--- Bài mới hơn ---
Đbqh Góp Ý Kiến Về Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm Và Luật Sở Hữu Trí Tuệ Có Bao Nhiêu Loại Bảo Hiểm Và Phân Biệt Các Loại Như Thế Nào? Bảo Hiểm Là Gì? Các Thuật Ngữ Cơ Bản Nhất Trong Bảo Hiểm Bạn Nên Biết Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm Và Luật Sở Hữu Trí Tuệ (Sửa Đổi) Dự Thảo Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm Sửa Đổi, Luật Sở Hữu Trí Tuệ Sửa Đổi
KHÁI QUÁT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM & PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM.
Phần I : TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM – PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
I. KHÁI NIỆM KINH DOANH BẢO HIỂM VÀ PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM.
1/ Khái niệm chung về bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm
Dù phương thức sản xuất nào, con người và tài sản cũng luôn bị đe doạ bởi thiên tai và
các tai biến bất ngờ phát sinh ngay trong hoạt động của con người.
Dù muốn hay không nhiều loại rủi ro đã xuất hiện vẫn tồn tại và sẽ còn chi phối đến
cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, DN và toàn xã hội. Chính sự tồn tại của rủi ro là
nguồn gốc phát sinh tồn tại của bảo hiểm. Nguyên nhân gây ra những rủi ro là yếu tố tự nhiên,
kỹ thuật và yếu tố xã hội khác. Suốt trong lịch sử của mình, loài người đã phải chịu đựng và
chứng kiến biết bao hiểm hoạ, nào là động đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán, sóng thần, dịch bệnh,
chiến tranh, tai nạn giao thông, hoả hoạn, phóng xạ, ô nhiễm. ..
Rủi ro, hiểm hoạ bất ngờ xảy ra không biết trước về thời gian, địa điểm, quy mô, mức
độ thiệt hại, điều đó ảnh hưởng đến cuộc sống, cũng như quá trình sản xuất kinh doanh ở từng
cá nhân, gia đình, tổ chức và cũng ảnh hưởng đến sự ổn định chung của xã hội. Đứng trước
thực trạng đó, con người luôn có những hành động tích cực, chủ động để ngăn ngừa, khắc
phục có hiệu quả những tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ xảy ra với tất cả khả năng của
mình, nhằm giảm tới mức thấp nhất những thiệt hại để sớm phục hồi quá trình sản xuất kinh
doanh và đời sống. Các biện pháp phổ biến được con người sử dụng là:
-Biện pháp phòng ngừa: là biện pháp do con người sử dụng do nhận thức được quy luật
của tự nhiên như đắp đê chống lũ, trồng rừng phòng hộ, xây dựng các trạm phòng cháy, xây
dựng hệ thống dự báo thời tiết…
-Biện pháp cứu trợ: biện pháp này được thực hiện khi đã có rủi ro xảy ra để khắc phục
hậu quả của rủi ro. Biện pháp này có thể do chính quyền nhà nước thực hiện hoặc do các tổ
chức, cá nhân thực hiện trên tinh thần nhân đạo và mang tính tự nguyện nhằm giúp đỡ các tổ
chức, cá nhân gặp rủi ro khắc phục các hậu quả.
-Biện pháp dự trữ – bảo hiểm: Bảo hiểm là biện pháp phòng xa để nhằm hạn chế tới
mức thấp nhất những rủi ro gây ra. Mần mống của bảo hiểm có từ xa xưa khi con người chưa
biết đến bảo hiểm nhưng họ đã có ý thức được việc làm cần thiết để bảo đảm cho sự sinh tồn
như dự trữ lương thực, vật nuôi trong ngày săn bắn được nhiều để dùng cho những ngày mưa
rét không đi săn bắn và hái lượm được. Đó là là những dấu hiệu đầu tiên về hoạt động bảo
hiểm mang tính chất tự bảo hiểm.
Bảo hiểm thực chất là việc con người phải dành ra một phần sản phẩm trong kết quả lao
động hàng năm của mình để lập ra quỹ dự trữ đủ lớn về vật tư hoặc bằng tiền (quỹ đó gọi là
quỹ dự trữ bảo hiểm ) nhằm :
-Hỗ trợ tài chính cho việc đề phòng và hạn chế tổn thất khi hiểm hoạ chưa hoặc đang
xảy ra.
1
-Bù đắp và bồi thường kịp thời những thiệt hại và tổn thất về người và tài sản, sau khi
xảy ra hiểm hoạ.
Có 3 loại quỹ được thành lập và chi dùng cho mục đích nêu trên là :
-Quỹ dự trữ nhà nước được lập ra từ ngân sách nhà nước (quỹ dự phòng trong ngân
sách, quỹ dự trữ quốc gia, quỹ dự trữ tài chính ). Quỹ này thuộc sở hữu nhà nước do nhà nước
quản lý, nó được sử dụng để bù đắp những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra trên
diện rộng quy mô lớn, vì phạm vi hoạt động rộng, nên chỉ sử dụng khi có những biến cố rủi ro
lớn trên nhiều vùng, ảnh hưởng tới nhiều tầng lớp dân cư. quỹ này không được sử dựng khi rủi
ro thiệt hại mang tính cá biệt. Do đó nó không đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của từng tổ chức,
gia đình, cá nhân.
