Đọc Hiểu Văn Bản Người Lái Đò Sông Đà / Top 13 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Đọc Hiểu “Người Lái Đò Sông Đà”

Nhằm giúp các bạn rèn luyện được kĩ năng trả lời phần đọc hiểu. chúng tôi sẽ sưu tầm và đưa ra một số đề đọc hiểu để các bạn tham khảo và rèn luyện kĩ năng làm bài.

Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

” Trong những dòng sông đẹp ở các nư­ớc mà tôi thư­ờng nghe nói đến, hình như­ chỉ sông Hư­ơng là thuộc về một thành phố duy nhất. Trư­ớc khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản tr­ường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như­ cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trư­ờng Sơn, sông Hư­ơng đã sống một nửa cuộc đời của mình như­ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Như­ng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải đ­ược về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở ng­ười con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hư­ơng nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành ng­ười mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông H­ương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vư­ợt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như­ không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá d­ưới chân núi Kim Phụng.”

Câu 1. Đoạn văn trên được trích trong tác phẩm nào? Văn bản đó thuộc thể loại gì ?

Câu 2. Đối tượng miêu tả của đoạn kí ? Đối tượng ấy hiện lên như thế nào qua đoạn văn ?

Câu 3. Trong đoạn văn, tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật gì ? Tác dụng của những biện pháp nghệ thuật ấy ?

Câu 4. Nhân vật “tôi” hiện lên như thế nào trong đoạn văn?

Câu 5. Đặc điểm Sông Hương ở đoạn này có điểm gì tương đồng với đặc điểm sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân?

ĐÁP ÁN

Câu 1. Đoạn văn trích trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Văn bản thuộc thể kí (bút kí)

Câu 2.

Đối tượng miêu tả của đoạn văn đoạn văn: Sông Hương ở thượng nguồn Dòng sông hiện lên với vẻ độc đáo:

+ Dòng chảy phong phú: vừa mãnh liệt vừa dịu dàng, say đắm

+ Dòng sông mang vẻ đẹp nữ tính: từ cô gái di-gan đến người mẹ phù sa

+ Dòng sông mang vẻ đẹp kín đáo với tâm hồn sâu thẳm

Câu 3.

Trong đoạn văn, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật: đối lập (tương phản), so sánh, nhân hóa. Tác dụng:

+ Nghệ thuật đối lập (tương phản) nhằm làm nổi bật vẻ độc đáo của dòng sông

+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, dòng sông gần với tâm hồn của con người xứ Huế.

Câu 4. Nhân vật “tôi” hiện lên rõ nét :

– Kiến thức phong phú, am tường về Huế

– Trí tưởng tượng phong phú độc đáo, mãnh liệt

– Ngôn ngữ phong phú, tài hoa

– Tình yêu đối với xứ Huế

Câu 5. Điểm tương đồng giữa sông Hương ở đoạn này và sông Đà ở thượng nguồn là: sự hùng vĩ.

Mod Văn

Đọc Hiểu Người Lái Đò Sông Đà (Nguyễn Tuân)

Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiêt tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.

Đọc hiểu Người lái đò sông Đà

Đọc đoạn văn bản rồi trả lời các câu hỏi:

Ông đò Lai Châu bạn tôi làm nghề chở đò dọc sông Đà đã 10 năm liền và thôi làm đò cũng đã đôi chục năm nay. Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông nói ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông. Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù. Quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh. Ông chở đò dọc, chở chè mạn, chè cối từ Mường Lay về Hòa Bình, có khi trở về đến tận bến Nứa Hà Nội. Ông bảo: Chạy thuyền trên sông không có thác, nó sẽ dễ dại tay chân và buồn ngủ. Cho nên ông chỉ muốn cắm thuyền ở Chợ Bờ, cái chỗ biên giới thủy phân cuối cùng của đá thác sông Đà… Trên dòng sông Đà, ông xuôi ngược hơn trăm lần rồi. Chính tay ông giữ lái đò độ sâu chục lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sâu mái chèo. Trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước, những con thác hiểm trở sông Đà, với người lái đò ấy, như thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng từ dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm than, chấm xuống dòng…

Câu 1: Đoạn trích trên được trích trong tác phẩm nào, của ai? Giới thiệu đôi nét về tác phẩm

Câu 2: Xác định thể loại văn bản và những phương thức biểu đạt của đoạn văn trên.

Câu 3: Việc kết hợp nhiều phương thức biểu đạt như thế mang lại hiệu quả gì?

Câu 4: Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất, có hiệu quả nhất trong đoạn văn.

Câu 5: Vì sao ông đò Lai Châu chỉ muốn cắm thuyền ở chỗ biên giới thủy phân cuối cùng của đá thác Sông Đà? Điều đó chứng tỏ ông đò là người như thế nào?

Đáp án đề đọc hiểu Người lái đò sông Đà số 1

Câu 1: Đoạn trích trên được trích trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân

– Giới thiệu đôi nét về tác phẩm:

Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân

Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng.

Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám.

