Giáo Án Văn Bản Cô Bé Bán Diêm / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Văn Bản “Cô Bé Bán Diêm”

1.Hãy xác định ba phần của văn bản này nếu lấy việc em bé quẹt những que diêm làm phần trọng tâm.Căn cứ vào đâu để có thể chia phần thứ hai ( phần trọng tâm )thành những đoạn nhỏ hơn .

Phần thứ nhất: Hòan cảnh của cô bé bán diêm. Phần thứ hai (trọng tâm): Các lần quẹt diêm và những mộng tưởng. Phần thứ ba: Cái chết thương tâm của em bé bán diêm.

Phần trọng tâm có thể chia thành 5 đoạn nhỏ căn cứ vào các lần quẹt diêm. Bốn lần đầu, mỗi lần quẹt một que diêm. Lần thứ năm quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao.

chúng tôi phần đầu,chúng ta biết gì về gia cảnh của nhân vật cô bé bán diêm và không gian,thời gian xảy ra câu chuyện?Liệt kê những hình ảnh tương phản (đối lập,đặt gần nhau,làm nổi bật lẫn nhau)được nhà văn sử dụng trong phần này nhằm khắc họa nỗi cực khổ của cô bé

-Gia cảnh: +Mẹ chết, sống với bố, bà nội cũng đã qua đời. +Nhà nghèo, sống chui rúc trong một xó tối tăm, trên gác sát mái nhà. +Bố khó tính, em luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa. +Phải đi bán diêm kiếm sống. -Không gian,thời gian xảy ra câu chuyện: +Đêm giao thừa: gió rét, tuyết rơi. +Đường phố vắng vẻ.

3.Chứng minh rằng những mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm diễn ra theo trình tự hợp lí.Trong số các mộng tưởng ấy,điều nào gắn với thực tế,đièu nào thuần túy chỉ là ảo mông?

-Các mộng tưởng diễn ra theo trình tự hợp lí: vì trời rét nên trước hết em nghĩ đến lò sưởi, tiếp đó, vì đói nên em nghĩ tới bàn ăn, sau đó vì hôm nay là giao thừa nên “cây thông Nôen” hiện ra, đến đây, em nhớ đến đã có một thời em cũng được đón giao thừa như thế, khi bà còn sống, thế là hình ảnh bà em xuất hiện. Thực tế và mộng tưởng xen kẽ với nhau: khi diêm cháy là lúc mộng tưởng hiện ra trong đầu em bé, khi diêm tắt là lúc em trở về với thực tại -Con ngỗng quay nhảy ra khỏi đĩa, hai bà cháu nắm tay nhau bay lên trời chỉ là mộng tưởng Các hình ảnh: lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nôen gắn với thực tế

4.Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm nói chung và về đoạn kết của chuyện nói riêng

“Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa. Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Chẳng ai biết những cái kì diệu em đã trông thấy và nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”

– Em đã đi vào bầu ánh sáng vĩ đại, vào sống trong một thế giới của ánh sáng, tình thương, nơi ấy có người bà hiền hậu thân thương, có những lò sưởi ấm, những bữa ăn thịnh soạn, những cây thông trang hoàng rực rỡ, được sống trong sự bao dung chở che và lòng độ lượng nhân từ vô hạn của Chúa. Em đã vĩnh viễn thoát khỏi những đọa đày trên mặt đất đau thương, vĩnh viễn thoát khỏi những cơn đói hành hạ, thoát khỏi cái rét cắt da cắt thịt, khỏi nỗi cô đơn, bất hạnh. Em ra đi thanh thản và mãn nguyện “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”. Chắc hẳn gương mặt ấy sẽ còn ám ảnh độc giả bao thế hệ: cô bé ra đi trong niềm vui, sự bao dung, tha thứ. Cô mỉm cười từ giã tất cả, tha thứ tất cả: những lời chửi mắng thậm tệ, những trận đòn roi, những sự lạnh lùng vô cảm của con người…. Cô bé ra đi tựa như một thiên thần, sau khi chịu đựng những đọa đày thế gian đã được trở về với Chúa, về nước thiên đàng. Ở phương diện đó, kết thúc câu chuyện là một cái kết có hậu, ấm áp và đầy tính nhân văn. Andersen đã không dùng đôi cánh tưởng tượng để thoát li mà cúi sát xuống hiện thực khốc liệt của cuộc sống, để cảm thông và yêu thương những số phận bất hạnh, để nhận ra và trân trọng những ước mơ trong sáng, thánh thiện của con người.

