Giải Thích Văn Bản Sống Chết Mặc Bay / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Tìm Hiểu Văn Bản: Sống Chết Mặc Bay

– Là một trong những nhà văn đầu tiên đạt thành tựu về thể loại truyện ngắn hiện đại

* Truyện ngắn hiện đại: thể loại văn xuôi, viết bằng chữ quốc ngữ, sáng tấc từ thế kỉ thứ XX. Cốt truyện khá phong phú, sử dụng nghệ thuật đa dạng. Nội dung chủ yếu:phản ảnh hiện thực, qua đó thể hiện tư tưởng, quan điểm của nhà văn.

– Truyện ngắn được đăng trên tạp chí Nam Phong, số tháng 12/1918

– Truyện lấy bối cảnh vùng nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XX: đêm khuya, một khúc sông Nhị Hà sắp vỡ.

– Văn bản có thể chia thành ba phần:

+ Từ đầu đến “Khúc đê này hỏng mất”: Nguy cơ đê vỡ và sự chống cự tuyệt vọng của dân phu.

+ Tiếp theo đến “Điếu, mày!”: Cảnh quan phủ cùng nha lại hộ đê ở trong đình.

+ Còn lại: Cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.

– Nhan đề ngắn gọn, đặc sắc bắt nguồn từ câu tục ngữ: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.

Hai hình ảnh nổi bật được thể hiện trong văn bản là: dân phu ngoài đê và quan ở trong đình. Bằng cách sử dụng biện pháp đối lập – tương phản và tăng cấp, tác giả đã khắc họa rõ nét hai hình ảnh này. Từ đó thể hiện được toàn bộ nội dung, tư tưởng của tác phẩm.

1. Sự tương phản giữa sức người, sức nước và hình ảnh dân phu

– Thời điểm: Gần một giờ đêm. Địa điểm: tại một khúc đê sắp vỡ, trời mưa tầm tã à Làm tăng thêm khó khăn, vất vả; nhấn mạnh sự nguy cấp.

– Tác giả sử dụng hàng loạt các câu cảm thán: Sự lo lắng, xót xa của tác giả cũng chính là nỗi lòng của những người dân.

2. Sự tương phản giữa cảnh trong đình – ngoài đê và hình ảnh quan phủ

– Cách giới thiệu: thế – thưa rằng à câu chuyện vừa được dẫn dắt một cách tự nhiên, vừa mang tính chất trào phúng, thể hiện thái độ của tác giả.

+ Địa điểm: đình cao, rất vững chãi, đê vỡ cũng không việc gì – khác biệt hoàn toàn với địa điểm lầy lội của những người dân phu.

+ Quan phụ mẫu có dáng ngồi oại vệ, đường bệ; cử chỉ, cách nói năng hách dịch, độc đoán của quan với đám nha lại và tay sai.

+ Cảnh đánh tổ tôm lúc mau, lúc khoan, ung dung, êm ái, khi cười, khi nói, vui vẻ, dịu dàng.

– Thái độ trước việc đê vỡ:

+ Bọn nha lại, thầy đề: lo sợ nhưng không dám làm trái lệnh quan à vẫn còn có lương tâm, trách nhiệm nhưng lại hèn nhát, không dám làm trái ý quan.

+ Quan phủ: chỉ quan tâm đến ván bài; đổ trách nhiệm cho cấp dưới, cho dân

– Giá trị hiện thực: Phản ánh sự đối lập gay gắt và hoàn toàn giữa cuộc sống của nhân dân với cuộc sống của bọn quan lại tiêu biểu là tên quan phủ.

– Giá trị nhân đạo: Truyện thể hiện sự thương cảm, xót xa của tác giả trước cảnh nhân dân hộ đê và cảnh nhân dân điêu linh; sự căm thù sâu sắc bọn quan lại sâu mọt.

– Kết hợp đối lập, tương phản và tăng cấp

– Sử dụng ngôn ngữ sinh động

Đọc Hiểu Văn Bản: Sống Chết Mặc Bay

ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

Phạm Duy Tốn là một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu, nó được coi như một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán sau này. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn xa hoa của lũ quan lại. Viết sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã manh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng : “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá ; khúc đê làng X. thuộc phủ X. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng “con dân” cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả : “kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre”, “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” đối lập với cảnh quan huyện – “kẻ cha mẹ của dân” – có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê đang chễm chệ trong đình “cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì”. Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”. Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với “con dân” đang “trăm lo ngàn sợ”, quan phụ mẫu “uy nghi chễm chện ngồi” như không hề hay biết đến tinh trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác.

Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng 120 lá bài. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch, chỉ đồi khi nghe tiếng quan gọi : “Điếu, mày”, tiếng “Dạ”, tiếng “Bốc”, “Bát sách ! Ăn”, “Thất văn… Phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. “Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp”, hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai : “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày”. Đoạn, lại bình thản quay mặt hổi thầy đề : “Thầy bốc quân gì thế ?”. Ván bài “ù to”. Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…

Với việc sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện gay gắt ; với giọng văn khi thiết tha xúc động, khi cay độc mỉa mai,… Phạm Duy Tốn đã trực tiếp bày tỏ thái độ cảm thông sâu sắc của mình trước thảm cảnh của dân chúng và lòng căm uất phẫn nộ bọn quan lại phong kiến.

VĂN BẢN ĐỌC THÊM

TẮT ĐÈN (Trích)

Bóng cây ngả đến gần tường bao lan.

Mặt trời chênh chếch nhòm vào gốc đa, gốc gạo.

Những con trâu, bò bị bắt và bị kí giam chỏng gọng nằm dưới nắng, uể oải nhai những rễ khoai hoặc cỏ héo của chủ ban cho.

Một lũ đàn bà chờ đợi nộp thuế, lê la ngồi khắp thềm đình.

Đàn chó chui trong gậm đình, chực cướp xương rơi, con nọ cắn con kia ý ẳng.

Trên đình ăn uống đã tàn.

Chánh tổng ngậm tăm nằm cạnh bàn đèn, hai mắt lim dim dở ngủ.

Cai lệ ngồi nhổm hai chân cạo lọ, cặp môi thâm sịt nhành ra gần tới mang tai.

Cậu lính cơ lây hết gân guốc trên bộ mặt đỏ gay, ra sức nghiền cục xái trong cái chén mẻ.

Mấy ông hương trưởng, tộc biểu, trương tuần xúm quanh cái điếu đàn và chiếc ấm tay, kẻ hút thuốc, người phùng miệng thổi bát nước nóng.

Lí trưởng tựa lưng bên bức câu lơn, thù tiếp chánh hội, phó hội bằng mâm cỗ chỉ còn rau chuối và lá tía tô.

Thư kí, chưởng bạ lễ phép chìa đũa mời nhau gắp mấy miếng thịt mỡ khô cong các cạnh.

Lí cu, phó lí, thủ quỹ châu đầu trên lớp bát đĩa đầy nhặng xanh, gật gù nhấc chén lên lại đặt chén xuống.

Người nhà chánh tổng, người nhà lí trưởng, mấy anh tuần phu canh ngày, ken vai vây lấy rá cơm “đi hơi” và chậu nước xuýt ruồi chết nổi lều bều, soàn soạt vừa húp và vừa nuốt.

Mỗi người mỗi miệng, ai nói nấy nghe. Sự ầm ầm càng giúp sức cho sự nóng nực.

Chị Dậu về đến cổng đình, vừa thây tiếng ông lí cựu quát vang trong đình :

– Thằng Mới đâu ? Vào ti lấy thêm mấy chai rượu nữa ra đây ! Chúng tao còn uống ! Ai thôi mặc ai.

Tiếp đến tiếng ông chánh hội:

– Hãy gượm ! Rượu còn đấy, các ông cứ uống cho hết. Để nó đi mua vài đồng thuốc phiện nữa đã. Cụ chánh đợi đã lâu rồi.

Rồi đến tiếng ông hương trưởng :

– Thong thả hãy mua thuốc phiện cũng được ! Miệng tao còn chưa rửa đây. Ra giếng múc tao chậu nước !

Rồi đến tiếng ông thủ quỹ :

– Rồi hãy múc nước ! Mày đi rót một ít nước mắm vào đây cái đã !

Rồi đến lượt ông lí cựu vắt lại :

– Các ông đừng bỉ mặt nhau ! Tôi đương bảo nó đi lấy thêm rượu, các ông lại nỡ vỗ vào mặt tôi, người này sai nó việc này, người kia sai nó việc khác… Khinh nhau vừa vừa chứ !

Bạo dạn, chị Dậu bước lên cửa đình, hạ cái mê nón ở trên đầu xuống.

– Chào các cụ, chào các ông.

cả đình đổ xô trông ra. Người nhà lí trưởng tráo ngược đôi đũa chỉ vào mặt chị :

– Sưu của anh ấy đủ chưa ? Đem mà nộp đi !

Cai lệ vừa cạo hết xái trong lọ, ngẩng đầu trông lên.