– Thể loại văn bản: tùy bút

– Phương thức biểu đạt của đoạn văn trên là: tự sự, miêu tả, biểu cảm.

Câu 3: Việc kết hợp nhiều phương thức biểu đạt giúp nhà văn vừa tái hiện chân thực, sinh động đối tượng, sự việc vừa bày tỏ tư tưởng, tình cảm một cách dễ dàng, hiệu quả, giúp người đọc dễ hiểu, dễ tiếp cận.

– Biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất, có hiệu quả nhất trong đoạn văn: biện pháp so sánh.

– Tác dụng của biện pháp tu tù đó là: Khắc họa ông lái đò với vẻ đẹp từng trải, hiểu biết, thành thạo nghề lái đò và nắm chắc đối tượng chiến đấu của mình.

Câu 5: Ông đò Lai Châu chỉ muốn cắm thuyền ở chỗ biên giới thủy phân cuối cùng của đá thác Sông Đà vì: “Chạy thuyền trên sông không có thác, nó sẽ dễ dại tay chân và buồn ngủ”

– Điều đó chứng tỏ ông đò là người gan dạ, quen với việc đối mặt với hiểm nguy, biến những thử thách khó khăn trở thành thuận lợi.

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:

…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. ( Trích Tuỳ bút Sông Đà-Nguyễn Tuân)

Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?

Câu 2: Nội dung của đoạn trích là gì?

Câu 3: Chỉ rõ các biện pháp tu từ có trong đoạn văn và nêu tác dụng của nó.

Câu 4: Đoạn văn làm nảy nở trong anh/chị những cảm xúc, cảm giác gì?

Đáp án đề đọc hiểu Người lái đò sông Đà số 2

Câu 1: Đoạn văn trên được viết theo phương thức miêu tả là chính.

Câu 2: Nội dung của đoạn trích là: đoạn văn tả về thác nước và đá ở sông Đà ( hay còn gọi là thạch thuỷ trận)

– Từ xa, thác nước biểu thị sức mạnh qua âm thanh dữ dội

– Đến gần, thác nước hiện ra với hình ảnh sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá

Câu 3: Các biện pháp tu từ có trong đoạn văn là:

So sánh : thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo..

Nhân hoá: oán trách , van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.., rống lên , mai phục ,nhổm cả dậy ,ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó …

– Tác dụng của biện pháp tu từ đó là: gợi hình ảnh con sông Đà hùng vĩ, dữ dội. Không còn là con sông bình thường, Sông Đà như có linh hồn, đầy tâm địa, nham hiểm.

Câu 4: Đoạn văn mang đến ngƣời đọc những cảm nhận rất rõ ràng, sinh động, khoáng đạt về sự dữ dội, mãnh liệt của dòng sông hung bạo. Người đọc yêu thích mạo hiểm thì tò mò thích thú khám phá, trải nghiệm những cảm xúc, cảm giác phi thƣờng còn với những ngƣời “yếu vía” thì cảnh tượng hùng vĩ, hiểm trở của dòng sông cũng khiến họ phải rùng mình, khiếp đảm, sợ hãi.

Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu sau:

“Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh núi đồi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. (Trích “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân)

Câu 1: Nêu nội dung chính của đoạn trích trên

Câu 2: Xác định phương thức biểu đạt trong đoạn văn trên

Câu 3: Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn trên và nêu tác dụng của nó.

Câu 4: Liệt kê những hình ảnh tiêu biểu nhất cho quang cảnh sông Đà trong đoạn văn trên.

Đáp án đề đọc hiểu Người lái đò sông Đà số 3

Câu 1: Nội dung chính của đoạn trích: đoạn văn được nhà văn miêu tả khi xuôi thuyền trên sông Đà; cảnh ven sông Đà ở hạ nguồn thơ mộng, lặng tờ, dạt dào sức sống.

Câu 2: Phương thức biểu đạt trong đoạn văn trên là: miêu tả, biểu cảm, tự sự.

Câu 3: Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn trên là:

– So sánh: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.

– Nhân hóa: Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”

Câu 4: Những hình ảnh tiêu biểu nhất cho quang cảnh sông Đà trong đoạn văn trên là:

– nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa

– Bờ sông hoang dại, hồn nhiên.

– Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương

– Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng

– Dòng sông quãng này lững lờ…

Giangdh (Tổng hợp)

Đọc Hiểu Văn Bản: Người Lái Đò Sông Đà (Nguyễn Tuân)

Đọc- hiểu văn bản:

“Người lái đò sông Đà” (Trích tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân)

I. Đọc -hiểu chú thích:

1. Tác giả:

– Nguyễn Tuân (1910- 1987), quê ở Hà Nội, là gương mặt tiêu biểu của nền văn học dân tộc, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.

+ Học hết bậc thành chung (tương đương THCS) → viết văn, làm báo, hoạt động cách mạng.Năm 1945 lấy văn chương phục vụ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Năm 1948 – 1958 là tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam

– Ông có biệt tài về thể kí đặc biệt là tuỳ bút. Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, có tình cảm thiết tha với cuộc đời và truyền thống dân tộc. Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ,… Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…

– Các tác phẩm chính: Vang bóng một thời, Một chuyến đi, Thiều quê hương, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…

* Phong cách nghệ thuật: phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự thay đổi trong những sáng tác ở thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám song có thể thấy những điểm nhất quán sau:

– Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân. Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện:

+ Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ. + Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. + Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng.

