Đọc Hiểu Văn Bản Bài Qua Đèo Ngang / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Đọc Hiểu Văn Bản: Qua Đèo Ngang

ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TÌM HIỂU KHÁI NIỆM – Thơ Đường luật

Còn gọi là thơ cận thể. Thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra từ đời Đường ở Trung Quốc. Có ba dạng chính : Thơ bát cú (mỗi bài tám câu), thơ tứ tuyệt (mỗi bài bốn câu) và thơ bài luật (dạng kéo dài của thơ Đường luật), trong đó thơ bát cú, nhất là thất ngôn bát cú (mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ), được coi là dạng cơ bản vì từ nó, có thể suy ra các dạng khác. Về bố cục, một bài bát cú gồm 4 phần : đề, thực, luận, kết. Trong đề, câu thứ nhất là phá đề, câu thứ hai là thừa đề. Phá đề mở ý của đầu bài ra, thừa đề tiếp ý của phá đề chuyên vào thân bài. Thực (câu 3 và 4) còn gọi là trích thực hay cập trạng, giải thích rõ ý của đầu bài. Luận (câu 5 và 6) phát triển rộng ý của đầu bài. Kết (hai câu cuối) kết thúc ý toàn bài. Cách chia thành 4 phần như vậy cũng như việc quy định rõ nhiệm vụ cho từng phần càng về sau càng chặt. Các nhà thơ có tài năng thường không để cho bố cục nói trên gò bó. Về luật bằng trắc, buộc phải theo sự quy định về thanh bằng thanh trắc trong từng câu và trong cả bài. Hệ thống này được tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu chữ này thanh bằng thì bài thơ thuộc luật bằng (và ngược lại). Sự sắp xếp âm thanh chẳng qua chỉ làm cho điệu thơ không đơn điệu. Muốn vậy trong mỗi câu, các cặp bằng trắc lần lượt thay nhau trong mỗi cặp câu (còn gọi là liên), các chữ tương ứng của câu số lẻ và số chẵn phải có thanh ngược nhau (trừ chữ thứ năm và thứ bảy trong liên đầu) ; nhịp đi của liên trên phải khác nhịp đi của liên dưới, muốn vậy chữ thứ hai của câu chẵn thuộc liên trên phải cùng thanh với chữ thứ hai của câu lẻ thuộc liên dưới (sự giống nhau đó gợi là niêm vì làm cho hai câu thuộc hai liên dính vào nhau). Ví dụ : công thức bốn câu đầu của một bài thơ luật bằng :

Trên thực tế, ít người theo đúng hoàn toàn công thức, do đó sinh ra lệ bất luận : chữ thứ nhất của câu hoàn toàn bất luận (bằng trắc đều được) ; chữ thứ năm nói chung ngược thanh với chữ thứ bảy, song cũng có thể bất luận ; riêng chữ thứ ba, nếu là bằng thì không nên đổi thành trắc, nhất là ở câu có vần. Về cách đối : đôi ở phần thực và luận. Các chữ đối nhau về nguyên tắc phải cùng từ loại. Các nhà thơ thường thích dùng các kiểu đối khác nhau để giảm tính chất gò bó như đối lưu thuỷ (hơi thơ cũng như ý của câu thứ hai là do câu thứ nhất trượt xuống, không thể đứng một mình), tá đối (mượn âm hoặc nghĩa một từ khác để đối), điệu đối (chủ yếu là đối về âm điệu), tự đối (đối trong nội bộ một câu), khoan đối (đối không thật chỉnh)… về cách gieo vần : chỉ gieo một vần và chỉ gieo vần bằng (ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8). Riêng chữ cuối câu thứ nhất, đặc biệt là ở thơ ngũ ngôn, có thể không gieo vần.