-Quỹ dự phòng riêng của từng tổ chức, cá nhân, gia đình: ( Quỹ dự trữ phân tán) Quỹ
này do các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân tự lập ra bằng thu nhập của mình, họ tự quản lý, sử
dụng cho nên nó có thể đáp ứng kịp thời, nhanh chóng chủ động đối với những tổn thất vừa và
nhỏ, nhưng vì quy mô quỹ không lớn, không thể bù đắp cho những tổn thất lớn, không phát
huy được tính cộng đồng tương trợ, nó chỉ đóng khung trong từng đơn vị, không cơ động, có
thể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, lãng phí vốn, hiệu quả kinh tế không cao.
-Quỹ bảo hiểm tập trung do đông đảo những người tham gia bảo hiểm đóng góp theo
một chế độ thống nhất và bình đẳng (Quỹ dự trữ tập trung mang tính cộng đồng ). Quỹ này
được lập bằng tiền do những tổ chức, cá nhân có cùng khả năng gặp những biến cố nào đó
đóng góp, tạo lập quỹ. Nó được sử dụng để phòng ngừa và bù đắp những tổn thất cho các tổ
chức, cá nhân tham gia lập quỹ khi có sự kiện bảo hiểm xuất hiện. Phương thức tạo lập và sử
dụng quỹ này trên nguyên tắc ” lấy số đông bù cho số ít ” nên nó mang tính kinh tế, tính xã hội
cao. Bởi vì: Giúp cho người tham gia bảo hiểm khắc phục nhanh chóng những thiệt hại, đảm
bảo cho quá trình sản xuất và đời sống phát triển bình thường. Nó là biện pháp dự trữ bảo hiểm
có hiệu quả kinh tế cao nhất, có khả năng thanh toán nhanh, bù đắp lớn. Đối với mỗi cá nhân
hàng năm chỉ phải chi ra một lượng tiền nhỏ để đóng phí bảo hiểm, không ảnh hưởng đến đời
sống của mình. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thì phí bảo hiểm là một chi phí xã hội
cần thiết nó được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Nếu đem số phí đó phân ra theo từng đơn
vị sản phẩm và phân bổ cho cả năm tài chính thì số phí baỏ hiểm phải gánh chịu trên một đơn
vị sản phẩm là không đáng kể. Trong trường hợp có xảy ra rủi ro thì người tham gia bảo hiểm
được đền bù toàn bộ hay một phần thiệt hại, vốn kinh doanh được bảo toàn, đời sống ổn định.
Hình thức dự trữ bảo hiểm này sẽ đáp ứng một cách đầy đủ, linh hoạt nhất đối với mọi nhu cầu
đa dạng của mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Dưới góc độ kinh tế tài chính thì bảo hiểm là phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do
những tổ chức, cá nhân có cùng khả năng gặp những sự cố nào đó đóng góp và để từ quỹ đó sử
dụng để đề phòng, ngăn ngừa và bù đắp những tổn thất cho những tổ chức, cá nhân tham gia
lập quỹ khi họ gặp những rủi ro bảo hiểm hoặc để thực hiện những chính sách xã hôi.
Như vậy, việc tạo lập quỹ bảo hiểm là một yếu tố, một yêu cầu không thể thiếu được để
đảm bảo cho nền kinh tế -xã hội phát triển bình thường khi gặp phải tổn thất do những yếu tố
khách quan bất ngờ gây ra. Người ta ví “không có bảo hiểm như cầu thang không có tay vịn”
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người do nhu cầu ổn định sản xuất và đời sống
các loại bảo hiểm khác nhau đã ra đời. Đặc biệt khi nền kinh tế hàng hoá phát triển nhu cầu
bảo hiểm ngày càng đòi hỏi đa dạng, con người đã đã xây dựng các quỹ dự trữ bảo hiểm khác
2
nhau. Nhưng để đạt hiệu quả kinh tế -xã hội cao trong hoạt động bảo hiểm, kinh doanh dịch vụ
bảo hiểm ra đời và nó không ngừng phát triển trong nền kinh tế hàng hoá -tiền tệ. Bảo hiểm
không chỉ đơn thuần làm lá chắn cho sự phát triển kinh tế và ổn định đời sống, mà còn thực sự
trở thành một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt để thu lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp. Hai
mục đích đó vừa là tiền đề, vừa là điều kiện để hoạt động bảo hiểm tồn tại và phát triển.
Do tính chất đa dạng của các loại rủi ro xâm hại đến lợi ích của nhiều chủ thể đòi hỏi
phải có nhiều loại hình bảo hiểm:
– Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm có bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người, bảo hiểm
TNDS;
-Căn cứ vào tính chất pháp lý trong baỏ hiểm có bảo hiểm bắt buộc bảo hiểm tự
nguyện;
* căn cứ vào tính chất, phương thức và mục đích sử dụng các loại quỹ bảo hiểm tập
trung mang tính cộng đồng, người ta chia bảo hiểm thành hai loại bảo hiểm mang tính kinh
doanh và bảo hiểm phi kinh doanh:
Bảo hiểm không mang tính kinh doanh là loại hình bảo hiểm do nhà nước thực hiện
nhằm thực hiện chính sách kinh tế xã hội. Nó đặt dưới sự bảo trợ của nhà nước, Mục đích của
hoạt động bảo hiểm này không đặt ra mục tiêu kinh doanh lấy lợi nhuận. Loại hình bảo hiểm
phi kinh doanh ở nước ta hiện nay là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi …
Bảo hiểm có tính kinh doanh là hoạt động bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm thực
hiện thông qua việc lập quỹ bảo hiểm từ nguồn thu phí bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân tham
gia, sau đó quỹ này được sử dụng để bồi thường, chi trả cho các trường hợp thuộc diện được
bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm.