– 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm:

– Hoàn cảnh sáng tác: “Người lái đò sông Đà” là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây rộng lớn, xa xôi. Tác phẩm in trong tập “Tuỳ bút sông Đà”, năm 1960.

– Thể loại: bút kí.

– Nội dung: Ca ngợi thiên nhiên Tây Bắc tươi đẹp, ca ngợi hình ảnh người lái đò lão luyện giàu ý chí, một thứ vàng mười của đất nước. Thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng.

– Bố cục: (3 phần)

+ Phần 1 (từ đầu đến “đậm đà nhà đó”): giới thiệu khái quát nhân vật. + Phần 2 (tiếp đó đến “dòng nước sông Đà”): Cuộc sống của con người trên sông Đà và cuộc ác chiến với dòng sông. + Phần 3 (còn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà.

II. Đọc – hiểu văn bản.

1. Hình tượng con sông Đà.

Sông Đà biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc – một dòng chảy vĩ đại giữa núi rừng Tây Bắc. Về địa lí, dòng sông bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua vùng núi cao hiểm trở, tốc độ dòng sông chảy xiết mạnh mẽ.

Tác giả nhân hoá con sông Đà: như một sinh thể có hồn, có hoạt động, có tâm trạng và có hai nét tính cách đối lập.

a. Vẻ đẹp con sông Đà hung bạo, dữ dằn:

– Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu → gây ấn tượng về độ cao hun hút.

– Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… → sự phối hợp giữa sóng và gió tạo nên sức mạnh uy hiếp.

– Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào → Đá sông lập lờ cạm bẫy,dữ dội và khủng khiếp.

– Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau, nước nghe như ai oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,giọng gằn mà chế nhạo…rống lên…lồng lộn …. gầm thét… → so sánh tài hoa nhằm làm nổi bật: thác nước như những bầy thuỷ quái hung hăng, bạo ngược

– Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến. Trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một kẻ thù số một… → sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.

– Tâm địa của sông Đà được miêu tả qua “thạch trận”:

   + Thạch trận : ” Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vỗ lấy thuyền”

   + Thủy trận :”Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng ngang chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn sẵn trận địa.

   + Ba trùng vi giăng bẫy trên con sông:” Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông” , “vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào”, “còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả.

Với vốn từ cực kì phong phú cùng bút pháp lãng mạn tô đậm để gây ấn tượng mãnh liệt, cảm giác rùng rợn, dựng lên một con sông hung bạo đầy đe dọa với con người.

Bàn luận: Với nghệ thuật miêu tả tài hoa, vốn từ cực kì phong phú, ngôn ngữ tạo hình đặc sắc, cấu trúc trùng điệp, giọng văn mạnh mẽ, vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học như địa lí, điện ảnh để làm nên hàng loạt so sánh, liên tưởng kì lạ, bất ngờ, bút pháp lãng mạn tô đậm, Nguyễn Tuân đã tái tạo lại hình tượng con sống Đà hung bạo, dữ dội và đầy hiểm trở trên nhiều dáng vẻ, cảm giác rùng rợn, dựng lên một con sông hung bạo đầy đe dọa với con người. Bên trong sự hung bạo đó, con sông Đà cũng nổi bật lên như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và đất nước.

b. Vẻ đẹp con sông trữ tình, thơ mộng:

Miêu tả con sông ở nhiều góc độ:

– Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều → nét đẹp duyên dáng, mềm mại thơ mộng.

– Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Vào mùa xuân, nước có sắc xanh “nhất định phải là sắc xanh ngọc bích chứ không phải xanh canh hến”Vào mùa thu, nước “lừ đừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” → so sánh về màu sắc, làm cho dòng sông có vẻ đẹp riêng của mỗi mùa.

– Cảm nhận con sông: “Tôi nhìn sông Đà như một cố nhân”; “Vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” → những hình ảnh so sánh gợi tả và gợi cảm. Nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.

– Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử…hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”→ so sánh có sức khêu gợi sâu xa khắc hoạ vẻ đẹp hoang sơ và dấu ấn văn hoá ngàn xưa của cha ông (Nguyễn Tuân cổ kính, đĩnh đạc nghiêm trang và hiện đại là thế).

Bàn luận: Với những so sánh độc đáo gợi tả, gợi cảm, ấn tượng, giọng văn nhẹ nhàng, câu văn trải dài, mềm mại, âm điệu êm đềm. Hình ảnh con sông hiện lên thật trữ tình và thơ mộng. Thành công đó chính là kết quả của những công phu tìm tòi khó nhọc, công sức lao động nghiêm túc, cần cù, kiên nhẫn của nhà văn.

Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới. Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp, kì vĩ, hào hùng, trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên → chất vàng của thiên nhiên. Qua đó bộc lộ tình yêu tha thiết, say đắm của nhà văn đối với quê hương đất nước nói chung và thiên nhiên Tây Bắc nói riêng.