– À ! Con vợ thằng gì ở xóm cuối làng phải không ? Chị ta cứng cổ lắm, lí sư lắm. Sáng nay nếu không vội đi bắt đứa khác thì tôi biếu thêm cho chị ấy vài chục quả phật thủ nữa.

Phó lí chõ vào :

– Nó là vợ thằng đĩ Dậu chứ thằng gì ? Sao ông không giã thêm cho nó một mẻ ? Ông lí tôi mời ông về đây, chỉ cần có thế.

Lí trưởng rung đùi ra bộ đắc ý :

– Tôi nói trên có cu chánh, có ông cai và đông các ông tất cả : vụ thuê này tôi làm kể cũng cứng lắm. Không cần gì hết, đứa nào trái ý, đánh luôn. Mà cũng có thế mới được. Chúng tôi làm vua làm việc, quanh năm đầu chày đít thớt, chỉ có những lúc “hồng thuỷ trướng giật” và những khi “sưu thuế giới kì” như thế này, thì mới có quyền. Tha hồ đánh, tha hồ trói, trai làng thằng nào bướng bỉnh… đánh chết vô tội vạ.

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1984)

– Gợi dẫn

Trong đoạn trích, có những cảnh tương phản nào ? Việc xây dựng cảnh tương phản đó có ý nghĩa gì ?

Bài 26 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay

Ngữ Văn 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Tóm Tắt Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản 7 Sống Chết Mặc Bay, Ngữ Văn Lớp 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Tóm Tắt Sống Chết Mặc Bay, Bài 26 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Ngữ Văn 7 Tóm Tắt Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Ngữ Văn 7, ý Nghĩa Của Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Nêu ý Nghĩa Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Soạn Văn 7 Tập 2 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Soạn Văn 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Soạn Văn Lớp 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Bài Soạn Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Nội Dung Bài Văn Sống Chết Mặc Bay, Nội Dung Bài Sống Chết Mặc Bay, ý Nghĩa Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Giáo án Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Giáo án Sống Chết Mặc Bay, Nêu ý Nghĩa Của Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Ngữ Văn 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Violet, Soạn Ngữ Văn 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Bài Giảng Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Thuộc Thể Loại Gì, Truyện Ngắn Sống Chết Mặc Bay, Nghệ Thuật Chủ Yếu Của Văn Bản “sống Chết Mặc Bay” Là Gì, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Thuộc Thể Loại Nào, ý Nghĩa Nhan Đề Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Được Viết Theo Thể Loại Nào, Hãy Giải Thích Nhan Đề Của Truyện Sống Chết Mặc Bay, Khi Nói Về Sóng Điện Từ Phát Biểu Nào Sau Đây Là Sai Sóng Điện Từ Là Sóng Ngang, Trên Đường Bộ, Người Lái Xe ô Tô Có Được Phép Dừng Xe, Đỗ Xe Song Song Với Một Xe Khác, Dàn ý Đường Đi Khó Không Khó Vì Ngăn Sông Cách Núi Mà Khó Vì Lòng Người Ngại Núi E Sông, Một Máy Thu Thanh Đang Thu Sóng Ngắn. Để Chuyển Sang Thu Sóng Trung, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Chung Tính Chất Nào Dưới Đây?, Tia Hồng Ngoại Và Tia Rơnghen Đều Có Bản Chất Là Sóng Điện Từ, Có Bước Sóng Dài Ngắn Khác Nhau Nên, Mạch Dao Động Lí Tưởng Lc Có Thể Phát Ra Sóng Vô Tuyến Truyền Trong Không Khí Với Bước Sóng, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Cùng Tính Chất, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Cùng Tính Chất Nào, Trắc Nghiệm ôn Tập Dao Động Và Sóng Điện Từ – Sóng ánh Sáng, Định Nghĩa 2 Đường Thẳng Song Song, Đề Xuất Giải Pháp Bảo Vệ Bờ Cửa Sông Ven Biển Cửa Sông Cái Lớn, 2 Phương Trình Đường Thẳng Song Song, Phương Trình 2 Đường Thẳng Song Song, Quan Niệm Thế Nào Là Cuộc Sống Đáng Sống, Khái Niệm 2 Đường Thẳng Song Song, Một Sóng Điện Từ Đang Lan Truyền Từ Một Đài Phát Sóng ở Hà Nội Đến Máy Thu, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Khác Nhau ở, Bài Giảng 2 Đường Thẳng Song Song, Định Lý 2 Đường Thẳng Song Song, Trắc Nghiệm 2 Mặt Phẳng Song Song, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Giống Nhau ở Chỗ, Định Nghĩa 2 Mặt Phẳng Song Song, Tia Rơn-ghen (tia X) Là Sóng Điện Từ Có Bước Sóng, Mẫu Báo Cáo Thực Hành Đo Cường Độ Dòng Điện Và Hiệu Điện Thế Đối Với Đoạn Mạch Song Song, Báo Cáo Thực Hành Đo Hiệu Điện Thế Và Cường Độ Dòng Điện Đối Với Đoạn Mạch Song Song, Định Lý Từ Vuông Góc Đến Song Song, Định Lý 2 Mặt Phẳng Song Song, 2 Phương Trình Song Song, Chuyên Đề 2 Mặt Phẳng Song Song, Chọn Câu Sai. Sóng Điện Từ Là Sóng, Ta ₫ến ₫ể Cho Chiên ₫ược Sống Và Sống Sung Mãn, Bài Giảng 2 Mặt Phẳng Song Song, Tiểu Thuyết Sóng ở Đáy Sông, Bài Tập Chuyên Đề Hai Mặt Phẳng Song Song, Phương Trình Song Song Với Ox, Công Thức 2 Bản Mặt Song Song, Giải Bài Tập 2 Mặt Phẳng Song Song, Công Thức R Song Song, Định Lý 2 Đường Song Song, Khi Nói Về Sóng Điện Từ Phát Biểu Nào Dưới Đây Là Sai Trong Quá Trình Truyền Sóng Điện Từ, Khi Nói Về Sóng Điện Từ Phát Biểu Nào Sau Đây Là Sai Sóng Điện Từ Mang Năng Lượng, Nguyên Tắc Chọn Sóng Của Mạch Chọn Sóng Trong Máy Thu Vô Tuyến Dựa Trên, Lê Quý Ngọ Chết, Văn Tế Một Cái Chết Bẩn, Truyện Ma Xác Chết Báo Hận, Truyện Ma Yêu Và Chết, Don Xin Xac Nhan Me Da Chet, Xac Nhancha Chet, Xác Nhận Đã Chết, Xác Nhận Cha,mẹ Đã Chết, Xác Nhận Cha Mẹ Chết, Xac Nhan Cha Chêt, Xac Nhan Bo Me Da Chet, Ddieu Văn Chet Tre, Don Xã Xac Nhan Bo Me Chet, Don Xac Nhan Ong Ba Noi Da Chet, Don Xin Xac Nhan (cha Me Da Chet), Xac Nhan Cah Me Da Chet, Ai Rồi Cũng Chết, Điếu Văn Chết Trẻ, Đơn Xin Xác Nhận Ba Mẹ Đã Chết , Mẫu Đơn Xác Nhận Bố Mẹ Chết, Đơn Xin Xác Nhận Bố Mẹ Đã Chết, Chết Giữa Mùa Hè, Đơn Xin Xác Nhận Cha Chết, Mẫu Đơn Xin Xác Thân Nhân Đã Chết, Mẫu Đơn Xác Nhận Đã Chết,