Trong quá trình sử dụng, các nhà thơ đã sáng tạo thêm nhiều biệt thể mới của thơ Đường luật như tiệt hạ (ý, lời của mỗi câu thơ đều lơ lửng), yết hậu (thơ tứ tuyệt mà câu cuối chỉ có một vài chữ), thủ vĩ ngâm (câu một giống câu tám),… Nhiều nhà thơ Việt Nam như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tú Xương, Nguyễn Khuyến đã sử dụng thể thơ Đường luật để viết nhiều bài thơ có giá trị và trong quá trình sử dụng, đã dân tộc hoá thể thơ này về nhiều phương diện. Do tính chất gò bó về hình thức, từ lâu, đối với số đông người làm thơ, thơ Đường luật khó diễn đạt được đầy đủ, sinh động tình cảm của con người hiện đại. Tuy vậy, thơ Đường luật thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện trên một số lĩnh vực và ở một số trường hợp nhất định trong cuộc sống văn hoá của nhân dân ta.

(Nguyễn Khắc Phi/ Từ điển văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984)

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

Ở bài thơ này bà Huyện chỉ nói tâm tư của mình.

Đèo Ngang là một cảnh được nhiều người ngâm vịnh. Vì vị trí lịch sử (vùng giáp ranh giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong suốt hai thế kỉ) đã đành, còn là vì cảnh trí thiên nhiên ngoạn mục : đứng trên đỉnh nhìn quanh, đông là biển xanh thăm thẳm, sóng tung bọt trắng vào chân núi, tây là núi biếc trùng trùng, bắc nam là vùng cận sơn, đất sỏi một màu đỏ thẫm. Đường ô tô nay còn quanh co, khuất khúc, huống gì hồi xưa. Tột đỉnh, ngày đó là cửa quan đỏ chót ba chữ Hoành Sơn Quan.

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Bà đến đây vào lúc bóng chiều đã ngả, không chỉ xế mà xế tà. Thời điểm ấy không còn là thời điểm cho vui tươi, rạng rỡ mà đã xiêu xiêu về phía hoài niệm, mơ màng, cảnh vẫn ra vẻ tươi : cỏ cây chen giữa đá, lá chen giữa hoa (có thể hiểu : đá chen giữa cỏ cây, hoa chen giữa lá). Nhưng sao lại không vui, mà lại gây ấn tượng chen lấn, giành giật, tranh lấy một không gian sống ? Tịnh không mảy may chào đón, hớn hở gặp được một nhà thơ lại là một bà quan. Cỏ cây, đá, lá, hoa cứ làm việc của nó, chang biết gì đến người khách quý.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mây nhà.

Cỏ cây, hoa đá còn giành giật nhau đất sống, hỏi con người sẽ ra sao ? Rõ là tội nghiệp : Lân với cổ đá, tiều chỉ vài chú lẻ loi, thân hình lom khom như bị núi đè xuống dưới nhỏ nhoi, xa lơ dưới vực sâu. Còn chợ thì tận bên sông (có thể hồi đó, sông Roòn đang còn ở gần núi, từ Đèo có thể nhìn thấy chợ bên sông?), xa tít xa mù, lẽ ra đông nhà đông người, thì chỉ có lác đác mỗi nơi một vài nhà ! Dưới núi, bên sông sao nghe xa xôi thế ! cỏ đá thì giành nhau chỗ sinh tồn vì quá đông, thiên nhiên quá rậm rạp, còn con người thì sao mà thưa thớt, bé nhỏ, hắt hiu vậy ? cảm giác không gian sao mà mênh mông, trông vắng !

Cảnh hiện thực khách quan đó chăng? Hay là cảnh tâm trạng ? Đến hai câu luận mới rõ dần :

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Ít nhất đây cũng là tâm trạng con người bé nhỏ đối diện với thiên nhiên bao la. Cũng cần biết một chút điển tích : chim cuốc được lưu truyền là hồn vua Thục Đế mất nước nên đau lòng gào kêu mãi quốc quốc. Con đa đa (chữ Hán gọi là gia gia) nhắc tích Bá Di, Thúc Tề, bề tôi nhà Thương, thà chết đói chứ không chịu sống với nhà Chu (triều đại đã diệt nhà Thương) và ăn thóc nhà Chu ; nó là hoá thân của hai vị ấy nên nó luôn kêu “bất thực cốc Chu gia” (dân gian nhại là “bắt con tép kho cà”) tức không ăn thóc nhà Chu ; nhưng gia gia thì nhắc đến nhà.