2. Hình tượng người lái đò.

a. Người lái đò sông Đà:

– Ông lái đò Sông Đà làm nghề chở đò dọc trên Sông Đà – nghề vận tải đường nước, ông mang chân dung người lao động sông nước đẹp vạm vỡ khỏe mạnh. Cuộc sống hằng ngày của ông là chiến đầu với con Sông Đà, vật lộn với thiên nhiên để giành giật sự sống, để tồn tại.

– Ông là người tinh thạo trong nghề nghiệp:

+ “Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”. “Thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. “Nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà”.

+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.

+ Ông là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”, …

+ Ông là người trí dũng tuyệt vời, dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm. Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”

+ Ông là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

→ Nổi bật lên hình ảnh ông lái đò từng trải, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp, một con người có trí nhớ cao độ.

b. Cuộc chiến với con sông Đà hung bạo:

+ Không có phép màu, dữ dội và hiểm độc.

→ Một cuộc chiến không cân sức.

– Cuộc chiến chia làm 3 vòng:

* Vòng 1:

Sông Đà:

– Sông Đà bày thạch trận trên sông. Thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Trận đá chia làm ba hàng chặn ngang, phối hợp với đá nước thác reo hò, thách thức vang dậy, bẻ gãy cánh chèo.

– Luồng sóng hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.

– Sóng nước túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra…bóp chặt lấy hạ bọ người lái đò.

Ông đò:

– Ông đò cố nén đau thương (vì thác đã đánh trúng vào chỗ hiểm), hai chân vẫn kẹp chặt lấy guồng lái, điều khiển con thuyền.

– Tỉnh táo chỉ huy không một chút nghỉ tay, nghỉ mắt.

→ Người lái đò như một viên tướng tả xung, hữu đột, bình tĩnh, gan góc và tự tin, chiến đấu và chiến thắng.

* Vòng 2:

Sông đà:

– Dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.

– Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Bọn thuỷ quân …xô ra dịnh níu thuyền xô vào của tử.

Người lái đò:

– Ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này.

– Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.

– “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”.

– Người lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.

→ Với trí tưởng tượng và vốn từ phong phú đặc biệt là kiến thức về quân sự: cách bài binh bố trận, Nguyễn Tuân tạo dựng được đoạn văn mang đầy không khí trận mạc, sinh động.

* Vòng 3:

Sông Đà:

– Thạch trận ít cửa tử hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ.

Người lái dò:

– ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.

– Vút vút cửa ngoài, cửa trong, vừa xuyên nhanh vừa tự động lái → thế là hết.

→ Sử dụng từ ngữ tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, câu văn ngắt ra nhiều để diễn tả các động tác trong cùng một khoảng thời gian của người lái đò → mạo hiểm, dũng cảm, thuần thục, giỏi giang trong nghề leo ghềnh,vượt thác. Đó chính là tài hoa của người nghệ sĩ (Nguyễn Tuân quan niệm: Dù bất cứ nghề nào, con người bộc lộ tài năng, khéo léo, điêu luyện trong nghề nghiệp, người đó là nghệ sĩ).

– Sau cuộc vượt thác, ông trở về với cuộc sống đời thường, sau cuộc chiến “đêm ấy nhà ông đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam..cá túa ra tràn đầy đồng ruộng”. Đó là cuộc sống thường nhật của người lái đò ngày nào cũng chiến đấu với thiên nhiên → Cuộc sống bình dị, khiêm nhường nhưng rất đáng khâm phục.

* Với nghệ thuật miêu tả giàu tính tạo hình, kết hợp nhiều yếu tố điện ảnh, lối kể chuyện hồi hộp giàu kịch tính, có cái nhìn của nhà địa lý chính xác, nhà quân sự tài ba, nhà văn đã làm nổi bật cuộc chiến đầy dữ dội nhưng cuối cùng con người đã chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên → kì tích lao động của con người. Nguyên nhân làm nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn. Đó chính là sự ngoan cường, chí quyết tâm và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước đã giúp con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Đó chính là những yếu tố làm nên chất “vàng mười” của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung. Qua đó nhà văn ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng.

Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà là những người lao động bình thường- chất “vàng mười của Tây Bắc”. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

Người lái đò sông Đà ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động – chất vàng mười của cuộc sống.

2. Nghệ thuật:

– Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả. – Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. – Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp trữ tình rất nên thơ của con sông. – Cách sử dụng từ ngữ độc đáo, đắc địa, tài ba, sử dụng vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực. – Cách sử dụng từ ngữ độc đáo, đắc địa, tài ba, sử dụng vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực.

