầm buồn. Nàng nhìn ra xa mà chỉ thấy hình ảnh con thuyền “thấp thoáng”- hay đó cũng chính là thân phận Kiều? “ Hoa trôi man mác biết là về đâu?”. Câu hỏi tu từ cùng hình ảnh ẩn dụ “hoa” vốn là biểu tượng cho cái đẹp hay cũng chính là hình ảnh người con gái bị cuộc đời xô đẩy? Và ngọn cỏ thì nhuốm một màu tâm trạng của lòng người – “rầu rầu”.
Qua đoạn trích, ta đã phần nào hiểu được số phận của nàng Kiều. Kiếp đoạn trường của nàng lênh đênh, cuộc đời của nàng đầy sóng gió. Nguyễn Du viết những câu thơ này, chắc chắn phải từ một trái tim nhân đạo, yêu thương những phận tài hoa mà bạc mệnh…
Từ khóa tìm kiếm:
cam nhan cua e ve doan trich kieu o lau ngưng bich
cảm nhận kiều ở lầu ngưng bích
Cảm nhận về bài kiều ở lầu ngưng bích
cam nhan bai tho kieu o lau ngung bi
cảm nhận của em về kiều ở lầu ngưng bích
cảm nhận về đọan trích kiêu ơ lầu ngưng bích