Luật An Ninh Quốc Gia 2014 / Top 11 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Luật An Ninh Quốc Gia

LUẬT

AN NINH QUỐC GIA

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10; Luật này quy định về an ninh quốc gia.

Chương I Những quy định chung

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định về chính sách an ninh quốc gia; nguyên tắc, nhiệm vụ, biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân trong bảo vệ an ninh quốc gia.

Điều 2. Đối tượng áp dụng

Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập quy định khác thì áp dụng theo điều ước quốc tế đó.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

1. An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

2. Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

3. Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia là những hành vi xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

4. Nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia là những nhân tố bên trong, bên ngoài lãnh thổ Việt Nam có khả năng thực tế gây nguy hại cho an ninh quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

5. Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia là cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và đơn vị nghiệp vụ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân được giao nhiệm vụ chuyên trách làm tham mưu, tổ chức, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

6. Cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia là sĩ quan, hạ sĩ quan của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia được giao nhiệm vụ chuyên trách làm tham mưu, tổ chức, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

7. Biện pháp nghiệp vụ là biện pháp công tác của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia được thực hiện theo quy định của pháp luật.

9. Nền an ninh nhân dân là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt.

10. Thế trận an ninh nhân dân là việc tổ chức, bố trí lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và các nguồn lực cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia.

Điều 4. Chính sách an ninh quốc gia

1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

2. Nhà nước có chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị để bảo đảm an ninh quốc gia.

Điều 5. Nguyên tắc hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia

1. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

2. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia làm nòng cốt.

3. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh, quốc phòng và đối ngoại.

4. Chủ động phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

Điều 6. Xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia

1. Nhà nước xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

2. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm xây dựng lực lượng công an xã, dân quân tự vệ, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, bảo vệ dân phố, dân phòng tham gia hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

Điều 7. Bảo đảm điều kiện cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia

Nhà nước bảo đảm ngân sách và cơ sở vật chất cho các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia trong mọi tình huống, ưu tiên các địa bàn chiến lược, xung yếu, quan trọng về an ninh quốc gia; có chính sách huy động thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia.

Điều 8. Trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia

Bảo vệ an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

Điều 9. Chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia

1. Nhà nước bảo vệ, giữ bí mật cho cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia và cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia.

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia có thành tích thì được khen thưởng, bị tổn hại về danh dự thì được khôi phục, bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù; người bị thương tích, tổn hại về sức khỏe, bị thiệt hại về tính mạng thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.

Điều 10. Tuyên truyền, giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia

1. Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia.

2. Cơ quan thông tin, tuyên truyền có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật và nâng cao ý thức bảo vệ an ninh quốc gia cho toàn dân.

3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, vận động công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài bảo vệ an ninh quốc gia.

4. Giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia là một nội dung giáo dục quốc dân. Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm đưa nội dung giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia vào chương trình dạy học trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác phù hợp với ngành học, cấp học.

Điều 11. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia

Điều 12. Chính sách xử lý các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia

1. Mọi hành vi xâm phạm an ninh quốc gia đều phải bị xử lý nghiêm minh, kịp thời theo đúng quy định của pháp luật. Người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối thì bị nghiêm trị.

2. Người bị ép buộc, lừa gạt, lôi kéo nhận làm việc cho tổ chức, cá nhân để hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia mà tự thú, thành khẩn khai báo thì được khoan hồng; nếu lập công thì được khen thưởng.

3. Người nước ngoài có hành vi xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam ở ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị xử lý theo pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định.

Điều 13. Các hành vi bị nghiêm cấm

1. Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, khống chế, kích động, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo người khác nhằm chống chính quyền nhân dân, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia cắt đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

2. Nhận nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân để hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tham gia, giúp sức, cung cấp tài chính, vũ khí, phương tiện cho các tổ chức, cá nhân hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

3. Thu thập, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng, tiết lộ, cung cấp, tán phát trái phép tin tức, tài liệu, vật phẩm thuộc bí mật nhà nước.

4. Xâm phạm mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.

5. Chống lại hoặc cản trở cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

6. Lợi dụng việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

CHƯƠNG II BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA

Điều 14. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia

1. Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

2. Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hoá, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

3. Bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia.

4. Bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.

5. Phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và loại trừ các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia.

Điều 15. Các biện pháp cơ bản bảo vệ an ninh quốc gia

1. Các biện pháp cơ bản bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học – kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang.