Nếu so sánh giữa bảo hiểm không mang tính kinh doanh mà điển hình là bảo hiểm xã
hội với loại hình kinh doanh bảo hiểm thì giữa chúng có những diểm giống nhau đó là: chúng
đều có mục đích giúp ổn định kinh tế, đảm bảo đời sống, khắc phục khó khăn do nguyên nhân
khách quan gây ra. Người tham gia đều có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm. Bên cạnh đó,
chúng có điểm khác nhau cơ bản sau:
Nội dung
ph
ân
biệ
t
Bản chất
Bảo hiểm xã hội (một loại hình bảo
hiểm không mang tính kinh doanh)
Kinh doanh bảo hiểm
Là một chính sách thuộc lĩnh vực đảm Là một dịch vụ tài chính xuất phát
bảo xã hội của một nhà nước
từ nhu cầu được bảo vệ, ngoài sự
đảm bảo chung của xã hội
Đối tượng Là người lao động, người làm công, ăn Con người, tài sản, trách nhiệm dân
bảo hiểm
lương
sự
Phạm vi
bảo hiểm
Trong giới hạn một quốc gia
Vượt ra ngoài phạm vi quốc gia(Tái
bảo hiểm ).
3
Nguồn
Chủ yếu huy động sự đóng góp của Được tạo lập từ sự đóng góp phí
hình thành người lao động,người sử dụng lao động của tổ chức, cá nhân có nhu cầu
quỹ
và có thể một phần trợ cấp từ ngân được bảo hiểm.
sách.
bảo hiểm
Mục đích
sử
quỹ
Để trợ cấp cho người lao động khi họ Chi bồi thường cho những tổ chức,
dụng tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao cá nhân tham gia gặp rủi ro thuộc
động.
phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
Không vì lợi nhuận mà vì quyền lợi của Nhằm mục tiêu kinh doanh lấy lợi
người Lao động và của cả cộng đồng.
nhuận
thể Do cơ quan nhà nước quản lý theo quy
quỹ chế chung thống nhất.
Doanh nghiệp bảo hiểm
Luật điều Bộ luật lao động và VBPL về bảo hiểm Luật kinh doanh bảo hiểm
chỉnh
xã hội khác
2/ Khái niệm chung về kinh doanh bảo hiểm
Theo nghĩa rộng kinh doanh bảo hiểm là hoạt động có mục đích sinh lời của các chủ thể
kinh doanh trên thị trường bảo hiểm để nhằm tới việc ký kết và thực hiện tốt được các hợp
đồng bảo hiểm.
Tại Điều 3, Luật kinh doanh BH năm 2000: “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi
ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh
nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho ngươì được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Một số khái niệm được sử dụng trong định nghĩa trên được pháp luật giải thích như sau:
– Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp
bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm
hoặc người thụ hưởng.
– Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng
được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ
hưởng.
– Người thụ hưởng bảo hiểm là tổ chức cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để
nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
-Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định
mà khi có sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm.
4
5
6
Doanh nghiệp bảo hiểm
–
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
–
Đại lý bảo hiểm
7
* Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm; Bao gồm tất cả quy định chung về hợp đồng bảo
hiểm
* Pháp luật về chế độ bảo hiểm cụ thể
–
PL về bảo hiểm con người
–
Pl về bảo hiểm tài sản
–
PL về bảo hiểm trách nhiệm dân sự
2.3. Các nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm.
Tại điều 6 Luật kinh doanh bảo hiểm có quy định các nguyên tắc cơ bản trong kinh
doanh bảo hiểm gồm:
Thứ nhất, tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm phải tham gia bảo hiểm tại doanh
nghiệp bảo hiểm được thành lập và hoạt động tại Việt Nam
Việc đặt ra nguyên tắc này nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, tạo điều kiện cho sự phát triển
lành mạnh và lâu dài của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đồng thời bảo đảm sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và tập quán quốc tế.
Tuy nhiên do thực trạng phát triển của thị trường bảo hiểm ở Việt Nam chưa đáp ứng được hết
nhu cầu bảo hiểm của xã hội, Tại Điều 3 Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của
luật kinh doanh bảo hiểm có quy định về điều kiện, nguyên tắc tham gia bảo hiểm:
1. Tổ chức, cá nhân muốn hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm,
hoạt động môi giới bảo hiểm tại việt nam phải được bộ tài chính cấp giấy phép thành lập và
hoạt động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm.
2. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm có quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm và
chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại việt nam.
không một tổ chức, cá nhân nào được phép can thiệp trái pháp luật đến quyền lựa chọn doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm của bên mua bảo hiểm.
Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo
hiểm không có trụ sở ở Việt Nam trong những trường hợp: Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt
động ở Việt Nam chưa cung cấp được loại sản phẩm bảo hiểm mà tổ chức, cá nhân có nhu cầu
tham gia bảo hiểm hoặc theo quy định của các điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã ký
kết hoặc tham gia. Hợp đồng bảo hiểm được giao kết giữa các tổ chức, cá nhân Việt Nam với
doanh nghiệp bảo hiểm không có trụ sở ở Việt Nam trái với các quy định trên đều bị coi là vô
hiệu.
Thứ hai, Doanh nghiệp bảo hiểm phải duy trì khả năng tài chính phù hợp với quy mô
kinh doanh của mình để bảo vệ quyền lợi của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm.
Với tính chất là hoạt động kinh doanh rủi ro và mang tính xã hội hoá cao, với vai trò
quan trọng của kinh doanh bảo hiểm đối với nền kinh tế và sự ổn định của đời sống xã hội việc
bảo đảm khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm để bảo đảm quyền lợi cho các tổ chức,
cá nhân tham gia bảo hiểm là rất quan trọng, bởi nó không chỉ tạo uy tín tạo ra khả năng kinh
doanh có hiệu quả cho doanh nghiệp bảo hiểm mà nó còn có ý nghĩakinh tế xã hội lớn. Với
việc quy định nguyên tắc chung cơ bản này trong Luật kinh doanh bảo hiểm, để trên cơ sở đó
8
9
kho¶n 5 ®iÒu 3 luËt kinh doanh b¶o hiÓm n¨m 2000.
10
doanh nghiệp bảo hiểm phải xây dựng các quỹ dự phòng để bảo đảm các cam kết của mình
trước những người tham gia bảo hiểm khi có các sự cố bảo hiểm xảy ra. Các quỹ này là nguồn
quan trọng để tham gia đầu tư nhằm tăng khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng
phải đảm bảo nguyên tắc tính an toàn, tính sinh lời, và tính thanh khoản của các khoản vốn đầu
tư. Thông thường thì tính bồi thường tổn thất thực tế cho người được bảo hiểm trong một hợp
đồng bảo hiểm thường rất lớn, lớn gấp nhiều lần so với số phí bảo hiểm đã đóng. Vì thế, để
đảm bảo và ổn định nguồn tài chính cho việc bù đắp tổn thất, trong hoạt động bảo hiểm phải
áp dụng nguyên tắc lấy số đông bù số ít, tức là phải cung cấp nhiều sản phẩm bảo hiểm cho
nhiều loại khách hàng, trên nhiều vùng thị trường khác nhau… để lấy phí bảo hiểm đóng góp
từ nhiều người nhằm bù đắp cho một số ít người gặp rủi ro. Trên thực tế, đối với những hợp
đồng có giá trị lớn hoặc trường hợp có khả năng doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho
nhiều người được bảo hiểm trong cùng một sự cố, để giảm bớt trách nhiệm tài chính đối với
rủi ro bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm thường phải thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm hoặc
đồng bảo hiểm. Mặt khác, để giảm bớt chi phí bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm phải tăng
cường giám sát các biện pháp phòng ngừa hạn chế tổn thất bảo hiểm.
Thứ hai, Doanh nghiệp bảo hiểm được tổ chức thành lập và hoạt động theo các qui định
của Luật kinh doanh bảo hiểm và các qui định khác của pháp luật. Xuất phát từ tính chất đặc
thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được coi là một tổ chức kinh
doanh ngành nghề đặc biệt, nên pháp luật phải có những qui định riêng áp dụng cho doanh
nghiệp bảo hiểm, đó là Luật kinh doanh bảo hiểm. Trong việc tổ chức thành lập và hoạt động
của mình doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo Luật kinh doanh bảo hiểm.
Tuy nhiên, bên cạnh việc áp dụng các qui định trong Luật kinh doanh bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm còn phải tuân thủ theo các qui định khác của pháp luật trong hệ thống pháp
luật Việt Nam – nếu như vấn đề nào đó Luật kinh doanh bảo hiểm không quy định, không điều
chỉnh trực tiếp …Chẳng hạn doanh nghiệp bảo hiểm là công ty cổ phần thì việc tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp phải tuân theo các qui định trong Luật kinh doanh bảo hiểm đồng
thời còn phải tuân thủ các qui định dành cho công ty cổ phần quy định Luật doanh nghiệp …
Thứ ba, Doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài Chính. Để quản lý
hoạt động kinh doanh bảo hiểm hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giao cho một cơ quan
quản lý nhà nước nhất định. Một số nước ở Châu á như Singapor, Philipin, cơ quan quản lý
nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm có tên gọi là Uỷ ban giám sát bảo hiểm. Các nước
khác như Anh, Nhật Bản, cơ quan này là một phòng trực thuộc vụ quản lý các ngân hàng.