– Nhưng không hẳn là một cái kết hoàn toàn có hậu. Truyện của Andersen khép lại nhưng lòng người đọc vẫn không nguôi băn khoăn, trăn trở, day dứt suy nghĩ về con người, cuộc đời, về tình người, tình đời. Nhà văn không né tránh hiện thực nghiệt ngã. Cô bé có tâm hồn trong sáng, thánh thiện ấy đã chết, chết trong chính đêm giao thừa, trong cái đói, cái rét hành hạ. Một năm mới sang hứa hẹn những khởi đầu mới nhưng cô bé đã kết thúc cuộc hành trình của mình tại chính ngưỡng cửa của năm mới. Chẳng có cơ hội, chẳng có tương lai nào cho em. Trước khi chết vì đói, vì rét, em đã chết vì chính sự lạnh lùng, vô cảm, tàn nhẫn, ích kỉ của con người. Em không dám về nhà vì sợ những lời chửi mắng, đánh đập của bố, em trơ trọi, bơ vơ, tuyệt vọng chống chọi với cái giá rét trước ánh mắt vô cảm, thờ ơ của những người qua đường, em cô đơn, buồn tủi khi mọi người vui vẻ, hân hoan đón chào năm mới, em nằm đó trong những lời đàm tiếu vô tâm của mọi người. Em từ giã cõi đời, giã từ cuộc sống vì không ai thương em, không ai che chở, bảo vệ em. Cái chết của em mãi để lại nỗi xót thương, niềm day dứt như một câu hỏi ám ảnh trong lòng mỗi người: làm sao để không bao giờ trên mặt đất này còn có những trẻ em bất hạnh như cô bé bán diêm ?