2. Nội dung, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và trách nhiệm áp dụng các biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này do pháp luật quy định.

Điều 16. Xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân

1. Vận động toàn dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; giáo dục, động viên cán bộ, công chức, người lao động và mọi công dân tham gia xây dựng địa phương, cơ quan, tổ chức vững mạnh; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

2. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch bảo vệ an ninh quốc gia gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại và kết hợp chặt chẽ với xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

3. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia; xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ an ninh quốc gia.

4. Xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia vững mạnh; xây dựng các phương án và tổ chức, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia trong mọi tình huống.

Điều 17. Quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ an ninh quốc gia

1. Tham gia lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

2. Tố cáo hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, hành vi lợi dụng việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

3. Phát hiện, kiến nghị với chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia khắc phục sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia.

5. Thực hiện yêu cầu của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

6. Giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan và người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

Điều 18. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong bảo vệ an ninh quốc gia

1. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Điều 14 của Luật này và các quy định khác của pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia.

2. Thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, huy động sức mạnh của cơ quan, tổ chức để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia; đưa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia vào chương trình, kế hoạch và các hoạt động chuyên môn của cơ quan, tổ chức.

3. Giáo dục, động viên mọi thành viên của cơ quan, tổ chức mình và nhân dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia.

5. Thực hiện yêu cầu của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

Điều 19. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong bảo vệ an ninh quốc gia

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, động viên nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia; giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia của tổ chức, cá nhân.

Điều 20. Bảo vệ an ninh quốc gia khi có tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh

Khi có tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh, việc bảo vệ an ninh quốc gia được thực hiện theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh.

Hội đồng quốc phòng và an ninh có trách nhiệm động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao.

Điều 21. Áp dụng một số biện pháp cần thiết khi có nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp

1. Khi có nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp, Thủ tướng Chính phủ được quyết định áp dụng một số biện pháp sau đây:

a) Tăng cường bảo vệ các mục tiêu quan trọng;

b) Tổ chức các trạm canh gác để hạn chế hoặc kiểm soát người, phương tiện hoạt động vào những giờ nhất định, tại những khu vực nhất định;

c) Thực hiện kiểm soát đặc biệt tại các cửa khẩu, các chuyến vận chuyển bằng đường hàng không, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường sắt và đường bộ;

d) Hạn chế hoặc tạm ngừng việc vận chuyển, sử dụng chất cháy, chất nổ, chất độc, hoá chất độc hại, chất phóng xạ thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển, sử dụng các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ;

đ) Cấm, giải tán hoặc hạn chế các cuộc tụ tập đông người và những hoạt động của cá nhân, tổ chức xét thấy có hại cho an ninh quốc gia;

e) Hạn chế hoặc tạm ngừng hoạt động của nhà hát, rạp chiếu phim và nơi sinh hoạt công cộng khác;

g) Kiểm soát việc sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc tại một địa phương hay khu vực nhất định;

h) Buộc người có hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia rời khỏi các khu vực quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng hoặc không được rời khỏi nơi cư trú;

i) Huy động nhân lực, vật lực để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải chấp hành các mệnh lệnh, quyết định của cơ quan và người thi hành các biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này.

CHƯƠNG III CƠ QUAN CHUYÊN TRÁCH BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA

Điều 22. Các cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia

1. Các cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm:

a) Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh vệ Công an nhân dân;

b) Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo Quân đội nhân dân;

c) Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia ở khu vực biên giới trên đất liền và khu vực biên giới trên biển.

2. Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, phạm vi trách nhiệm hoạt động và quan hệ phối hợp của các cơ quan quy định tại khoản 1 Điều này do pháp luật quy định.

Điều 23. Nhiệm vụ của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia

1. Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia thực hiện nhiệm vụ quy định tại Điều 14 của Luật này.