ở Việt Nam, công tác quản lý nhà nước về hoạt động bảo hiểm được Chính phủ giao
cho Bộ Tài chính thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác bảo hiểm. Trước đây do tính độc
quyền trong kinh doanh bảo hiểm, lúc đó Bộ tài chính đã giao cho Bảo Việt thực hiện hai chức
năng quản lý và trực tiếp kinh doanh bảo hiểm. Sau khi đất nước ta chuyển đổi sang kinh tế thị
trường thì để đáp ứng yêu cầu quản lý trong cơ chế kinh tế này, ngày 15 tháng 5 năm 1992 Bộ
trưởng Bộ tài chính đã ra quyết định số 223TC/ QĐ- BTC thành lập phòng quản lý bảo hiểm
trực thuộc vụ tài chính ngân hàng và tổ chức tài chính, Như vậy, bằng qui định trên Bộ Tài
Chính đã tách chức năng quản lý và chức năng kinh doanh bảo hiểm của Bảo Việt. Từ thời
điểm đó cho đến nay Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ trực tiếp thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Điều này đã được Luật kinh doanh bảo
hiểm qui định cụ thể: “Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính Phủ thực hiện quản lý nhà
nước về kinh doanh bảo hiểm “(Khoản 2, Điều 121)
11
Đây là đặc điểm giúp ta phân biệt doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp khác trong
nền kinh tế. Bởi vì, trong khi các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực ngành nghề khác
chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước khác như các tổ chức tín dụng chịu sự quản
lý nhà nước trực tiếp của Ngân hàng nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán
chịu sự quản lý nhà nước của Uỷ ban chứng khoán nhà nước …
1.2. Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung lĩnh vực bảo hiểm rủi ro là lĩnh vực độc
quyền của nhà nước (gọi tên là bảo hiểm nhà nước). ở nước ta chỉ duy nhất có Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam (bảo Việt). Cơ quan “Bảo Việt” thực hiện đồng thời cả hai chức năng quản
lý nhà nước và kinh doanh bảo hiểm rủi ro. Chuyển sang cơ chế kinh tế mới – cơ chế kinh tế
thị trường, Nhà nước không còn giữ độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm rủi ro mà cho phép các
thành phần kinh kế được tham gia kinh doanh bảo hiểm-. Nhà nước có phân định rạch ròi giữa
chức năng quản lý và chức năng kinh doanh trong bảo hiểm rủi ro – Thị trường bảo hiểm đã
hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội. Nhiều loại hình doanh
nghiệp bảo hiểm ra đời, sản phẩm bảo hiểm phát triển rất đa dạng để đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Vì vậy, việc phân loại các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm là rất cần thiết. Có nhiều tiêu
chí để phân loại doanh nghiệp bảo hiểm, mỗi cách phân loại có ý nghĩa và mục đích riêng.
* Nếu căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ trong doanh nghiệp bảo hiểm (cách phân
loại này theo Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 chưa sửa đổi bổ sung) thì có các loại hình
doanh nghiệp bảo hiểm sau:
– Doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước là một tổ chức kinh doanh bảo hiểm do nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, thực hiện kinh doanh bảo hiểm và thực hiện những
nhiệm vụ nhà nước giao. Bên cạnh việc áp dụng các qui định của Luật kinh doanh bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước còn phải tuân thủ các qui định trong các văn bản pháp luật
dành riêng cho doanh nghiệp nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta những doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước
nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm, tạo điều kiện khuyến khích phát triển để nó trở thành thành phần kinh tế chủ đạo trong
những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
– Công ty cổ phần bảo hiểm: là loại doanh nghiệp bảo hiểm trong đó các thành viên
cùng góp vốn để kinh doanh bảo hiểm, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với
phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn
góp của mình góp vào công ty.Thực chất thì công ty cổ phần bảo hiểm là những công ty cổ
phần kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm. Việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần bảo
hiểm luôn chịu sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật doanh nghiệp.
– Tổ chức bảo hiểm tương hỗ; Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp
nhân được thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành
viên. Thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ sở hữu vừa là bên mua bảo hiểm”.
Theo quy định của pháp luật hiện hành,Thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ là Tổ chức,
công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoạt động trong
cùng một lĩnh vực, ngành nghề, có nhu cầu bảo hiểm đều có quyền tham gia thành lập tổ chức
bảo hiểm tương hỗ với tư cách là thành viên sáng lập. Chỉ các tổ chức, cá nhân giao kết hợp
đồng bảo hiểm với tổ chức bảo hiểm tương hỗ mới có thể trở thành thành viên của tổ chức bảo
12
hiểm tương hỗ. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ do Chính
phủ quy định.
Trên thế giới, phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm được tổ chức dưới hình thức công ty
bảo hiểm tương hỗ. Đây là loại hình doanh nghiệp được thành lập nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các thành viên, mục đích kinh doanh chỉ là thứ yếu. ở Việt Nam, thị trường bảo
hiểm mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển thì đây là một mô hình mới, chưa hề có một tổ chức
bảo hiểm tương hỗ nào tồn tại trên thực tế. Việc qui định loại hình doanh nghiệp bảo hiểm này
ở Việt Nam hiện nay là cần thiết, phù hợp với tính chất và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam.
Bởi vì đối với một số lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản tại Việt
Nam là những lĩnh vực mà ta có thế mạnh mà các doanh nghiệp bảo hiểm hiện chưa phục vụ
được hoặc hoạt động không có hiệu quả. nếu chúng ta có doanh nghiệp bảo hiểm tương hỗ
trong những lĩnh vực như vậy có nhiều lợi thế. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn
bản qui phạm về tổ chức bảo hiểm tương hỗ là hết sức cần thiết, tạo điều kiện để loại hình
doanh nghiệp này phát triển.
Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài (gồm doanh nghiệp bảo hiểm liên
doanh; Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài). Là doanh nghiệp bảo hiểm
được thành lập có một phần vốn hoặc 100% vốn điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài để kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam là pháp nhân Việt Nam hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
-Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh: Là doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập trên cơ
sở góp vốn của bên Việt Nam và bên nước ngoài. (Tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam trong
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh không được thấp hơn
30% vốn điều lệ.)
Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài: Là doanh nghiệp bảo hiểm do tổ
chức bảo hiểm nước ngoài đầu tư 100% vốn, thành lập tại Việt Nam. Doanh nghiệp này hoàn
toàn do chủ đầu tư là bên nước ngoài sở hữu và kiểm soát, không có sự tham gia của bên Việt
Nam.
Theo pháp luật hiện hành, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài không bị
hạn chế về nội dung, phạm vi hoạt động khi bán sản phẩm bảo hiểm cho các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức và cá nhân nước ngoài; các doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
các sản phẩm phục vụ cho những chương trình phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp
và bảo hiểm rủi ro tài chính, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc mở rộng nội
dung, phạm vi hoạt động sẽ được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, phù hợp với nhu
cầu phát triển thị trường và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Cụ thể:
Trong năm hoạt động đầu tiên, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được
phép mở một chi nhánh ngoài trụ sở chính để tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sau 3
năm kể từ khi hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu
tư nước ngoài được phép mở thêm 2 chi nhánh để tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm,
môi giới bảo hiểm. Sau 5 năm kể từ khi hoạt động, việc mở thêm chi nhánh của doanh nghiệp
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo nhu
cầu phát triển thị trường và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Theo điều 59 Luật kinh doanh bảo hiểm được sửa đổi bổ sung năm 2010 quy định:
Các tổ chức kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
13
– Công ty cổ phần bảo hiểm.
– Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm.
– Hợp tác xã bảo hiểm.
– Tổ chức bảo hiểm tương hỗ.
* Căn cứ vào nghiệp vụ bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện thì các
doanh nghiệp bảo hiểm được chia thành hai loại là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
– Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ là chế độ bảo hiểm cho tuổi thọ con người. Mặc dù đối tượng bảo
hiểm nhân thọ là con người, nhưng so với các loại hình bảo hiểm con người khác nó có một số
dâú hiệu đặc trưng sau: bảo hiểm nhân thọ thời hạn hợp đồng dài và luôn có tính đền bù. Bảo
hiểm nhân thọ là sự kết hợp giữa hình thức bảo hiểm và hình thức tiết kiệm vừa là hình thức
đầu tư.
Do thời hạn bảo hiểm dài, mức phí bảo hiểm thường lớn, pháp luật có quy định cho phù
hợp với tính chất và đặc điểm của loại hình nghiệp vụ bảo hiểm này, nhằm bảo vệ quyền lợi
cho các bên tham gia quan hệ bảo hiểm. Chẳng hạn các quy định về đóng phí bảo hiểm của
bên mua bảo hiểm, hoặc pháp luật quy định về vấn đề đầu tư vốn của loại hình doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ có sự khác biệt với hoạt động đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ để bảo vệ sự an toàn trong thanh toán, tính hiệu quả trong hoạt động đầu tư cho
doanh nghiệp bảo hiểm, bảo vệ quyền, lợi ích cho người tham gia bảo hiểm và cho cả doanh
nghiệp bảo hiểm…
– Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ là doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm
phi nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và
các nghiềp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ.
Do sự khác nhau về tính chất, đặc điểm của mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm trên mà Điều
60 khoản 2 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định ” Doanh nghiệp bảo hiểm không được phép
đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, trừ trường hợp doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con
người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ”. Vì thế trong các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ta hiện
nay có hai loại hình doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ. Chúng khác nhau không chỉ về tên gọi, nghiệp vụ kinh doanh
mà trong những chế độ cụ thể, pháp luật có những quy định cho chúng khác nhau, đặc biệt là
trong chế độ tài chính đối với hai loại hình doanh nghiệp bảo hiểm này .
1.3 Quy chế cấp giấy phép thành lập hoạt động, kiểm soát đặc biệt, giải thể, phá
sản doanh nghiệp bảo hiểm,
Pháp luật hiện hành có quy định về điều kiện và thủ tục để được cấp giấy phép thành
lập và hoạt động đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong đó có một số điều kiện quan trọng
như điều kiện về vốn điều kiện về nhân sự như:
– Không thuộc các đối tượng bị cấm theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật Doanh
nghiệp;
14
– Phải có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định của
Chính phủ (kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300 tỷ đồng Việt Nam; Kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ: 600 tỷ đồng Việt Nam);
– Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ về bảo
hiểm…cụ thể: Chủ tịch Hội đồng quản trị của doanh nghiệp bảo hiểm phải là người có uy tín,
đạo đức nghề nghiệp và kinh nghiệm về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tổng giám đốc
(Giám đốc) của doanh nghiệp bảo hiểm phải là người có uy tín, đạo đức nghề nghiệp, có thực
tiễn quản lý kinh doanh hay quản lý nhà nước về bảo hiểm ít nhất 3 năm và phải thường trú tại
Việt Nam trong thời gian đương nhiệm…
– Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều 64 của Luật
này;
– Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật;
* Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đầu tư thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100%
vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh giữa doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài với doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện sau:
– Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho
phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành tại Việt Nam;
– Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động hợp pháp ít nhất 10 năm theo quy
định của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính tính tới thời điểm nộp hồ sơ xin cấp Giấy
phép;
– Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có tổng tài sản tối thiểu tương đương 2 tỷ đô la
Mỹ vào năm trước năm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép;
– Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không vi phạm nghiêm trọng các quy định về hoạt
động kinh doanh bảo hiểm và các quy định pháp luật khác của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ
sở chính trong vòng 3 năm liền kề năm nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép.
