Đọc Văn Bản Dài / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Chuyển Giọng Nói Thành Văn Bản , Chính Xác, Thông Minh, Văn Bản Dài

Theo tỉ giá thị trường, thì cửa hàng photocoppy sao chép một văn bản vào word sẽ tốn chi phí khoảng 10.000đ/mặt A4 . Vậy cuốn sách khoảng 50 tờ thì bạn tốn tiền triệu cho việc này . Vậy có cách nào khả thi hơn để giải quyết vấn đề này. Tôi là Ngọc, đến từ chúng tôi sẽ chia sẻ một số kinh nghiệm từ bản thân cho chuyển giọng nói thành văn bản

Để nhập liệu được ngon, vì sử dụng dữ liệu thời gian thực thì bạn có thể tham khảo và sử dụng internet FPT , vì đang có chương trình giảm giá cực kỳ lớn trong năm . Đặc biệt là chương trình khuyến mại áp dụng tại Internet FPT Hà Nội .

Chuyển giọng nói thành văn bản khi bạn cần thực hiện trong trường hợp nào ?

Chia sẻ kinh nghiệm chuyển giọng nói thành văn bản

Trường hợp cần sao lưu lại một cuốn sách mà kiếm không ra file mềm

Sử dụng để viết bài (thay vì phải đánh máy )

….

: Ta dùng ứng dụng mail ( như gmail làm nơi soạn thảo ) . Sau đó dùng chức năng chuyển đổi giọng nói thành văn bản . Sau khi hoàn thành gửi mail đó sang máy tính . . Sử dụng Notepad ++ để tạo xuống dòng và dấu chấm ( thực hiện lệnh hàng loạt ) . Chỉnh sửa cuối những chỗ sai để hoàn thiện văn bản

Cách làm có thể thực hiện trên cả IPhone và Android như sau :

Quan trọng : Qua thực tế sử dụng mình có nhận xét riêng là như sau :

Iphone 6s ( sử dụng IOS 12 ) : Khá thông minh, đọc xuống dòng là biết xuống dòng chứ không phải ghi chữ xuống dòng như bên Android , nhưng nhận diện chữ còn rất tệ

Android ( Samsung J7 Prime sử dụng Android 7.0 ) : Thông minh bình thường nhưng nhận diện chữ viết thì bá đọc, cũng có sai nhưng chủ yếu do mình phát âm không chuẩn hoặc từ khó thôi, còn lại nhận điện cực kỳ ngon ( xem Demo sẽ thấy ) . Nhưng đổi lại thì đọc . thì ghi CHẤM, đọc xuống dòng thì ghi chữ xuống dòng .

Cuối cùng mình quyết định sử dụng Andoird , vì quan trọng nhất là nhận diện chữ phải thật sự chuẩn

: Tạm thời chúng ta sẽ có là dùng điện thoại Android , bật ứng dụng mail ( hoặc ghi chú nào bạn thích ) sau đó nhập liệu bằng giọng nói . Và nhập xong thì gửi mail đó luôn sang một mail khác , tiêu đề thì ghi rõ đây là mục nào, bài nào hoặc ghi chú mà bạn có thể hiểu được và ghép lại sau này

Xử lý và hoàn thiện một văn bản dài

Như đã nói ở trên, thì chúng ta sẽ chọn điện thoại Android làm thiết bị , vậy cần giải quyết vấn đề tiếp theo đó chính là xử lý các vấn đề :

Không hiểu được xuống dòng là như thế nào

Không hiểu được dấu chấm là thế nào

Cách làm : Ta gom lại những từ lặp lại nhiều lần, khi đọc dấu chấm đọc là chấm, dấu phẩy đọc là phẩy .

Trường hợp đen mà dính vào câu như “rau muống chấm nước mắm” thì ta bắt buộc phải chuyển toàn bộ chấm câu thành một dạng khác như chẻm ( đọc lái từ chấm đi ) .

Phần mềm hỗ trợ tiếp

Sau khi được đoạn văn liền mạch, không chấm không phẩy, Ta coppy đoạn văn đó từ email sang tạo một văn bản Word và bắt đầu chỉnh sửa .

Cần : Chuyển toàn bộ từ ” chấm” thành “.” , từ “phẩy” thành “,”…..

Khung Find and Replace hiện ra thì điền như sau

Find What ( từ cần thay thế ) : chấm

Replace With ( thay thế bằng từ gì ) : .