Văn Bản Người Lái Đò Sông Đà

Trên Đường Bộ, Người Lái Xe ô Tô Có Được Phép Dừng Xe, Đỗ Xe Song Song Với Một Xe Khác, Dàn ý Đường Đi Khó Không Khó Vì Ngăn Sông Cách Núi Mà Khó Vì Lòng Người Ngại Núi E Sông, Người Lái Đò Sông Đà, Bức Thư Gửi Người Còn Sống, Đáp án 5 Người Qua Sông, Tóm Tắt Người Lái Đò Sông Đà, Bài Văn Mẫu Người Lái Đò Sông Đà, Văn Bản Người Lái Đò Sông Đà, Văn Bản Người Lái Đò Sông Đà Lớp 12, Văn Tế Sống Người Con Gái, Văn Bnả Người Lái Đò Sông Đà, Bài Giảng Người Lái Đò Sông Đà, Nội Dung Bài Người Lái Đò Sông Đà, Bộ Quy Tắc Sống Xanh Của Người Hà Nội, Vai Trò Của Triết Học Đối Với Đời Sống Con Người, Lối Sống Tối Giản Của Người Nhật, Tư Tưởng Chính Trị Đạo Đức Lối Cua Con Nguoi Sống, Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà, Cuộc Sống Thanh Cao Của Người, Đề Bài Người Bạn ấy Sống Mãi Trong Lòng Tôi, Chăm Lo Đời Sống Cho Người Lao Động , Người Bạn Sống Mãi Trong Lòng Tôi, Đời Sống Hiệp Hội Từ Góc Nhìn Người Dân, Đời Sống Đạo Của Người Huynh Trưởng, 4 Quan Niệm Sống Của Người ấn Độ, Bí Quyết Sống Khỏe Của Người Nhật, Bài Tham Luận Chăm Lo Đời Sống Người Lao Động, Phân Tích Hình Tượng Người Lái Đò Sông Đà, ổn Định Sản Xuất, Nâng Cao Đời Sống Người Lao Động, Dàn ý Về Cuọc Sống Của Người Dân Tây Bắc Trong Tác Phẩm Cợ Chồng A Phủ, Nghiên Cứu Đào Tạo Song Ngữ Cấp Tiểu Học: Góc Nhìn Người Trong Cuộc, Sách Hướng Dẫn Về Đời Sống Dành Cho Người Nước Ngoài, Đánh Giá Nhận Thức Của Người Dân Về ô Nhiễm Nguồn Nước Sông, Tăng Trưởing Kinh Tế Cai Thiện Cuộc Sống Của Người Nghèo, Dàn Bài Chứng Minh Rằng Bảo Vệ Môi Trường Thiên Nhiên Là Bảo Vệ Cuộc Sống Của Con Người, Trong Thông Tin Vô Tuyến, Người Ta Đã Dùng Các Sóng Điện Từ Có Tần Số Từ Hàng Nghìn … Trở Lên, Chung Minh Rang Bao Ve Moi Truong Thien Nhien La Bao Ve Cuoc Song Cua Con Nguoi, Đời Sống Hàng Ngày Của Người Dân Tây Nguyên, ảnh Hưởng Nhân Sinh Quan Phật Giáo Đến Đời Sống Con Người Việt Nam, Phẩm Vật Trong Lễ Cưới Người Việt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, Tiểu Luận Phân Tích Và Đánh Giá Những ảnh Hưởng Facebook Với Đời Sống Con Người, Luận Văn Tăng Trưong Kinh Tế Có Giúp Cai Thiện Cuộc Sống Của Người Nghèo, Tầm Quan Trọng Của An Toàn Giao Thong Trong Đơi Sống Đoi Voi Con Nguoi Dac Bietj La Lua Tuoi Hoc Sin, Chứng Minh Rằng Bảo Vệ Môi Trường Thiên Nhiên Là Bảo Vệ Cuộc Sống Con Người., Trong Thông Tin Liên Lạc Bằng Sóng Vô Tuyến, Người Ta Sử Dụng Cách Biến Điệu Biên Độ, Khi Nói Về Sóng Điện Từ Phát Biểu Nào Sau Đây Là Sai Sóng Điện Từ Là Sóng Ngang, Khi Xảy Ra Tai Nạn Giao Thông, Có Người Bị Thương Nghiêm Trọng, Người Lái Xe Và Người Có Mặt, Một Máy Thu Thanh Đang Thu Sóng Ngắn. Để Chuyển Sang Thu Sóng Trung, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Chung Tính Chất Nào Dưới Đây?, Mạch Dao Động Lí Tưởng Lc Có Thể Phát Ra Sóng Vô Tuyến Truyền Trong Không Khí Với Bước Sóng, Tia Hồng Ngoại Và Tia Rơnghen Đều Có Bản Chất Là Sóng Điện Từ, Có Bước Sóng Dài Ngắn Khác Nhau Nên, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Cùng Tính Chất, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Cùng Tính Chất Nào, Trắc Nghiệm ôn Tập Dao Động Và Sóng Điện Từ – Sóng ánh Sáng, 2 Phương Trình Đường Thẳng Song Song, Một Sóng Điện Từ Đang Lan Truyền Từ Một Đài Phát Sóng ở Hà Nội Đến Máy Thu, Phương Trình 2 Đường Thẳng Song Song, Quan Niệm Thế Nào Là Cuộc Sống Đáng Sống, Định Nghĩa 2 Đường Thẳng Song Song, Khái Niệm 2 Đường Thẳng Song Song, Đề Xuất Giải Pháp Bảo Vệ Bờ Cửa Sông Ven Biển Cửa Sông Cái Lớn, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Giống Nhau ở Chỗ, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Khác Nhau ở, Định Nghĩa 2 Mặt Phẳng Song Song, Bài Giảng 2 Đường Thẳng Song Song, Tia Rơn-ghen (tia X) Là Sóng Điện Từ Có Bước Sóng, Định Lý 2 Đường Thẳng Song Song, Trắc Nghiệm 2 Mặt Phẳng Song Song, Mẫu Báo Cáo Thực Hành Đo Cường Độ Dòng Điện Và Hiệu Điện Thế Đối Với Đoạn Mạch Song Song, Báo Cáo Thực Hành Đo Hiệu Điện Thế Và Cường Độ Dòng Điện Đối Với Đoạn Mạch Song Song, Định Lý 2 Đường Song Song, Phương Trình Song Song Với Ox, 2 Phương Trình Song Song, Định Lý 2 Mặt Phẳng Song Song, Chọn Câu Sai. Sóng Điện Từ Là Sóng, Chuyên Đề 2 Mặt Phẳng Song Song, Bài Giảng 2 Mặt Phẳng Song Song, Tiểu Thuyết Sóng ở Đáy Sông, Công Thức 2 Bản Mặt Song Song, Công Thức R Song Song, Giải Bài Tập 2 Mặt Phẳng Song Song, Ta ₫ến ₫ể Cho Chiên ₫ược Sống Và Sống Sung Mãn, Bài Tập Chuyên Đề Hai Mặt Phẳng Song Song, Định Lý Từ Vuông Góc Đến Song Song, Khi Nói Về Sóng Điện Từ Phát Biểu Nào Dưới Đây Là Sai Trong Quá Trình Truyền Sóng Điện Từ, Nguyên Tắc Chọn Sóng Của Mạch Chọn Sóng Trong Máy Thu Vô Tuyến Dựa Trên, Khi Nói Về Sóng Điện Từ Phát Biểu Nào Sau Đây Là Sai Sóng Điện Từ Mang Năng Lượng, Thông Tin Nào Sau Đây Là Sai Khi Nói Về Tia X Có Bước Sóng Ngắn Hơn Bước Sóng Của Tia Tử Ngoại, Khi Xảy Ra Tai Nạn Giao Thông, Người Lái Xe Và Người Có Mặt Tại Hiện Trường Vụ Tai Nạn Phải Thực Hiệ, Con Người Và Nhân Tố Con Người Trong Sự Phát Triển Nền Kinh Tế Tri Thức 4.0, Số Người Chết, Số Người Bị Thương, Số Vụ Tai Nạn Từ Năm 2013,2014,2023,2023, Khi Xảy Ra Tai Nạn Giao Thông, Người Lái Xe Và Người Có Mặt Tại Hiện Trường Vụ Tai Nạn Phải Thực Hiệ, Trong Khu Dân Cư, ở Nơi Cho Phép Người Lái Xe, Người Điều Khiển Xe Máy Chuyên Dùng Được Quay, Khi Đang Lên Dốc Người Ngồi Trên Xe Mô Tô Có Được Kéo Theo Người Điều Khiển Xe Đạp Hay Không, Người Điều Khiển Xe Mô Tô 2 Bánh, Xe Gắn Máy Được Phép Chở Tối Đã 2 Người Trong Những Trường Hợp Nào, Định Lý Song Song, Bài Tập 2 Mặt Phẳng Song Song, O To Đâu Đến Đo Hai Chiếc Đau Song Song, Định Lý Dời Lực Song Song, Sống Một Cuộc Sống Dư Dật,