* Về Hồ sơ xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động thực hiện theo quy định tại Luật
Doanh nghiệp, Điều 64 của Luật Kinh doanh bảo hiểm cụ thể hoá trong 7 NĐ bao gồm:
a) Đơn xin cấp Giấy phép thành lập và hoạt động theo mẫu do Bộ Tài chính quy định;
b) Dự thảo điều lệ doanh nghiệp phù hợp với quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật
Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành. Dự thảo Điều lệ doanh nghiệp phải
có đầy đủ chữ ký của người đại diện theo pháp luật, của các cổ đông sáng lập hoặc người đại
diện theo uỷ quyền của cổ đông sáng lập;
c) Danh sách cổ đông sáng lập và các giấy tờ kèm theo
d) Xác nhận của ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam về mức vốn điều lệ gửi
tại tài khoản phong toả mở tại ngân hàng đó;
đ) Phương án hoạt động 5 năm đầu phù hợp với lĩnh vực kinh doanh xin cấp Giấy
phép, trong đó nêu rõ phương thức trích lập dự phòng nghiệp vụ, chương trình tái bảo hiểm,
đầu tư vốn, hiệu quả kinh doanh, khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và lợi ích
kinh tế của việc thành lập doanh nghiệp kèm theo các quy trình nghiệp vụ, quy trình kiểm soát
15
16
độc lập về tình hình hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
nước ngoài nơi đóng trụ sở chính trong 3 năm gần nhất;
– Văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính:
+ Cho phép doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thành lập doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Việt Nam. Trường hợp quy định của
nước nơi doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đóng trụ sở chính không
yêu cầu phải có văn bản chấp thuận thì phải có bằng chứng xác nhận việc này;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành hoạt động ở Việt
Nam;
+ Xác nhận doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đang trong tình
trạng tài chính lành mạnh và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quản lý tại nước nơi doanh nghiệp
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đóng trụ sở chính.
Hồ sơ xin cấp Giấy phép của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
được lập thành 3 (ba) bộ trong đó có 1 (một) bộ là bản chính, 2 (hai) bộ là bản sao. Hồ sơ đề
nghị cấp Giấy phép của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu
tư nước ngoài được lập thành 3 (ba) bộ, mỗi bộ gồm 1 (một) bản bằng tiếng Việt và 1 (một)
bản bằng tiếng nước ngoài thông dụng. Các bản sao tiếng Việt và các bản dịch từ tiếng nước
ngoài ra tiếng Việt phải được cơ quan công chứng Việt Nam xác nhận theo quy định của pháp
luật về công chứng. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của hồ sơ xin cấp Giấy
phép.
Pháp luật quy định rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và thu hồi giấy phép thành
lập và hoạt động cho các doanh nghiệp bảo hiểm cụ thể: Bộ Tài chính cấp giấy phép thành lập
và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động, Bộ Tài chính phải cấp hoặc từ chối
cấp giấy phép. Trong trường hợp từ chối cấp giấy phép, Bộ Tài chính phải có văn bản giải
thích lý do. Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.
Pháp luật còn quy định: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy phép thành
lập và hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải đăng báo hàng
ngày của báo trung ương và báo địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính trong 5 số báo
liên tiếp về những nội dung chủ yếu như sau: Tên, địa chỉ trụ sở chính, Chi nhánh, Văn phòng
đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm; Nội dung, phạm vi và thời hạn hoạt động; Mức vốn điều
lệ và số vốn điều lệ đã góp; Họ, tên của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; Số
Giấy phép và ngày cấp Giấy phép thành lập và hoạt động; Các nghiệp vụ bảo hiểm, nghiệp vụ
môi giới bảo hiểm được phép kinh doanh.
Trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải hoàn tất các thủ tục cần thiết theo quy
định của pháp luật để chính thức hoạt động kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm. Nếu quá
thời hạn này mà doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm không bắt đầu hoạt
động thì bị thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động.
17
Doanh nghiệp bảo hiểm phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản khi thay đổi
một trong những nội dung sau đây: Tên doanh nghiệp; Vốn điều lệ; Mở hoặc chấm dứt hoạt
động của chi nhánh, văn phòng đại diện; Địa điểm đặt trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại
diện; Nội dung, phạm vi và thời hạn hoạt động; Chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp chiếm
10% số vốn điều lệ trở lên; Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc); Chia, tách,
sáp nhập, hợp nhất, giải thể, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp…
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động khi xảy ra
một trong những trường hợp như: Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động có thông tin
cố ý làm sai sự thật; Sau 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động mà
không bắt đầu hoạt động; Giải thể, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, phá sản, chuyển đổi hình
thức doanh nghiệp; Hoạt động sai mục đích hoặc không đúng với nội dung quy định trong giấy
phép thành lập và hoạt động; Không bảo đảm các yêu cầu về tài chính để thực hiện các cam
kết với bên mua bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài có thể bị thu hồi
giấy phép thành lập và hoạt động khi doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính
bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động.