Sau đó chọn Replace All

Tiếp tục thực hiện với các từ khác , ta được một văn bản cơ bản với tốc độ cực kỳ nhanh. Về cơ bản thì mọi thứ cũng tạm chấp nhận, nhưng vấn đề xuống dòng là mình chưa tìm ra cách, thì khi sử dụng chức năng replace thì mục replace With không biết điền gì nữa.

Về cơ bản, nếu làm nghiêm túc thì trong khoảng 10 phút là bạn có thể làm việc được một văn bản A4 và quan trọng hơn đỡ stress , vì đánh máy tính sẽ Stress và nhàm chán hơn khá nhiều !

Tiếng Việt Lớp 5 Tập Đọc: Tà Áo Dài Việt Nam

Soạn bài: Tập đọc: Tà áo dài Việt Nam Nội dung chính

Bài đọc nói về lịch sử ra đời của chiếc áo dài. Phụ nữ Việt Nam từ xưa đã ý tứ, dịu dàng, kín đáo khi mặc áo dài bên ngoài những chiếc áo mớ ba mớ bảy. Dần dần, áo dài cách tân thành áo tứ thân, rồi thành áo dài tân thời bây giờ. Chiếc áo dài tôn lên vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam cả về ngoại hình lẫn tâm hồn.

Câu 1 (trang 123 sgk Tiếng Việt 5): Chiếc áo dài có vai trò thế nào trong trang phục của phụ nữ Việt Nam xưa ?

Trả lời:

Trong trang phục của phụ nữ Việt Nam, chiếc áo dài đóng vai trò quan trọng, thân thuộc. Phụ nữ Việt Nam xưa nay mặc áo dài thẫm màu phủ ra bên ngoài, những lớp áo cánh nhiều màu bên trong. Trang phục nhự vậy, chiếc áo dài làm cho phụ nữ ta thêm dịu dàng, kín đáo.

Câu 2 (trang 123 sgk Tiếng Việt 5): Chiếc áo dài tân thời có gì khác so với chiếc áo dài cổ truyền ?

Trả lời:

Chiếc áo dài tân thời vừa giữ được phong cách dịu hiền, kín đáo cùa áo dài cổ truyền vừa mang phong cách hiện đại phương Tây.

Áo dài cổ truyền có hai loại: áo tứ thân và áo năm màu. Áo tứ thân là loại áo được may từ bốn mảnh vải, hai mành sau ghép liền giữa sống lưng, đằng trước là hai vạt áo, không có khuy, khi mặc bỏ buông hoặc buộc thắt vào nhau. Áo năm thân cũng giống như áo tứ thân nhưng vạt trước bên trái may ghép từ hai thân vải, nên rộng gấp đôi vạt vải.

Chiếc áo dài tân thời là chiếc áo dài cô truyền được cải tiến chỉ gồm hai thân vải phía trước và phía sau.

Câu 3 (trang 123 sgk Tiếng Việt 5): Vì sao áo dài được coi là biểu tượng cho y phục truyền thống của Việt Nam ?

Trả lời:

Áo dài được coi là biểu tượng cho y phục truyền thống của Việt Nam vì nó thể hiện được phong cách tế nhị, kín đáo của người phụ nữ Việt Nam.

Câu 4 (trang 123 sgk Tiếng Việt 5): Em có cảm nhận gì về vẻ đẹp của người phụ nữ trong tà áo dài ?

Trả lời:

Em cảm thấy khi mặc áo dài người phụ nữ như đẹp ra, tự nhiên, mềm mại và thanh thoát hơn.

Nội dung: Sự hình thành chiếc áo dài tân thời từ chiếc áo dài cổ truyền, vẻ đẹp kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách dân tộc tế nhị, kín đáo với phong cách hiện đại phương Tây của tà áo dài Việt Nam, vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong tà áo dài.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Bài Đọc Hiểu Văn Bản Văn Học

b. Ý nghĩa đoạn trích sau là gì? “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn Đánh một trận sạch không kinh ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông Nổi gió to trút sạch lá khô Thông tổ kiến phá toang đê vỡ”

c. Hiểu thế nào là “Ý toại ngôn ngoại” d. Hai câu thơ trên mang ý nghĩa: + Thể hiện khát vọng lớn lao của thân nam nhi trong trời đất, đó là dâng hiến tài năng, sức mạnh để bảo vệ, phát triển quê hương, đất nước. + Thể hiện sự tự ý thức của tác giả Phạm Ngũ Lão đối với món nợ công danh, công danh với núi non chưa trả hết thì hổ thẹn khi nghe người ta nói chuyện Vũ Hầu.