2. Các nhiệm vụ cụ thể của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia:

a) Tổ chức thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình và đề xuất các chủ trương, giải pháp, phương án bảo vệ an ninh quốc gia;

b) Hướng dẫn, kiểm tra cơ quan, tổ chức và công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ bí mật nhà nước, xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn, xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc;

c) Tổ chức, chỉ đạo công tác phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia;

d) Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào công tác bảo vệ an ninh quốc gia;

đ) Thực hiện hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập trong phòng, chống hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

Điều 24. Quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia

1. Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia được quyền:

a) Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ theo quy định của pháp luật;

d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông, hải quan bóc mở hoặc giao thư tín, điện tín, bưu phẩm, bưu kiện, hàng hoá để kiểm tra khi có căn cứ xác định trong đó có thông tin, tài liệu, chất nổ, vũ khí, vật phẩm khác có nguy hại cho an ninh quốc gia;

e) Trưng dụng theo quy định của pháp luật phương tiện thông tin, phương tiện giao thông, phương tiện khác và người đang sử dụng, điều khiển phương tiện đó trong trường hợp cấp bách để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia hoặc để ngăn chặn hậu quả thiệt hại cho xã hội đang xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra;

g) Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc sử dụng phương tiện thông tin liên lạc hoặc các hoạt động khác trên lãnh thổ Việt Nam khi có căn cứ xác định các hoạt động này gây nguy hại cho an ninh quốc gia; yêu cầu ngừng các chuyến vận chuyển bằng các loại phương tiện giao thông của Việt Nam hoặc các phương tiện giao thông của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam để bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm an toàn cho các phương tiện đó;

h) Áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người cộng tác, người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia.

2. Thủ trưởng cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia quyết định việc sử dụng các quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều này theo thủ tục, thẩm quyền do Chính phủ quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định của mình.

3. Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia có trách nhiệm:

a) Tiến hành các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật;

b) Tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; trong trường hợp vì yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia phải hạn chế các quyền và lợi ích đó thì phải được người có thẩm quyền quyết định;

c) Giữ bí mật về sự giúp đỡ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia.

Điều 25. Quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia

1. Cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia trong khi thực hiện nhiệm vụ được quyền:

a) Thực hiện các quyền quy định tại khoản 1 Điều 24 của Luật này theo quyết định của người có thẩm quyền của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia;

b) Giữ bí mật về nhân thân, lai lịch, nhiệm vụ và phương tiện thực hiện nhiệm vụ;

c) Miễn thủ tục hải quan đối với tài liệu, phương tiện nghiệp vụ mang theo khi nhập cảnh, xuất cảnh qua biên giới, cửa khẩu;

d) Xuất trình giấy chứng minh an ninh trong trường hợp cần thiết để yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân giúp đỡ.

2. Chính phủ quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền thực hiện các quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, các quy tắc nghiệp vụ chuyên môn, kỷ luật của lực lượng vũ trang nhân dân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những việc làm của mình.

Điều 26. Trang bị và sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ của cán bộ, chiến sĩ cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia

Cán bộ, chiến sĩ cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia được trang bị và sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

Điều 27. Chế độ quản lý thông tin, tài liệu, đồ vật về bảo vệ an ninh quốc gia

2. Thông tin, tài liệu, đồ vật quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị lịch sử, khoa học và công nghệ đã được công bố theo quy định của pháp luật thì có thể được chuyển giao cho cơ quan lưu trữ nhà nước quản lý.

Điều 28. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia

Cán bộ, chiến sĩ cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia được tuyển chọn, bồi dưỡng, đào tạo, được phong, thăng hàm, cấp lực lượng vũ trang nhân dân và hưởng chế độ, chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.

CHƯƠNG IV QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN NINH QUỐC GIA

Điều 29. Nội dung quản lý nhà nước về an ninh quốc gia

1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch, phương án bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm điều kiện cần thiết cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia.

3. Chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia.

4. Tổ chức bộ máy, trang bị phương tiện, đào tạo cán bộ làm công tác bảo vệ an ninh quốc gia; bồi dưỡng kiến thức bảo vệ an ninh quốc gia cho cán bộ chủ chốt của các cơ quan, tổ chức; xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình giáo dục về bảo vệ an ninh quốc gia; xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia.

5. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia.

6. Hợp tác quốc tế về bảo vệ an ninh quốc gia.

Điều 30. Thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia

1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia.

2. Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia.

Điều 31. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia

Bộ Quốc phòng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu trách nhiệm trước Chính phủ phối hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia; chỉ đạo các lực lượng thuộc quyền phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an nhân dân và chính quyền địa phương để bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.

Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an với Bộ Quốc phòng trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quy định.

Điều 32. Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia

Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an với Bộ Ngoại giao trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quy định.

Điều 33. Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia

Điều 34. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia

CHƯƠNG V ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 35. Hiệu lực thi hành

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2005.

Những quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ.

Điều 36. Hướng dẫn thi hành

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004.