Bỗng dưng nhắc đến nước, đến nhà chắc không phải không có căn cớ.

Bà Nguyễn Thị Hinh, người Đàng Ngoài, thuộc Lê Trịnh ; nay đã là triều Nguyễn, con cháu chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nói như xưa, mệnh thời thế là đã chuyên về họ Nguyễn. Tuy vậy, trong tâm tư thế hệ bà, người đất Bắc không khỏi không ngầm lắng một niềm luyến tiếc nhà Lê, tiếc thương thời cũ. Gia đình bà lại ở Hà Nội. Thăng Long xưa nay đã thay đổi và đã mất dần dấu tích xưa. Nay bà lại vào kinh, một nơi lạ nước lạ nhà, một mình ngàn dặm. Phụ nữ xưa kia mấy khi xa nhà. Nhớ cảnh cũ người xưa, nghĩ nước nhớ nhà, tâm trạng ấy, càng đi xa vào Nam càng nặng, và qua Đèo Ngang là như bước qua vùng đất Đàng Trong, chốn lạ. Cho dù đau lòng bên trong và mỏi miệng bên ngoài, mỗi bên có thể nặng nhẹ khác nhau, nhưng nhớ nước và thương nhà đều một mực tha thiết. Cặp phạm trù nước nhà này có gốc rất sâu trong lòng Việt Nam. Chạm tới nó là khơi động bao nỗi niềm thiết tha, gắn bó của con người với nước và nhà, nước chung và nhà riêng nhưng nhuyễn quánh làm một. Nhớ nước đã đau, thương nhà đã mỏi. Thương nhà đã thêm chiều sâu ở nhớ nước. Nhớ thương như thế không còn là nhớ thương bình thường của riêng một người. Đó là một nỗi nhớ thương có tính cách lịch sử.

Mượn tiếng kêu của hai con chim mà gợi đến nỗi niềm ấy trong lòng, kì thực là từ cảnh trước mắt quay về cảnh đã qua, từ hiện tại trở về quá khứ. Quốc quốc, gia gia trở thành những sinh vật của thời nào, nơi nào, không phải của thời điểm này, không gian này. Nó có đấy mà như không có đấy. Nó mơ hồ, huyền hoặc như nó là hiện thân của tấm lòng người khách đi đường lẻ loi, nhiều tâm sự. Hai cầu thơ như hai tiếng vọng của xa xôi thời gian và mờ mịt không gian, mường tượng như hai tiếng than thương tự đáy lòng.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Đúng là vậy. Trước cảnh trời, non, nước ở Đèo Ngang, non trùng điệp, nước mênh mông, trước cái vô cùng của trời đất, cảnh bể dâu của cuộc đời, con người thấy bé nhỏ tội nghiệp bao nhiêu ! Thêm cái tâm trạng ngổn ngang nhiều suy cảm, con người càng thấy mình cô đơn. Cho nên, quay lại, chỉ có mình với mình, với mảnh tình riêng của mình, đơn lẻ, nhỏ nhoi. Sáu câu thơ là một sự trống vắng mênh mông.

Ta có cảm tưởng bài thơ tả cảnh mà không tả cảnh, chỉ mượn cảnh để tả tâm trạng một người nhưng cũng không phải tâm trạng một người. Nó là một tiếng nói của lịch sử, một chứng tích lịch sử, một đoạn đau thương trong trường khúc đau thương của non nước Việt Nam ở giai đoạn lịch sử có tính bi kịch này. Cái bóng xế tà của nhà thơ không chỉ chiếu nghiêng xuống bài thơ mà còn ngả dài xuống lịch sử, xuống số phận nhân dân ta và đất nước ta dưới triều Nguyễn. Bài thơ của một khoảnh khắc mà ai hay lại là một dự báo cho lâu dài.