– Có cách hiểu như vậy bởi những nguyên nhân sau: + Trong xã hội phong kiến xưa, những bậc nam nhi luôn coi việc cống hiến tài năng, sức mạnh cho đất nước là một trách nhiệm không thể thiếu ở một nam nhân, đó là món nợ tang bồng, nợ công danh. +Vũ Hầu là một tấm gương của con người hiền tài, với những đóng góp lớn lao, quý báu cho đất nước. Vì vậy nói đến chuyện Vũ Hầu chính là sự tự ý thức về trách nhiệm của bản thân tác giả.

2. Luyện tập cảm nhận hình tượng văn học a. Trong truyện Chử Đồng Tử có những tình tiết nào hay và độc đáo? b. Dựa vào những tình tiết tiêu biểu, hãy mô tả lại hình tượng người ở ẩn trong bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm c. Trong truyện Chử Đồng Tử có những tình tiết hay và độc đáo như: + Gia cảnh nghèo khó: hai cha con mặc chung nhau một chiếc khố. + Cuộc gặp gỡ bất ngờ của Chử Đồng Tử và Tiên Dung + Chử Đồng Tử chung sống cùng tiên + Chử Đồng Tử được Phật cho một cây gậy và chiếc nón có phép lạ.

d. Bài thơ Nhàn đã khắc họa rõ bức chân dung của người nho sĩ ẩn dật, đó là một con người lánh xa cuộc đời, về ở ẩn nơi rừng núi, sống vui vẻ với những thú vui tao nhàn: câu cá, cuốc đất trồng cây…lánh xa nơi thị phi bát nháo, tìm về nơi vắng vẻ nuôi dưỡng tâm hồn thanh cao của người ẩn sĩ, sinh hoạt gắn liền với tự nhiên, coi những phú quý, hòa hoa danh vọng tựa như một giấc chiêm bao.

3. Luyện tập khái quát tư tưởng, quan điểm của tác phẩm và đoạn trích a. Phát biểu khái quát tư tưởng của bài Tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương. b. Động cơ nào khiến tác giả không ngại “vụng về” soạn ra Trích diễm thi tập. a. Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương thể hiện được sự coi trong những giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc thông qua việc biên soạn, lưu giữ các tác phẩm thơ văn b. Động cơ để Hoàng Đức Lương soạn ra Trích diễm thi tập: + Đó chính là sự xót xa trước thực trạng thơ văn hay trong dân gian bị thất truyền, giá trị văn hóa của dân tộc bị mai một, mất mát. + Do ý thức của nhà văn trong việc lưu giữ các giá trị tinh hoa của văn hóa, của dân tộc. + Để cho con cháu đời sau có cơ hội tiếp thu những tác phẩm có giá trị ấy, nhắc nhở ý thức lưu truyền.

Đọc Hiểu Văn Bản “Bếp Lửa”

Nhà thơ Bằng Việt (tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng), sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