Ngữ Văn 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Tóm Tắt Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản 7 Sống Chết Mặc Bay, Ngữ Văn Lớp 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Tóm Tắt Sống Chết Mặc Bay, Bài 26 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Ngữ Văn 7 Tóm Tắt Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Ngữ Văn 7, ý Nghĩa Của Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Nêu ý Nghĩa Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Soạn Văn 7 Tập 2 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Soạn Văn 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Soạn Văn Lớp 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Bài Soạn Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Nội Dung Bài Văn Sống Chết Mặc Bay, Nội Dung Bài Sống Chết Mặc Bay, ý Nghĩa Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Giáo án Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Giáo án Sống Chết Mặc Bay, Nêu ý Nghĩa Của Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Ngữ Văn 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Violet, Soạn Ngữ Văn 7 Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Bài Giảng Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Thuộc Thể Loại Gì, Truyện Ngắn Sống Chết Mặc Bay, Nghệ Thuật Chủ Yếu Của Văn Bản “sống Chết Mặc Bay” Là Gì, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Thuộc Thể Loại Nào, ý Nghĩa Nhan Đề Văn Bản Sống Chết Mặc Bay, Văn Bản Sống Chết Mặc Bay Được Viết Theo Thể Loại Nào, Hãy Giải Thích Nhan Đề Của Truyện Sống Chết Mặc Bay, Khi Nói Về Sóng Điện Từ Phát Biểu Nào Sau Đây Là Sai Sóng Điện Từ Là Sóng Ngang, Trên Đường Bộ, Người Lái Xe ô Tô Có Được Phép Dừng Xe, Đỗ Xe Song Song Với Một Xe Khác, Dàn ý Đường Đi Khó Không Khó Vì Ngăn Sông Cách Núi Mà Khó Vì Lòng Người Ngại Núi E Sông, Một Máy Thu Thanh Đang Thu Sóng Ngắn. Để Chuyển Sang Thu Sóng Trung, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Chung Tính Chất Nào Dưới Đây?, Tia Hồng Ngoại Và Tia Rơnghen Đều Có Bản Chất Là Sóng Điện Từ, Có Bước Sóng Dài Ngắn Khác Nhau Nên, Mạch Dao Động Lí Tưởng Lc Có Thể Phát Ra Sóng Vô Tuyến Truyền Trong Không Khí Với Bước Sóng, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Cùng Tính Chất, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Không Có Cùng Tính Chất Nào, Trắc Nghiệm ôn Tập Dao Động Và Sóng Điện Từ – Sóng ánh Sáng, Định Nghĩa 2 Đường Thẳng Song Song, Đề Xuất Giải Pháp Bảo Vệ Bờ Cửa Sông Ven Biển Cửa Sông Cái Lớn, 2 Phương Trình Đường Thẳng Song Song, Phương Trình 2 Đường Thẳng Song Song, Quan Niệm Thế Nào Là Cuộc Sống Đáng Sống, Khái Niệm 2 Đường Thẳng Song Song, Một Sóng Điện Từ Đang Lan Truyền Từ Một Đài Phát Sóng ở Hà Nội Đến Máy Thu, Sóng Điện Từ Và Sóng Cơ Học Khác Nhau ở,