Giáo Án Ngữ Văn Lớp 8 Tiết 21 – 22: Văn Bản: Cô Bé Bán Diêm (An

Ngày giảng: 8A: 8B: Tiết 21- 22 Văn bản Cô bé bán diêm (An-đec-xen) I. Mục tiêu: 1. Kiến thức:Giúp HS nắm được: – Những hiểu biết bước đầu về người kể chuyện cổ tích An- đec- xen – Nghệ thuật kể chuyện, cách tổ chức các yếu tố hiện thực và mộng tưởng trong tác phẩm – Lòng thương cảm của tác giả đối với em bé bất hạnh. 2. Kĩ năng: – Đọc diễn cảm, hiểu, tóm tắt được tác phẩm – Phân tích được một số hình ảnh tương phản(đối lập, đặt gần nhau làm nổi bật lẫn nhau) – Phát biẻu cảm nghĩ về một đoạn truyện. * KNS: + Giao tiếp, trình bày suy nghĩ phản hồi lắng nghe tích cực về tình cảnh đáng thương của cô bé bất hạnh + Tự nhận thức: xác định lối sống nhân ái, yêu thương và chia sẻ với mọi người xung quanh 3. Thái độ: Giáo dục HS: – Lòng cảm thông, yêu thương đối với những em bé nghèo khổ, bất hạnh. II. Chuẩn bị: 1. Thầy: TLHDTH chuẩn KTKN, SGK, SGV ngữ văn lớp 8 III. Phương pháp: – P.P: Vấn đáp, đàm thoại, phân tích giảng bình, Tchức cho HS tự tiếp thu kT – KT: Động não, hỏi trả lời IV. Tiến trình giờ dạy – GD 1. ổn định: (1’) Sĩ số: 8A: 8B: 2. Kiểm tra bài cũ: (4’) ? Trình bày nguyên nhân và ý nghĩa cái chết của “ Lão Hạc”? – Dành tiền và giữ lại mảnh vườn cho con trai; không muốn phiền luỵ nhờ vả mọi người; Giàu lòng tự trọng, trung thực, yêu thương con rất mực, giàu đức hi sinh 3. Bài mới: * Giới thiệu bài Trên thế giới có rất nhiều nhà văn chuyên viết truyện và truyện cổ tích cho trẻ em nhưng truyện cổ tích do nhà văn Đan Mạch An- déc xen sáng tác thì thật tuyệt vời. Không những trẻ con khắp nơi vô cùng yêu thích, say mê đón đọc mà người lớn đủ mọi lứa tuổi cũng đọc mãi không chán. Hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một câu chuyện hay của ông: tác phẩm “ Cô bé bán diêm.” Hoạt động 1 P.P: Vấn đáp, thuyết trình KT: Động não Trình bày những hiểu biết của em về tác giả An- đéc- xen? – HStrình bày, nhận xét bổ sung – GV bổ sung một số tác phẩm của ông ? Em đã đọc tác phẩm nào của ông ? ? Hiểu biết của em về tác phảm ? – GV thuật lại hoàn cảnh khơi nguồn cảm hứng sáng tác của ông về truyện : «  Cô bé bán diêm » * GV Hướng dẫn HS đọc chậm, giọng tình cảm. ? Yêu cầu HS giải thích một số từ khó? – Gia sản ; trường xuân ; ảo ảnh ? Hãy kể tóm tắt truyện ? – 1 HS tóm tắt lại truyện, HS khác nhận xét, GV điều chỉnh ? Theo dõi nội dung truyện và cho biết: Truyện có thể chia làm mấy đoạn? Nội dung từng đoạn? – 3 đoạn 1. Từ đầu…cứng đờ ra: Hoàn cảnh của cô bé bán diêm 2. Tiếp…chầu thượng đế: Những lần quẹt diêm và mộng tưởng của cô bé 3. Còn lại: Cái chết của cô bé bán diêm Hoạt động 2: P.P: Vấn đáp, nêu vấn đề, phân tích giảng bình KT: Động não, hỏi trả lời * HS đọc đoạn 1 ? Hoàn cảnh của cô trong quá khứ và hiện tại ? + Quá khứ: Êm đềm hạnh phúc + Hiện tại: – Bà và mẹ mất, tài sản tiêu tan, sống với bố trong cái gác xép tối om ? Hoàn cảnh đó đưa em bé đến tình trạng như thế nào? – Đói, rét, chịu sự mắng nhiếc I. Giới thiệu chung (6’) 1.Tác giả – Là nhà văn Đan Mạch, người «  kể chuyện cổ tích nổi tiếng thế giới với những truyện kể cho trẻ em. – Truyện của ông đem đến cho độc giả cảm nhận về niềm tin và lòng yêu thương đối với con người lòng nhân đạo sâu sắc. 2. Tác phẩm : – Viết năm 1845 khi tác giả có hai mươi năm cầm bút và tên tuổi của ông đã lừng danh trên thế giới – Là một trong những truyện nổi tiếng nhất của nhà văn Anđecxen II. Đọc hiểu văn bản : ( 66’) 1. Đọc hiểu chú thích 2. Bố cục : 3 đoạn 1. Từ đầu…cứng đờ ra: Hoàn cảnh của cô bé bán diêm 2. Tiếp…chầu thượng đế: Những lần quẹt diêm và mộng tưởng của cô bé 3. Còn lại: Cái chết của cô bé bán diêm 3. Phân tích 1. Hoàn cảnh của cô bé bán diêm: – Quá khứ êm đềm hạnh phúc ? Cô bé bán diêm xuất hiện trong khung cảnh như thế nào? – Đêm giao thừa, trời rét – Mọi người đi lại nhộn nhịp đón năm mới rất vui vẻ cửa sổ nhà rực ánh đèn, sực nức mùi ngỗng quay – Cô bé một mình trong đêm giá rét, giầy bị mất, đầu