Trên Đường Bộ, Người Lái Xe ô Tô Có Được Phép Dừng Xe, Đỗ Xe Song Song Với Một Xe Khác, Dàn ý Đường Đi Khó Không Khó Vì Ngăn Sông Cách Núi Mà Khó Vì Lòng Người Ngại Núi E Sông, Người Lái Đò Sông Đà, Bức Thư Gửi Người Còn Sống, Đáp án 5 Người Qua Sông, Tóm Tắt Người Lái Đò Sông Đà, Bài Văn Mẫu Người Lái Đò Sông Đà, Văn Bản Người Lái Đò Sông Đà, Văn Bản Người Lái Đò Sông Đà Lớp 12, Văn Tế Sống Người Con Gái, Văn Bnả Người Lái Đò Sông Đà, Bài Giảng Người Lái Đò Sông Đà, Nội Dung Bài Người Lái Đò Sông Đà, Bộ Quy Tắc Sống Xanh Của Người Hà Nội, Vai Trò Của Triết Học Đối Với Đời Sống Con Người, Lối Sống Tối Giản Của Người Nhật, Tư Tưởng Chính Trị Đạo Đức Lối Cua Con Nguoi Sống, Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà, Cuộc Sống Thanh Cao Của Người, Đề Bài Người Bạn ấy Sống Mãi Trong Lòng Tôi, Chăm Lo Đời Sống Cho Người Lao Động , Người Bạn Sống Mãi Trong Lòng Tôi, Đời Sống Hiệp Hội Từ Góc Nhìn Người Dân, Đời Sống Đạo Của Người Huynh Trưởng, 4 Quan Niệm Sống Của Người ấn Độ, Bí Quyết Sống Khỏe Của Người Nhật, Bài Tham Luận Chăm Lo Đời Sống Người Lao Động, Phân Tích Hình Tượng Người Lái Đò Sông Đà, ổn Định Sản Xuất, Nâng Cao Đời Sống Người Lao Động, Dàn ý Về Cuọc Sống Của Người Dân Tây Bắc Trong Tác Phẩm Cợ Chồng A Phủ, Nghiên Cứu Đào Tạo Song Ngữ Cấp Tiểu Học: Góc Nhìn Người Trong Cuộc, Sách Hướng Dẫn Về Đời Sống Dành Cho Người Nước Ngoài, Đánh Giá Nhận Thức Của Người Dân Về ô Nhiễm Nguồn Nước Sông, Tăng Trưởing Kinh Tế Cai Thiện Cuộc Sống Của Người Nghèo, Dàn Bài Chứng Minh Rằng Bảo Vệ Môi Trường Thiên Nhiên Là Bảo Vệ Cuộc Sống Của Con Người, Trong Thông Tin Vô Tuyến, Người Ta Đã Dùng Các Sóng Điện Từ Có Tần Số Từ Hàng Nghìn … Trở Lên, Chung Minh Rang Bao Ve Moi Truong Thien Nhien La Bao Ve Cuoc Song Cua Con Nguoi, Đời Sống Hàng Ngày Của Người Dân Tây Nguyên, ảnh Hưởng Nhân Sinh Quan Phật Giáo Đến Đời Sống Con Người Việt Nam, Phẩm Vật Trong Lễ Cưới Người Việt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, Tiểu Luận Phân Tích Và Đánh Giá Những ảnh Hưởng Facebook Với Đời Sống Con Người, Luận Văn Tăng Trưong Kinh Tế Có Giúp Cai Thiện Cuộc Sống Của Người Nghèo, Tầm Quan Trọng Của An Toàn Giao Thong Trong Đơi Sống Đoi Voi Con Nguoi Dac Bietj La Lua Tuoi Hoc Sin, Chứng Minh Rằng Bảo Vệ Môi Trường Thiên Nhiên Là Bảo Vệ Cuộc Sống Con Người., Trong Thông Tin Liên Lạc Bằng Sóng Vô Tuyến, Người Ta Sử Dụng Cách Biến Điệu Biên Độ, Khi Nói Về Sóng Điện Từ Phát Biểu Nào Sau Đây Là Sai Sóng Điện Từ Là Sóng Ngang, Khi Xảy Ra Tai Nạn Giao Thông, Có Người Bị Thương Nghiêm Trọng, Người Lái Xe Và Người Có Mặt, Một Máy Thu Thanh Đang Thu Sóng Ngắn. Để Chuyển Sang Thu Sóng Trung, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Chung Tính Chất Nào Dưới Đây?, Mạch Dao Động Lí Tưởng Lc Có Thể Phát Ra Sóng Vô Tuyến Truyền Trong Không Khí Với Bước Sóng,