Trong trường hợp Bộ Tài chính cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động, chấp
thuận cho doanh nghiệp bảo hiểm thay đổi một trong những nội dung quy định, Bộ Tài chính
thông báo ngay bằng văn bản kèm theo bản sao giấy phép thành lập và hoạt động, quyết định
thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động hoặc quyết định chấp thuận việc sửa đổi, bổ sung
giấy phép thành lập và hoạt động cho cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp
đặt trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm được coi là có đủ khả năng thanh toán khi
đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ theo quy định và có biên khả năng thanh toán không
thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định của Chính phủ. Trong trường hợp có
nguy cơ mất khả năng thanh toán (khi biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó thấp hơn
biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định) thì doanh nghiệp bảo hiểm phải chủ động
thực hiện ngay các biện pháp tự khôi phục khả năng thanh toán đồng thời phải báo cáo nguy cơ
mất khả năng thanh toán cho Bộ Tài chính trong đó nói rõ về thực trạng tài chính, nguyên nhân
dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán và các biện pháp khắc phục….Trong trường hợp
doanh nghiệp bảo hiểm không khôi phục được khả năng thanh toán theo phương án đã được
chấp thuận, thì Bộ Tài chính có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện khôi phục khả
năng thanh toán, gồm những biện pháp như: Bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu; Tái bảo hiểm; thu
hẹp nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động; đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động; Củng
cố tổ chức bộ máy và thay đổi người quản trị, điều hành của doanh nghiệp; Yêu cầu chuyển
giao hợp đồng bảo hiểm; Các biện pháp khác.
Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không khôi phục được khả năng thanh toán
theo yêu cầu của Bộ Tài chính thì Bộ Tài chính ra quyết định thành lập Ban kiểm soát khả
năng thanh toán để áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán của doanh nghiệp
bảo hiểm.
Ban kiểm soát khả năng thanh toán có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
– Chỉ đạo và giám sát việc triển khai thực hiện các biện phục khả năng thanh toán theo
phương án đã được chấp thuận;
18
19
Tổ chức hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bao
gồm:
– Trụ sở chính;
– Chi nhánh, sở giao dịch, hội sở, công ty thành viên hạch toán phụ thuộc (được gọi là
Chi nhánh) trực thuộc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, có nhiệm vụ
thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo
uỷ quyền;
– Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm, có nhiệm vụ đại diện theo uỷ quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ
các lợi ích đó;
– Địa điểm kinh doanh, phòng giao dịch (được gọi là địa điểm kinh doanh) là nơi hoạt
động kinh doanh cụ thể, trực thuộc Chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm muốn mở Chi nhánh, Văn
phòng đại diện phải đáp ứng các điều kiện sau:
– Vốn điều lệ thực có phải đảm bảo theo quy định của Bộ Tài chính;
– Bộ máy quản trị, điều hành và hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu
quả;
– Không vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật trong 3 năm liên tục ngay
trước năm nộp hồ sơ. Doanh nghiệp bảo hiểm không vi phạm quy định về khả năng thanh
toán;
– Có Quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện;
– Người điều hành Chi nhánh, Văn phòng đại diện có kinh nghiệm và kiến thức chuyên
môn về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và không thuộc các đối tượng bị cấm theo quy định
của pháp luật;
– Có hồ sơ xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện theo quy định
Hồ sơ xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện bao gồm:
– Đơn xin mở Chi nhánh, Văn phòng đại diện có chữ ký của người đại diện có thẩm quyền
của doanh nghiệp, trong đó trình bày tóm tắt sự cần thiết, tên gọi, địa điểm, nội dung, phạm vi hoạt
động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện;
– Phương án hoạt động 3 năm đầu của Chi nhánh, Văn phòng đại diện trong đó nêu rõ
nhu cầu khách hàng; dự báo thị trường; nội dung, phạm vi hoạt động, các sản phẩm bảo hiểm
dự kiến kinh doanh; dự kiến kết quả kinh doanh; tổ chức bộ máy, nhân sự; địa điểm đặt Chi
nhánh, Văn phòng đại diện và cơ sở vật chất kỹ thuật;
– Giấy tờ hợp lệ chứng minh doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
đáp ứng các điều kiện quy định.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Tài chính phải
trả lời bằng văn bản về việc chấp thuận hoặc từ chối chấp thuận. Trong trường hợp từ chối
chấp thuận, Bộ Tài chính phải có văn bản giải thích lý do.
20
--- Bài cũ hơn ---
Giáo Trình Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm Khái Niệm Chung Về Kinh Doanh Bảo Hiểm Quy Định Pháp Luật Về Kinh Doanh Bảo Hiểm Fahasa Bị Tố Chiêu Trò Khi Bán Sách Giá 1.000 Đồng Tiki Vàký Kết Hợp Tác Chiến Lược