trần, chân lạnh cóng, trên tay là những hộp diêm không ai mua, bụng đói, lo lắng bị cha trách mắng ? Em có nhận xét gì về hoàn cảnh của cô bé bán diêm? ? Hình ảnh của cô bé bán diêm trong đêm giao thừa được tác giả khắc hoạ bằng biện pháp nghệ thuật gì là chính? – Đối lập- tương phản ? Tìm những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự đối lập? Tác dụng của nghệ thuật đó? * Gv: Hình ảnh có thật trên đất nước Đan Mạch, gợi nhiều thương tâm và đồng cảm trong lòng người đọc ? Câu chuyện đc tiếp tục nhờ một chi tiết nào cứ lặp đi lặp lai? – Chi tiết 5 lần em bé quẹt diêm : Thực tế và mộng tưởng xen kẽ với nhau – Hiện tại: Hình ảnh cô bé trong đêm giao thừa: 2. Mộng tưởng của cô bé trong những lần quẹt diêm ? Vì sao em bé lại quẹt diêm? – Để sưởi ấm, để đắm mình trong ảo ảnh. ? Lần lượt từng lần tác giả đã cho em bé mơ thấy những cảnh gì? ở đây tác giả tiếp tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật gì? ? Chứng minh rằng những ảo ảnh của cô bé qua các lần quẹt diêm diễn ra theo thứ tự hợp lí? tác dụng? – HS TL trình bày – GV chốt ? Trong các mộng tưởng ấy, điều nào gắn với thực tế, điều nào thuần tuý chỉ là mộng tưởng? – Lò sưởi, cây thông gắn với thực tế; ? Tạo ra những hình ảnh thiên đường chốc lát ấy, nhà văn nhằm mục đích gì? ? Tác giả đã miêu tả hình ảnh em bé vào sáng mồng Một tết như thế nào? Hình ảnh đó gợi cho em cảm xúc gì? ? Thái độ của mọi người như thế nào khi chứng kiến cảnh đó? Chi tiết này nói lên điều gì? ? Cách kết thúc truyện thể hiện tình cảm gì của nhà văn đối với em bé bất hạnh ? – Day dứt xót xa, thương cảm ? Qua đó em hiểu gì về nhà văn? – Andecxen: Giàu lòng nhân ái, cảm thông sâu sắc, thương yêu chân thành. * L5: Em đi theo bà 3. Cái chết của em bé bán diêm và thái độ của mọi người: – Cái chết tội nghiệp, thương tâm – Người đời lạnh lùng, ích kĩ, tàn nhẫn. Hoạt động 3: P.P: V ấn đáp, thuyết trình, KT: Động não, hỏi trả lời ? Qua tác phẩm “ Cô bé bán diêm” An-dec-xen muốn nói gì với tất cả mọi người? – Về trách nhiệm, tình cảm của người lớn đối với trẻ em ? Tại sao có thể nói “ Cô bé bán diêm là một bài ca về lòng nhân ái với con người nói chung và với trẻ em nói riêng? ? Em có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện của tác giả? Hoạt động 4 P.P: Tổ chức cho hS tự tiếp thu kT KT: Động não, TH viết tích cực ? Viết một đoạn văn ngắn từ 5-7 câu phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật cô bé bán diêm? – HS viết vào phiéu học tập, trình bày – GV chấm chữa, cho điểm bài viết khá – HS đọc bài làm khá, tham khảo 4. Tổng kết: a. Nội dung: – Truyện thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với em bé bất hạnh b. Nghệ thuật: – Cách kể chuyện hấp dẫn: + Sử dụng hình ảnh tương phản đối lập + Đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng với tình tiết hợp lý c.Ghi nhớ SGKT68 III. Luyện tập (8’) Viết một đoạn văn ngắn từ 5-7 câu phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật cô bé bán diêm – Gợi ý: +Số phận: Nghèo khổ cô đơn bất hạnh mà trong sáng, hồn nhiên + Tình cảm: đồng cảm, chia sẻ nỗi bất hạnh; mong muốn trẻ em không bất hạnh được sống trong yêu thương chăm sóc, hạnh phúc + Suy nghĩ về xã hội… 4. Củng cố: (3’) – Bức hình trong SGK minh hoạ cho cảnh nào trong truyện? ? Tại sao có thể nói “ Cô bé bán diêm là một bài ca về lòng nhân ái với con người nói chung và với trẻ em nói riêng? – Kể về số phận nghèo khổ bất hạnh, cô đơn của cô bé bán diêm với lòng thương cảm sâu sắc + Đồng cảm với khát khao hạnh phúc của em bé( Qua mộng tưởng của em về chiếc lò sưởi ấm áp, bữa ăn ngon, cảnh đầm ấm với bà đã khuất…) + Kết thúc truện kể về cái chết của em bé thể hiện nỗi day dứt, xót xa đối với em bé bất hạnh; đối với số phận của con người nhất là trẻ em. 5. Hướng dẫn học bài và chuẩn bị bài mới (2’) * Bài cũ: – Đọc và tóm tắt lại truyện “ Cô bé bán diêm”. – Nắm nội dung, ý nghĩa và nghệ thuật của truyện. * Bài mới: Xem trước bài:

Tìm Hiểu Văn Bản: Cô Bé Bán Diêm – An

Có cảnh tượng thương tâm nào hơn cảnh một em bé mồ côi mẹ chết cóng trong đêm giao thừa. Câu chuyện về “Cô bé bán diêm” của An – Đec – Xen đã đưa người đọc đến với đất nước Đan Mạch vào những năm giữa thế kỷ XIX nghèo đói, bần hàn. Đan Mạch là một nước nhỏ thuộc khu vực Bắc Âu, diện tích chỉ bằng một phần tám diện tích nước ta, thủ đô là Cô-pen-na-ghen. An-Đec-Xen là nhà văn nổi tiếng nhất của Đan Mạch.

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

An-Đec-Xen (1805-1875) là nhà văn nổi tiếng nước Đan Mạch với loại truyện kể về trẻ em. Nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông hoàn toàn sáng tạo ra.

Nhiều truyện ngắn của An-Đec-Xen đã đi cùng tuổi thơ của biết bao em nhỏ khắp năm châu: Cô bé bán diêm, Nàng tiên cá, Nàng công chúa và hạt đậu…

Các truyện của ông nhẹ nhàng, tươi mát, toát lên lòng yêu thươn con người, nhất là những người nghèo khổ và niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của cái tốt đẹp trên thế gian.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Cô bé bán diêm” sáng tác năm 1845, ra đời vào thời điểm Am-Đec-Xen sáng tác nhiều nhất.

b. Tóm tắt: Cô bé bán diêm

Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói đang rầu rĩ đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy đã mồ côi mẹ và cũng đã mất đi người thương yêu em nhất là bà nội. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, em được thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Rồi em quẹt que diêm thứ ba và được thấy cây thông Nô-en. Quẹt que diêm thứ tư: bà nội hiền từ của em hiện lên đẹp đẽ, gần gũi và phúc hậu biết mấy. Nhưng ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cô bé bán diêm đã chết trong giá rét khi mơ cùng bà bay lên cao mãi.

c. Bố cục: 3 phần

Phần 1: Từ đầu… cứng đờ ra: Hoàn cảnh của cô bé bán diêm

Phần 2: Tiếp theo… về chầu thượng đế: Những lần quẹt diêm của cô bé

Phần 3: Còn lại: Cái chết của cô bé bán diêm

II. Tìm hiểu văn bản

1. Cô bé trong đêm giao thừa

a. Gia cảnh của cô bé bán diêm

Mẹ chết, sống với người bố khó tính, bà nội – người yêu thương em cũng đã qua đời.

Nhà nghèo, sống “chui rúc trong xó tối tăm”. “trên gác sát mái nhà”, em “luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”.

Vì gia cảnh nghèo túng mà em phải đi bán diêm để kiếm sống.

b. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa

Ở đoạn đầu của tác phẩm, tác giả đã sử dụng rất thành công nghệ thuật đối lập – tương phản.

Những hình ảnh đối lập tương phản có tác dụng rất lớn, nhằm làm nổi bật tình cảm hết sức tội nghiệp: rét, đói, khổ của em bé – đã rét lại càng rét hơn khi thấy “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”; đã đói lại càng đói hơn khi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.

Ngoài ra, hình ảnh “cái xó tối tăm” em sống chui rúc với bố hiện nay và “ngôi nhà xinh xắn có dây trưỡng xuân bao quanh” năm xưa khi bà nội em còn sống.

Hình ảnh tương phản này không chỉ làm nổi bật nỗi khổ về vật chất mà cả sự mất mát về chỗ dựa tinh thần của em bé vì chỉ có bà nội là người thương em.

Đến tận đêm vẫn không bán được bao diêm nào, vẫn không dám về vì sợ bố đánh.

c. Cảnh thực và những ảo ảnh

Đêm giao thừa cô đơn, ngập chìm trong tuyết lạnh, cô bé: “thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn”, “lúc này đôi bàn tay” mỗi lúc lại “cứng đờ ra”.

Trong tình cảnh đó, cô bé đã nghĩ tới việc đánh diêm để “hơ ngón tay”, để phần nào xua đi cái cô đơn lạnh cóng.

Câu chuyện được tiếp tục nhờ chí tiết lặp lại và biến đổi rất tự nhiên, hợp lý và thú vị qua chi tiết 5 lần cô bé quẹt diêm. Trong đó, cảnh thật và cảnh ảo đan xen nhau.

Lần thứ nhất:

+ Cảnh ảo: “Hiện ra lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.

+ Cảnh thật: Bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên.

Lần thứ hai:

+ Cảnh ảo: một bàn ăn sang trọng, thức ăn ngon lành tỏa mùi thơm ngào ngạt: “Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay”.