Đọc Toàn Tập Người Lái Đò Sông Đà

I. Hoàn cảnh ra đời người lái đò sông đà Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thơi, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

II.Nguyễn Tuân – ý chính trong người lái đò song đà Câu 4: Anh (chị) hãy trình bày những nét chính trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân?_Gợi ý_– Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Phong cách này có thể gói gọn trong một chữ “ngông”. – Trước Cách mạng, ông quay về tìm kiếm vẻ đẹp của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân tìm thấy sự gắn bó giữa quá khứ với hiện tại và tương lai.– Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông chủ yếu khám phá thiên nhiên và sự vật ở phương diện thẩm mĩ, khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. – Nguyễn Tuân có một kho từ vựng phong phú, có khả năng tổ chức câu văn giàu giá trị tạo hình, có nhịp điệu và biết co duỗi nhịp nhàng.

Câu 5: Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà” (Sông Đà – Nguyễn Tuân), ông lái đò đã phải vượt qua những trùng vi thạch trận nào? Ý nghĩa của cuộc vượt thác?_Gợi ý_– Ông lái đò đã vượt qua ba trùng vi thạch trận: + Năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ ở phía tả ngạn song.+ Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại lệch qua phía bờ hữu ngạn.+ Bên phải bên trái đều là luồng chết, cửa sinh ở giữa con thác.– Ý nghĩa: Ba lần vượt thác của ông lái đò thực sự là ba trận chiến gian nan vất vả và đầy nguy hiểm. Dòng sông càng hung dữ thì càng tôn lên vẻ đẹp của con người lao động. Nguyễn Tuân đã viết lên một khúc tráng ca hào hung về vẻ đẹp của con người trong lao động.