(Theo Lê Trí Viễn, Sđd)

VĂN BẢN ĐỌC THÊM

QUA ĐÈO NGANG

Bãi thẳm, ngần xa, cảnh vắng teo

Đèo Ngang lợi bể nước trong veo

Thà là cúi xuống cây đòi sụt

Xô xát trông lên sóng muốn trèo

Lảnh chảnh đầu mầm chim vững tổ

Lanh đanh cuối vụng cá ngong triều

Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả

Non nước trông qua vẫn bấy nhiêu.

(Lê Thánh Tông)

* Gợi dẫn

Hãy phân tích điểm giống và khác nhau giữa bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan và của Lê Thánh Tông.

Soạn Bài : Qua Đèo Ngang

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài

Bà Huyện Thanh Quan (? – ?), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Bình ngày nay), do đó có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một nữ sĩ vào loại tài danh hiếm có thời phong kiến. Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng.

Bài thơ này được viết theo thể thất ngôn bát cú. Đây là một trong hai dạng cơ bản, phổ biến nhất của thơ Đường luật, gồm thất ngôn bát cú (7 chữ, 8 câu) và thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ, 4 câu). Thơ thất ngôn bát cú Đường luật có những quy định rất chặt chẽ về bố cục (tổ chức cơ bản về nội dung và hình thức), luật (quy định về vần, thanh trong cả bài, đối giữa các cặp câu 3 – 4, 5 – 6), niêm (sự liên kết giữa các câu 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7).

1. Nhận dạng thể thơ của bài Qua Đèo Ngang về số câu, số chữ, về cách gieo vần và về phép đối.

: Dựa vào phần giới thuyết thể thơ ở trên, tự kiểm tra về số câu, số chữ, cách gieo vần và phép đối của bài thơ.

2. Cảnh vật được miêu tả và lúc chiều tà. Thời điểm đó dễ gợi lên tâm trạng buồn, cô đơn nhất là với người lữ thứ.

3. Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi tiết: cỏ cây, hoa lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, tiếng chim quốc, chim đa đa, có vài chú tiều phu. Các chi tiết này cho thấy cảnh Đèo Ngang um tùm, rậm rạp. Con người thì ít ỏi, thưa thớt. Các từ láy: lom khom, lác đác, các từ tượng thanh: quốc quốc, đa đa có tác dụng lớn trong việc gợi hình, gợi cảm và càng gợi lên cảm giác hoang vắng, quạnh hiu.

4. Cảnh Đèo Ngang là cảnh thiên nhiên, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng rất hoang sơ. Cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà, lại được nhìn từ tâm trạng của kẻ xa quê nên cảnh gợi lên cảm giác buồn, hoang sơ, vắng lặng.

5. Có thể thấy, ấn sâu kín trong bức tranh thiên nhiên là tâm trạng của người lữ thứ (Bà Huyện Thanh Quan). Đó là tâm trạng buồn, cô đơn, hoài cổ. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tiếng kêu da diết của chim quốc, chim đa đa cũng chính là tiếng lòng tha thiết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước. Câu thơ cuối cùng chính là cao trào của nỗi buồn, nỗi cô đơn của người khách xa quê.

6. Giữa cảnh trời, non, nước và một mảnh tình riêng có quan hệ đối lập nhau. Cảnh càng rộng lớn thì tình càng cô đơn, con người càng nhỏ bé. Như thế, rõ ràng cảnh góp phần khiến nỗi cô đơn của tác giả càng lớn hơn, nặng nề hơn.

Đọc một bài thơ thất ngôn bát cú, trước hết phải chú ý đọc đúng nhịp (4/3), sau nữa là chú ý đến phép đối trong hai cặp 3 – 4, 5 – 6. Riêng với bài thơ này, cần chú ý đọc chậm, diễn cảm, thể hiện được nỗi buồn sâu lắng của tác giả.

– Từ ta thứ nhất và từ ta thứ hai đều chỉ bản thân người nói.