+ Cảnh thực: là khi que diêm vừa tắt thì “chẳng có bàn ăn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt…và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”

Lần thứ ba:

+ Cảnh ảo: hiện ra một cây thông noel

+ Cảnh thật: vẫn không đổi.

Lần thứ tư:

+  Cảnh ảo: Hình ảnh người bà đã mất xuất hiện, sống lại với nụ cười dịu dàng với dứa cháu mồ côi nhỏ bé, đáng thương. Em bé cất lời nói với bà để biểu hiện tình cảm nhớ thương bà, ước nguyện đi cùng bà.

+ Cảnh thật: vẫn không thay đổi.

Lần thứ năm – lần cuối cùng: Em quẹt diêm liên tục cho kỳ hết bao diêm để dẫn tới hình ảnh diêm nối nhau chiếu sáng như ban ngày:

+  Cảnh ảo: Hình ảnh bà nội hiện lên trong tưởng tượng chưa bao giờ to lớn, đẹp lão như thế. Em muốn níu giữ bà em lại với em. Em lại muốn bà em đi với em, em đi theo bà.

+ Cảnh thật: vẫn không đổi. Em đã chết vì rét trong đêm giao thừa.

Chỉ là một tưởng tượng, đây là giây phút em bé đã ra đi vĩnh viễn trong đói khát, rét mướt, trong niềm hy vọng tan biến.

5 lần quẹt diêm, 5 lần lặp lại và biến đổi, thực tại xen lẫn ảo ảnh, nối tiếp, trở đi trở lại, tất cả được sắp xếp và tưởng tượng tuyệt khéo gợi lên cho người đọc vẻ đẹp hồn nhiên, tươi tắn của em bé đáng thương như một tiểu thiên thần.

Tác giả bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc của mình với em bé bất hạnh. Ngòi bút nhân ái và lãng mạng của nhà văn đã làm cho câu chuyện cảm động đau thương vẫn nhẹ nhàng đầy chất thơ.

Hình ảnh một em bé nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương, đáng trọng. Một con người phải đối mặt với những khó khăn thử thách ở đời mà vẫn không nguôi mong muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất.

2. Một cảnh thương tâm

Ngày mồng một, người ta nhìn thấy thi thể em bé mồ côi ngồi giữa những bao diêm một cách vô tình, lạnh lùng.

Chỉ có cái nhìn đầy cảm thông cùng tấm lòng nhân hậu và lãng mạn của An-Đec-Xen mới có thể viết lại một câu chuyện thương tâm mà vẫn làm cho người đọc bớt đi cảm giác bi thương.

Cho đến những dòng cuối cùng của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng hình ảnh đối lập, tương phản rất đặc sắc: Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết.

Miêu tả một cảnh thương tâm về cái chết của cô bé bán diêm, ngòi bút của tác giả vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết, nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười. Rõ ràng, đến với những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin con người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất con người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn.

Trong cái xã hội thiếu tình thương, nhà văn An-Đec-Xen đã viết truyện này với tất cả niềm cảm thông, yêu thương đối với em bé bất hạnh. Nhưng rõ ràng, truyện ngắn “Cô bé bán diêm” là một cảnh tượng thương tâm.

Cái chết của cô bé là tiếng nói tố cáo xã hội mạnh mẽ, phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà văn kể chuyện thiên tài An-Đéc-Xen.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Qua số phận bất hạnh của em bé nghèo, chúng ta thấy được xã hội mà em sống, đó là một xã hội không có tình người. Đồng thời truyện còn có sức tố cáo xã hội; phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Câu chuyện còn toát lên niềm thương cảm của nahf văn đối với những em bé nghèo khổ. Vì thế, truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo.

2. Nghệ thuật

Tác giả thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập – tương phản. Những hình ảnh đối lập tương phản càng lúc càng gay gắt, thực tế và mộng tưởng, cuộc đời và ảnh ảo cứ sóng đôi hiện hiện, đan cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, bay cao lên.

Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các chi tiết tương phản, diễn biến hợp lý, truyền cho chúng ta lòng thương cảm đối với em bé bất hạnh, lay động trong ta thình thương và niềm tin ở con người.