Câu 6: Nêu vắn tắt hai vẻ đẹp của người lái đò trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân. Nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò._Gợi ý_– Ông là người trí dũng tuyệt vời. Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, với những “trùng vi thạch trận” và những phòng tuyến đầy nguy hiểm. Người lái đò đã vượt qua chúng bằng những động tác táo bạo chuẩn xác.– Ông lái đò là người tài hoa nghệ sĩ. Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ, nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn. Sau khi đọ trí, thi tài với con sông thủy quái, ông lại ung dung đốt lửa nướng cơm lam, say sưa nói về các loài cá mà không hề bận tâm đến chuyện vượt thác.– Nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò: sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sông nước.

Câu 7: Anh / chị hãy cho biết câu thơ của Nguyễn Quang Bích mà Nguyễn Tuân dẫn ra làm đề từ cho bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” ? Dịch nghĩa câu thơ đó ?_Gợi ý_– Câu thơ của Nguyễn Quang Bích:” Chúng thủy giai đông tẩuĐà giang độc bắc lưu”– Dịch nghĩa: Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông – chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc.

Câu 8: Tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân có mấy nhân vật ? Tại sao gọi con sông Đà là một nhân vật ?_Gợi ý_– Tùy bút “Người lái đò sông Đà” có 2 nhân vật: ông lái đò và con sông Đà.– Gọi con sông Đà là một nhân vật vì con sông dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là một sinh thể có hoạt động, có cá tính, có tâm hồn, trạng thái khá phức tạp. Theo Nguyễn Tuân sông Đà có 2 tính cách: hung bạo và trữ tình.

Câu 9: Phóng túng và bay bổng là một nét riêng trong cách viết của Nguyễn Tuân. Anh/ chị hãy trích dẫn một câu văn trong bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” nói lên nét đẹp trữ tình của con sông?_Gợi ý_Trong bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” có nhiều câu văn rất phóng túng và bay bổng, như để miêu tả nét đẹp trữ tình của con sông. Nguyễn Tuân viết: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Câu 10: Nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân? Qua hình ảnh ông lái đò nhà văn muốn phát biểu quan niệm gì?_Gợi ý_– Nguyên nhân chiến thắng: Sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sông nước.– Quan niệm: Người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động hàng ngày.

Câu 11: Qua việc tìm hiểu về tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, Anh/ chị hãy nêu ý nghĩa văn bản?_Gợi ý_Ý nghĩa: Nguyễn Tuân giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người Việt Nam. III. Đề : Phân tích tác phẩm người lái đò song đà Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc. Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) Trong những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò sông Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…

Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Miêu tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”… Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…

Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là “cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũngthế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.

Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải qui hàng. “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon. “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao xuống “đáy hút sông Đà” để quay phim… Tất cả những gì nhà văn viết ra, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều như được dựng lại trước người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta như đang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.

Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc chiến đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quan cảnh một cuộc hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.

Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La,Hát Loóng… Tất cả, tất cả chứng tỏ sự hiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về sông Đà…

Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.

Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.

Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…Đề : Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà (1) Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình. Chẳng phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ dùng một chữ vàng. Để rồi sau đó, ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả “Người lái đò sông Đà”, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả. Với ” Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân đã dựng hình ảnh một sông Đà mà ông đã từng muốn” trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người. Người lái đò sông Đà kia sẽ là ai nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một ông ngư, ông chài, ông lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại cái hùng vĩ của sóng, của thác, của sông nước Đà Giang đã làm sáng chói lên hình ảnh con người đẹp nhất, kiêu hùng nhất, người lái đò trên sông Đà người anh hùng người nghệ sĩ chế ngự thiên nhiên hùng mạnh.Người lái đò Sông Đà trước hết là một ông già bảy mươi tuổi đã giành một phần lớn cuộc đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: ” Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn 100 lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần” trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò và đã đạt đến trình độ ” Bằng cách lấy mắt và nhớ tỷ mỉ như đóng đinh vào tất cả những luông nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này ” sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.

Thoạt nhìn, đó là một cuộc đấu không cân sức. Bởi đó là trận đấu mà ở bên này là một thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh, có sông nước hò réo quyết vật ngửa mình thuyền, có thạch trận vời đủ ba lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham hiểm; còn bên kia là con người bé nhỏ, không hề có phép màu, vũ khí trên tay chỉ là chiếc cán chèo – những chiếc que thật mỏng manh trước nguy nga sóng thác – trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi. Người xưa vẫn coi ” Cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lý tưởng sống anh hùng. Ông lái đò này dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu, ông đâu có đôi cánh tay Hec Quyn để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông đã ” Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, cái kinh nghiệm đò giang sông nước lên thác xuống ghềnh và cái trí tuệ ấy đã khiến cho ông lái dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác) vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác Sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Cuộc chiến đấu của người lái đò có thể chia thành 3 chặng vượt vòng vây của thác nước, đá sông.

Ở trùng vi thứ nhất: Vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo vô khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo lệch đi. Con thuyền bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò thực là một chiễn sĩ dũng cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.

Ở trùng vi thứ hai: Kẻ địch thay chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử .Cửa sinh bố trí