Dự Án Luật An Ninh Mạng: Tăng Cường An Ninh Quốc Gia

Đây là ý kiến của Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình dự án Luật An ninh mạng trước Quốc hội chiều ngày 25/10/2023 về sự cần thiết phải ban hành dự án luật này. Nhiều nguy cơ

Báo cáo trước Quốc hội, Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, hiện Việt Nam đang đối mặt với các nguy cơ đe dọa, mất kiểm soát về an ninh mạng, an toàn thông tin mạng với nhiều hình thức, phương thức khác nhau. Các cuộc tấn công mạng có quy mô lớn, cường độ cao với mục tiêu hướng tới là hạ tầng mạng, hệ thống điều khiển, truyền dẫn… của các cơ sở quan trọng về kinh tế, quốc phòng an ninh; nguy hiểm hơn, thông qua không gian mạng, chúng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, phá hoại tư tưởng, chuyển hóa chế độ chính trị nước ta.

Tấn công mạng có thể diễn ra theo kiểu tự phát, đơn lẻ, theo các chiến dịch với mục đích khống chế và thu thập thông tin, khủng bố, đe dọa và tán phát các thông điệp xấu, phá hủy cơ sở hạ tầng trọng yếu quốc gia, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, thậm chí là phục vụ chiến tranh.

Theo Bộ trưởng Tô Lâm, trong bối cảnh hạ tầng, dịch vụ công nghệ, thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, ý thức người dùng hạn chế và bất cập, yếu kém trong quản lý nhà nước về an ninh, an toàn thông tin mạng thì nguy cơ mất an toàn, an ninh mạng càng cao.

“Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, phát triển công nghệ thông tin, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thực trạng, tình hình diễn ra trên không gian mạng đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác an ninh mạng trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội” – Bộ trưởng Tô Lâm báo cáo.

Đáp ứng yêu cầu mới

Theo đó, dự án luật được xây dựng nhằm mục đích: Hoàn thiện cơ sở pháp lý ổn định về an ninh mạng theo hướng áp dụng các quy định pháp luật một cách đồng bộ, khả thi trong thực tiễn thi hành; Phát huy các nguồn lực của đất nước để bảo đảm an ninh mạng, phát triển lĩnh vực an ninh mạng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh; Bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên không gian mạng, xây dựng môi trường không gian mạng lành mạnh; Triển khai công tác an ninh mạng trên phạm vi toàn quốc, đẩy mạnh công tác giám sát, dự báo, ứng phó và diễn tập ứng phó sự cố an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; Đảm bảo hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này; Nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng, hoàn thiện chính sách nghiên cứu, phát triển chiến lược, chia sẻ thông tin về an ninh mạng. Đồng thời thực hiện mở rộng hợp tác quốc tế về an ninh mạng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết.

Tiếp tục hoàn thiện

Đánh giá về Tờ trình của Chính phủ, ông Võ Trọng Việt- Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và an ninh của Quốc hội- khẳng định, trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch, một số loại tội phạm, một số đối tượng khác đã và đang sử dụng không gian mạng để thực hiện các hành vi phá hoại, trục lợi hoặc xâm phạm, đe dọa xâm phạm đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân, nhất là trong điều kiện hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin chưa đồng bộ, công tác quản lý còn nhiều sơ hở và hệ thống chính sách chưa đồng bộ, thì việc ban hành Luật An ninh mạng là rất cần thiết.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và an ninh của Quốc hội cũng cho biết, qua tổng hợp ý kiến của đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã cho ý kiến còn khác nhau về những nội dung trong dự thảo, đơn cử như tên gọi, phạm vi điều chỉnh về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng và bảo vệ các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; Đồng thời đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp thu, bổ sung, chỉnh lý những ý kiến của đại biểu đảm bảo dự thảo luật đầy đủ, toàn diện, phù hợp với các luật khác cũng như thực tiễn cuộc sống.

Miễn nhiệm 2 chức danh

Trước đó, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm đã trình bày trước Quốc hội Tờ trình về dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước; Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội – Võ Trọng Việt – trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước.

Cũng trong phiên họp chiều nay, Quốc hội đã bỏ phiếu việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải đối với ông Trương Quang Nghĩa và chức vụ Tổng Thanh tra Chính phủ đối với ông Phan Văn Sáu bằng hình thức bỏ phiếu kín. Kết quả đa số đại biểu có mặt tại hội trường đồng ý miễn nhiệm (chỉ có 1 đại biểu không tán thành và 1 đại biểu không biểu quyết).