✅ Cô Bé Bán Diêm

Câu 1 (Câu 1 trang 68 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):

Trả lời:

a. Bố cục văn bản chia làm: 3 phần

Phần 1( từ đầu… cứng đờ ra): Hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm

Phần 2 (tiếp… chầu Thượng đế): Những lần quẹt diêm những mơ ước giản dị hiện ra

Phần 3( còn lại) Cái chết của cô bé bán diêm và thái độ của mọi người.

b. Phần trọng tâm của văn bản chia thành các đoạn nhỏ như sau:

Đoạn 1: Từ Chà! Giá quẹt một que diêm đến bị cha mắng: Ước mơ của cô bé về chiếc lò sưởi

Đoạn 2: Từ em quẹt que diêm thứ hai đến lạnh lẽo: Ước mở của cô bé về bàn thức ăn thịnh soạn.

Đoạn 3: Từ em quẹt que diêm thứ ba đến ngôi sao trên trời: Ước mơ của cô bé về cây thông Nô – en.

Đoạn 4: Từ em quẹt que diêm nữa đến khuôn mặt em bé cũng biến mất: Ước mơ của cô bé được gặp lại bà mình

Đoạn 5: Từ thế là em đến họ đã về chầu Thượng đế: Cô bé quẹt diêm níu giữ bà ở lại

Câu 2 (Câu 2 trang 68 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):

Trả lời:

– Gia cảnh của cô bé bán Diêm, thời gian không gian xảy ra câu chuyện:

+ Nhà nghèo, mồ côi mẹ sống cùng bà và người cha. Khi bà mất sống với người cha nát rượu suốt ngày chửi bới đánh đập cô bé.

+ Đêm giao thừa, trời rét mướt, cô bé đầu trần chân đất bụng đói đang dò dẫm trong bóng đêm.

– Những hình ảnh tương phản:

– Giá trị gợi cảm: Làm nổi bật lên tình cảnh đáng thương, tội nghiệp của cô bé bán diêm.

Câu 3 (Câu 3 trang 68 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1):

Trả lời:

– Những mộng tưởng đó diễn ra theo trình tự rất hợp lí: Những mộng tưởng gắn với thực tế, là khát khao của bất cứ đứa trẻ nào

– Cô bé cố níu giữ giấc mộng cuối cùng bởi vì: Cô bé rất thương nhớ người bà hiền hậu, muốn được quay trở về cuộc sống bên bà như xưa, muốn được cùng bà giải thoát khỏi thực tại khốn khổ đau buồn.

Câu 4:

Trả lời:

Khi miêu tả về cái chết của cô bé bán Diêm, An-đéc-xen đã thể tấm lòng nhân ái đầy bào dung, yêu thương mà ông dành đến đứa trẻ tội nghiệp. Em bé chết nhưng đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Hình ảnh đó thật đẹo thể hiện sự hạnh phúc, mãn nguyện của cô bé. Em ra đi rất thanh thản, nó giống như một sự giải thoát cho chính cuộc đời em. Mọi người qua đường chỉ biết thờ ơ bảo nhau cô bé ra đi vì lạnh không ai nhận ra được nét mặt rạng rỡ kia, càng không ai thấy được giây phút huy hoàng mà em đã trải qua trong đêm ấy. Qua đây đã cho thấy, thông qua việc miêu tả cái chết của cô bé bán diêm, An-đéc-xen không chỉ thể hiện lòng thương, nói lên nỗi thống khổ của em bé mà ông còn tố cáo xã hội lạnh lùng thơ ơ trước số phận đau thương của con người bất hạnh.

Câu 5: Em có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện của An-đéc-xen

Trả lời:

– Lối kể chuyện của An-đéc-xen rất phong phú, linh hoạt:

Có lúc dựa vào tâm trạng của nhân vật để dẫn dắt người đọc: Những lần quẹt diêm, diêm cháy đem đến những mộng tưởng, niềm vui, hạnh phúc, khi diêm vụt tắm đem đến sự hụt hẫng, buồn tiếc

Có lúc xen kẽ giữa kể và tả: Mỗi lần quẹt diêm, các hình ảnh xuất diện được tác giả miêu tả rất sinh động (ngọn lửa, bàn ăn, cây thông,…)

Có lúc độc thoại, đối thoại: Cô bé bán diêm độc thoại với chính mình, và đối thoại khi gặp bà.

– Lối kể chuyện ấy làm cho cây chuyện vừa sinh động, lại vừa lôi cuốn, đem đến sự hấp dẫn, thú vị cho người đọc.