“Bằng Việt là một nhà thơ được bạn đọc biết đến từ phần thơ in chung với Lưu Quang Vũ trong tập Hương cây – Bếp lửa (1968). Nỗi nhớ quê hương đầu tiên thành thơ là dành cho bếp lửa:”Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, một bếp lửa ấp iu nồng đượm” gắn với hình ảnh người bà và bên người bà là người cháu. Bài thơ nói về tình bà cháu vừa sâu sắc, vừa thấm thía trong những năm đầu đất nước đói kém, loạn lạc, cuối đời gian khổ khó khăn. Cảm xúc tinh tế, đượm buồn của ông về những kỷ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt nam. Bài thơ biều hiện một triết luận thầm kín: những gì là thân thiết nhất của mỗi tuổi thơ mỗi con người, đều có sức toả sáng, nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời. Mạch triết luận thầm kín được khởi đầu từ Bếp lửa còn được tiếp nối trong nhiều bài thơ khác như Trở lại trái tim mình khi ông coi thủ đô Hà Nội như một cội nguồn tình cảm, cội nguồn sức mạnh. Cùng với Thư gửi người bạn xa đất nước, Tình yêu và báo động, Trở lại trái tim, nhà thơ ghi lại được những trạng thái phong phú của một tâm hồn thanh niên rất mực mến yêu đất nước, con người, nêu bật được một thủ đô hào hoa, thanh lịch, trầm tĩnh và anh hùng. Bằng Việt còn có những bài thơ khá tài hoa diễn đạt những suy tư về những danh nhân văn hoá nhân loại như Béttôven, Pauxtôpxki, Plixetxcaia. Người đọc còn biết đến ông về những lo toan chu đáo, những bồi hồi thương nhớ của một người cha ở nơi xa chăm chú theo dõi từng bước đi chập chững của đứa con, trong bài thơ Về Nghệ An thăm con với lời thơ điềm đạm, kiệm lời mà có sức vang xa. Có thể nói với 20 bài thơ trong tập Hương cây – Bếp lửa, Bằng Việt đã khắc hoạ được một triết luận thầm kín của riêng mình. Ông là một trong số không nhiều nhà thơ trẻ được bạn đọc tin yêu ngay từ ban đầu của thơ. Thơ Bằng Việt thường nghiêng về một lời tâm sự, một sự trao đổi nghĩ suy, gây được một cảm giác gần gũi, thân thiết đối với người đọc. Thơ ông thường sâu lắng trầm tư thích hợp với người đọc thơ trong sự trầm tĩnh, vắng lặng. Đó là một dấu ấn riêng của thơ Bằng Việt, còn lưu lại trong ký ức người đọc” (Từ điển văn học, Sđd).

2. Tác phẩm:

– Các tác phẩm chính: Hương cây – Bếp lửa (thơ, in chung, 1968); Những gương mặt những khoảng trời (thơ, 1973); Đất sau mưa (thơ, 1977); Khoảng cách giữa lời (thơ, 1983); Cát sáng (thơ, 1986); Bếp lửa – khoảng trời (thơ tuyển, 1988), Phía nửa mặt trăng chìm (thơ, 1986); Mozart (truyện danh nhân, 1978); Lọ lem (dịch thơ Eptusenkô); Hãy nói bằng ngôn ngữ của tình yêu (dịch thơ Ritsos).

– Tác giả đã được nhận: Giải nhất văn học – nghệ thuật Hà Nội năm 1967 với bài thơ Trở lại trái tim mình; Giải thưởng chính thức về dịch thuật văn học quốc tế và phát triển giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa Bình (Liên Xô) trao tặng năm 1982.

– Bài thơ Bếp lửa được tác giả Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên đang học ở nước ngoài. Bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của người cháu về người bà và tuổi ấu thơ được ở cùng bà.

II – GIÁ TRỊ TÁC PHẨM

Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm,… mà có biết bao nghĩa tình, mà sao tha thiết, lắng sâu đến thế! Thì ra, có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, là hiện hình của những tình cảm thiết tha, chân thành, không thể nào quên. Tiếng gà trưa đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về một thời ấu thơ sống trong tình thương yêu của bà. Còn với Bằng Việt, trong bài thơ Bếp lửa (1963), như chính nhan đề của nó (cũng như nhan đề của bài thơ của Xuân Quỳnh: Tiếng gà trưa), “Bếp lửa” đã trở thành một hình ảnh biểu trưng cho sự ấm áp, nồng đượm của tình bà cháu. “Bếp lửa” khơi gợi, làm nhen lên, lan toả, cháy mãi dòng hồi ức tuổi ấu thơ, thao thức, đượm buồn.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Bài thơ đã bắt đầu như thế. Bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa “chập chờn trong sương sớm, chập chờn trong kí ức. Hơi ấm của bếp lửa bắt đầu truyền thấm, bắt đầu nhen nhóm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc thương yêu của cháu khi nhớ về bà. Hình ảnh “Một bếp lửa” điệp lại hai lần như nhắc nhớ, như hơi thổi vào bếp lửa đang “ấp iu”, để nhịp hồi tưởng bắt đầu… Để trong những dòng thơ tiếp theo, bao kỉ niệm thân thương ùa về:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói (…) Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Cháu nhớ, từ lúc cháu mới lên bốn tuổi, sống bên bà “tám năm ròng”… Nhớ quê mình ngày ấy, những ngày “đói mòn đói mỏi”, những ngày “bố đánh xe khô rạc ngựa gầy”, nhớ “khói hun nhèm mắt”, “sống mũi còn cay” đến tận bây giờ… Nhớ bà kể chuyện Huế trong tha thiết tiếng tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu từ cánh đồng xa, da diết, khắc khoải vọng về, nghe chộn rộn, nao nao, lại như se sắt, xa xăm. Nhớ khi vắng bố mẹ, “bà bảo cháu nghe”, “dạy cháu làm”, “chăm cháu học”. Nhớ “Năm giặc đốt làng”, cháu giúp bà dựng lại nhà. Nhớ lời bà dặn khi viết thư để bố yên tâm,… Cứ thế, trong dòng hồi nhớ nôn nao, những sự việc cụ thể hiện về nguyên vẹn từng chi tiết như thể vừa mới xảy ra hôm qua đây thôi. Và thấm đẫm trong từng hình ảnh, từng sự việc ấy là tình cảm sâu nặng của cháu với bà, hướng về bà. Hình ảnh người bà được khắc hoạ gắn liền với bếp lửa, là khi “cháu cùng bà nhóm lửa”, “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”, “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen”, “Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm – Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”,…