Văn Nghị Luận Sống Chết Mặc Bay

Văn nghị luận Sống chết mặc bay

II. Thân bài – Giải thích “Sống chết mặc bay” là vế đầu câu thục ngữ “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”: Thái độ của bạn thày lang , thày cúng trong xã hội cũ – Sống chết mặc bay, nhan đề của truyện ngắn mà PHT đặt nhằm để nói bọn quan lại làm tay sai cho Pháp là những kẻ vô lương tâm, vô trách nhiệm, vơ vét của dân rồi lao vào các cuộc chơi đàng điếm, bài bạc. – Phép tương phản, tăng cấp được tác giả sử dụng qua hai hình ảnh: + Cảnh dân chúng cứu đê… + Cảnh tên quan đi hộ đê nhưng vô trách nhiệm, xung quanh hắn: ” bên canhj ngài, bên tay trái bát yến hấp phèn, để trong khay khảm , khói bay nghi ngút…hai bên nào là ống thuốc bạc, trông mà thích mắt” – Kẻ hầu người hạ… – Ham mê ván bài tổ tôm – Hắn cười hả hê vì thắng một canh bạc lớn đúng lúc cảnh vỡ đê xảy ra, nhà cửa trôi băng, nước tràn lênh láng, người sống không có chỗ ở, kẻ chết không có chỗ chôn…

III. Kết bài – Nhà văn quả thực chọn cho tác phẩm của mìn nhan đề thật hay, thật sâu sắc, ý nghĩa – Đọc truyện, ta càng thêm căm phẫm bọn quan lại xã hội cũ vô trạch nhiệm, táng tận lương tâm – Thấy được nhà nước ta hiện nay rất quan tâm đến đê điều, dời sống của nhân dân

Phạm Duy Tốn là một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Một trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, nó được coi như một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán sau này. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng “con dân” cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả. “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre”, “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”. Một bên là cảnh quan huyện “kẻ cha mẹ của dân” có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê thì lại đang chễm chệ trong đình “cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì”. Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp”. Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với “con dân” đang “trăm lo ngàn sợ”, quan phụ mẫu “uy nghi chễm chện ngồi” như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác.

Người đọc không thể tưởng tượng được trong tình thế nan nguy của tính mạng hàng ngàn người dân mà quan phụ mẫu vẫn điềm nhiên đánh bạc và hưởng lạc. Trong khi “sức người khó lòng địch nổi sức trời” thì bọn nha lại tay chân chỉ mải lo hầu bài quan.

Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn”, “Thất văn… phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. “Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp”, hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai “đê vỡ rồi thời ông cách cổ *********”. Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: “Thầy bốc quân gì thế?”. Ván bài “ù to”. Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…

Với việc sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện gay gắt; với giọng văn khi thiết tha xúc động, khi cay độc, mỉa mai,… Phạm Duy Tốn đã trực tiếp bày tỏ thái độ cảm thông sâu sắc của mình trước thảm cảnh của dân chúng và lòng căm uất phẫn nộ bọn quan lại phong kiến.