– Vì thế, ta với ta có nghĩa là không có ai khác (chỉ có một mình tác giả mà thôi).

Bài 8. Qua Đèo Ngang

CHÀO MỪNG THẦY CÔ VỀ DỰ GiỜ LỚP

MÔN : VĂN 7

GIÁO VIÊN: PHAN THANH TUYỀN HỎI:Đọc bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương và cho biết bài thơ có mấy lớp nghĩa? Mỗi lớp nghĩa biểu đạt ý cơ bản gì?Đáp án Bài thơ có 2 lớp nghĩa: – Nghĩa đen: miêu tả đặc tính của chiếc bánh trôi và quá trình tạo nó. Ca ngợi nét đẹp văn hóa của dân tộc. – Nghĩa bóng: (nghĩa chính) đề cao trân trọng vẻ đẹp nhan sắc và tâm hồn, sự trong trắng son sắt của người phụ nữ Việt Nam xưa và sự cảm thông sâu sắc cho thân phận chìm nổi của họ.KIỂM TRA MIỆNGQuan sát bức tranh sau và nêu hiểu biết của emvề Đèo Ngang? Tiết 29 ,Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)I. ĐỌC – TÌM HiỂU CHUNG 1.Tác giả

Tiết 29, Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)-Tên thật: Nguyễn Thị Hinh. Sống ở thế kỷ XIX Quê ởlàng NghiTàm (nay thuộcTây Hồ, Hà Nội). Chồng bàlàm tri huyệnThanh Quan (nay thuộc Thái Ninh, TháiBình). Do đó có tên gọi Huyện ThanhQuan. – Bà là một trong số nữ sỹ tài hoa hiếm có trong thờitrung đại. Hiện còn để lại 6 bài thơ Nôm Đường luật,trong đó có bài thơ Qua Đèo Ngang. (6 bài thơ gồm:Thăng Long thành hoài cổ; Chiềuhôm nhớ nhà; ChùaTrấn Bắc; Cảnh chiều hôm; Đền Trấn Võ; Qua ĐèoNgang)I. Đọc và tìm hiểu chung 1.Tác giả

Tiết 29, Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)2.Tác phẩm – Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được ra đời khoảng thếkỷ 19, khi bà Huyện Thanh Quan lần đầu xa nhà, xaquê, vào kinh đô Huế nhận chức “Cung trung giáotập” (dạy nghi lễ cho các cung nữ, phi tần theo chỉ dụcủa nhà vua). – Thể thơ :2. Tác phẩmThể thơ :Thất ngôn bát cú Đường luật. Tiết 29 Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan) QUA ĐÈO NGANGBước tới đèo Ngang, bóng xế tà, T T B B T T BCỏ cây chen đá, lá chen hoa.T B B T T B BLom khom dưới núi, tiều vài chú, B B T T B B T Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.T T B B T T BNhớ nước đau lòng, con quốc quốc, T T B B B T TThương nhà mỏi miệng, cái gia gia. B B T T T B BDừng chân đứng lại, trời, non, nước, B B T T B B TMột mảnh tình riêng, ta với ta. T T B B B T B2. Tác phẩmBước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời, non,nước,Một mảnh tình riêng, ta với ta.ĐỀTHỰCLUẬNKẾT3. Bố cục : 4 phần Tiết 29 Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)2. Tác phẩm3. Bố cục : 4 phần Tiết 29 Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)4. Giải thích từ khó – Con quốc quốc 🙁 cũng viết là cuốc cuốc ) chim đỗ quyên ( chim cuốc )– Cái gia gia 🙁 cũng viết là da da ) : chim đa đa , còn gọi là gà gô .– Đèo Ngang :Thuộc dãy núi Hoành Sơn , một nhánh của dãy núi Trường Sơn , chạy thẳng ra biển , phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh .-Tiều :Người chuyên nghề đốn củiII. Phân tích:1. Hai câu đề :Bước tới Đèo Ngang,