Hình ảnh bếp lửa trở đi trở lại (12 lần) trong suốt bài thơ. Cuộc đời bà lận đận, khó nhọc, giãi dầu mưa nắng nhưng bà luôn dành cho cháu tình thương yêu, săn sóc, chở che ấm nồng như bếp lửa. Bà – bếp lửa là hai mà như một, hoà quyện, hun thấm, thiêng liêng. Bếp lửa gợi nhắc hình bóng thân thiết của bà, và nhớ đến bà là cháu lại không thể quên bếp lửa ấm tình thủa ấy. Bếp lửa đã không còn chỉ là bếp lửa thông thường nữa. Bà nhen lửa là bà nhen lên:

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng Bà nhóm lửa là bà: Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Từ ngọn lửa được nhen lên từ bếp lửa của bà hoá thành ngọn lửa của tình thương yêu ấp ủ, ngọn lửa của niềm tin yêu bền bỉ cháy mãi không thôi. Bà nhóm lửa là bà nhóm lên, truyền cho cháu lẽ sống, lòng cảm thông chia sẻ. Mỗi khi xúc cảm kết thành những suy ngẫm sâu xa, lời thơ lại trào dâng lên như những điệp khúc bập bùng, chứa đựng niềm xúc động rưng rưng, rần rật cháy trong mạch tự sự của nhân vật trữ tình. Những hình ảnh thực, cụ thể, vốn rất đỗi gần gũi, thân quen đã được tác giả nâng lên thành những hình ảnh biểu tượng mang ý nghĩa khái quát sâu sắc. Điều bình dị đã trở nên quý giá, thiêng liêng, kì lạ. Kì lạ, thiêng liêng vì nó nhỏ bé, giản đơn mà đã trở thành hành trang theo cháu trong suốt cuộc đời. Kì lạ, thiêng liêng là vì “đã mấy chục năm rồi” mà bếp lửa của bà vẫn nồng đượm trong cháu, ngọn lửa của bà vẫn thầm cháy trong cháu “đến tận bây giờ”.

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…

Bài thơ Bếp lửa được sáng tác khi Bằng Việt đang là sinh viên ngành Luật của Trường Đại học Tổng hợp Ki-ép (Liên Xô cũ). Kì lạ và thiêng liêng biết bao khi trong cuộc sống đã ” Có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” mà lòng vẫn khôn nguôi hình ảnh người bà với bếp lửa ở tận miền kí ức ấu thơ.

Cứ nhẹ nhàng, mộc mạc mà thấm thía, sâu xa, bếp lửa của bà, ngọn lửa của bà, tình thương yêu của bà, cuộc đời bà đã soi rọi, toả ấm con đư¬ng cháu đi. Có thể cuộc sống hiện đại sẽ không còn nhiều người biết đến bếp lửa như ở nơi quê nghèo ấy nữa, nhưng nó đã thành biểu tượng, sẽ còn mãi giá trị “khơi gợi cho người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam”(1). Điều nhỏ nhoi, giản dị mà có ý nghĩa sâu sắc, lớn lao là như vậy.

(Sưu tầm)