Tiết 29, Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)1. Tìm hàm nghĩa cụm từ ” Ta với ta ” 2. Cảnh Đèo Ngang được miêu tả trong thời điểm nào ? A. Xế trưa B. Xế chiều C. Ban mai D. Đêm khuya .3. Tâm trạng của tác giả thể hiện qua bài thơ là tâm trạng như thế nào ? A. Yêu say trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước . B. Đau xót ngâm ngùi trước sự đổi thay của quê hương C. Buồn thương da diết khi phải sống trong cảnh cô đơn . D. Cô đơn trước thực tại , da diết nhớ về quá khứ của đất nước .ĐĐHướng dẫn học tập( Hướng dẫn HS tự học ở nhà) * Đối với bài học ở tiết học này: – Về nhà học bài , học ghi nhớ , học thuộc lòng văn bản. – Viết thành văn cảm nhận sâu sắc của em về bài thơ. * Đối với bài học ở tiết học tiếp theo – Chuẩn bị bài ” Bạn đến chơi nhà” + Tác giả , tác phẩm + Cảm xúc của nhà thơ khi bạn tới chơi + Gia cảnh của chủ nhà + Ý nghĩa bài thơ

Soạn Bài Qua Đèo Ngang Siêu Ngắn

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Trả lời câu 1 (trang 105, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

– Thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ.

– Gieo vần ở các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8 : tà – hoa- nhà – gia – ta.

– Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6.

Câu 2 Trả lời câu 2 (trang 105, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

– Cảnh tượng Đèo Ngang được miêu tả ở thời điểm lúc chiều tà.

– Thời điểm đó có lợi thế khi gợi cảm giác vắng lặng, là lúc mong được sum họp, mong được trở về nhà. Qua đó bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả.

Câu 3 Trả lời câu 3 (trang 105, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

– Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi tiết: cỏ cây, hoa lá, vài chú tiều phu, con sông, cái chợ, mấy cái nhà, tiếng chim quốc, chim gia gia.

– Các từ láy: lom khom, lác đác; các từ tượng thanh: quốc quốc, gia gia có tác dụng lớn trong việc gợi hình, gợi cảm và tô đậm vẻ hoang vắng, quạnh hiu.

Câu 4 Trả lời câu 4 (trang 105, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

Qua sự miêu tả của Bà Huyện Thanh Quan, cảnh tượng Đèo Ngang hiện lên với bức tranh thiên nhiên hoang sơ, bát ngát núi đèo, có sự sống con người nhưng nhỏ bé, vắng lặng, thưa thớt và buồn tẻ.

Câu 5 Trả lời câu 5 (trang 105, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

Tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan được thể hiện qua hai hình thức:

– Mượn cảnh nói tình: mượn hình ảnh hoang vắng, thưa thớt của con người nói lên nỗi quạnh hiu, mượn tiếng kêu mang âm vọng đất nước, gia đình để thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ nước.

– Trực tiếp tả tình (câu thơ cuối): ” Một mảnh tình riêng, ta với ta “: cô đơn, buồn.

Câu 6

Trả lời câu 6 (trang 106, SGK Ngữ văn 7, tập 1):

Nói đến một mảnh tình riêng giữa cảnh trời, non, nước bao la ở Đèo Ngang có sự khác biệt với cách nói một mảnh tình riêng trong không gian chật hẹp là vì: trời, non, nước càng bao la càng rộng thì mảnh tình riêng càng nặng nề, u uất.

Luyện tập Trả lời câu hỏi (trang 104 SGK Ngữ văn 7 tập 1)

“Ta với ta” chỉ chính bản thân tác giả, thể hiện nỗi cô đơn sâu sắc.

Bố cục

Kết cấu 4 phần: đề – thực – luận – kết

– 2 câu đề : cái nhìn chung về cảnh vật

– 2 câu thực : miêu tả cuộc sống con người

– 2 câu luận : tâm trạng tác giả

– 2 câu kết : nỗi cô đơn lên cao

ND chính

Bài thơ cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng của sự sống con người nhưng còn hoang sơ. Đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà và nỗi buồn, cô đơn thầm lặng của tác giả.

chúng tôi