Theo Tờ trình của Thủ tướng, ông Nguyễn Văn Thể- Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy Sóc Trăng được giới thiệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải; ông Lê Minh Khái- Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Bạc Liêu được giới thiệu giữ chức Tổng Thanh tra Chính phủ.

ĐD (tổng hợp)

An Ninh Quốc Gia Là Gì?

An ninh quốc gia là một trong những vấn đề quan trọng đáng quan tâm mỗi công dân trọng một quốc gia. An ninh quốc gia được bảo vệ thì đất nước mới ổn định, phát triển bền vững về tất cả mọi mặt.

An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc căn cứ vào khoản 1 Điều 3 Luật an ninh quốc gia 2004.

An ninh quốc gia là sử dụng các biện pháp để thực thi an ninh của một đất nước. Đây là một vấn đề cần thiết để đảm bảo duy trì sự tồn tại của một quốc gia thông qua sức mạnh kinh tế, ngoại giao, vũ trang.

Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia

Ngoài hiểu rõ an ninh quốc gia là gì, Luật Hoàng Phi xin cung cấp thêm thông tin về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, như sau:

– Bảo vệ an ninh quốc gia là bảo vệ cho chế độ chính trị của đất nước, của chế độ Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cần thiết phải thực hiện để bảo vệ chủ quyền trước sự xâm phạm của thế lực thù địch, chống phá đất nước. Đảm bảo nền độc lập dân tộc trong hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

– Bảo vệ an ninh về tư tưởng, văn hóa. Nghiêm cấm việc truyền bá tư tưởng phản động, chống đối nhà nước, thực hiện những hành động đồ trụy gây ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa dân tộc. Toàn dân luôn đoàn kết, tuân thủ theo quy định của pháp luật.

– Đảm bảo phát triển xã hội và ổn định cho xã hội qua các lĩnh vực như: kinh tế, quốc phòng, đối ngoại.

– Nhiệm vụ an ninh rất quan trọng cho các bí mật của nhà nước, bảo vệ cho các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc phòng, an ninh quốc gia.

– Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh và ngăn chặn các hoạt động xâm phạm, ảnh hưởng đến nền an ninh quốc gia.

Hành động được đánh giá xâm phạm an ninh quốc gia

Một số hành động được đánh giá xâm phạm đến nền an ninh quốc gia,như sau:

– Các đối tượng gián điệp, phản động …hoạt động với các âm mưu nhằm chống phá chống phá lại chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội:

+ Tội phạm về hình sự: sự dụng bạo lực, phá hoại tới tài sản xã hội..

+ Tội phạm về kinh tế: tham nhũng, buôn lậu…

+ Tội phạm ma túy: buôn bán và sử dụng các chất kích thích và không được pháp luật cho phép.

– Một số tệ nạn xã hội ảnh hưởng đến an ninh quốc gia như: mại dâm, ma túy, cờ bạc…

Tác giả

Nguyễn Văn Phi

CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC

1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”

Đằng Sau Luật An Ninh Quốc Gia Mới Của Trung Quốc

Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc (NPC) vào tuần này đã thông qua bộ luật An ninh quốc gia bao trùm rộng khắp và gây nhiều tranh cãi với kết quả 154 phiếu thuận, không có phiếu chống và một phiếu trắng. Luật an ninh quốc gia này sẽ có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, trừ hai đặc khu hành chính Hong Kong và Macau. Bộ luật được cho là sẽ tác động đến mọi mặt đời sống Trung Quốc vì phạm vi điều chỉnh của nó trải khắp từ chính trị, quân sự, tài chính, tôn giáo, không gian mạng và thậm chí đến cả tư tưởng.

Luật an ninh quốc gia là dự luật đầu tiên mà NPC phê chuẩn trong tổng số ba dự luật được xem xét. Hai dự luật còn lại là về tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGO) và chống chủ nghĩa khủng bố.

Ngoài đặc điểm phạm vi điều chỉnh rộng khắp, luật an ninh quốc gia nhấn mạnh phải bảo vệ an ninh quốc gia mọi nơi, bảo vệ “lợi ích quốc gia cốt lõi” kể cả ngoài khoảng không vũ trụ hoặc hai đầu Nam Cực và Bắc Cực. Tuy nhiên, các quy phạm của nó không nêu chi tiết cụ thể thế nào.

Tập trung quyền lực

Bộ luật An ninh quốc gia cũng nhấn mạnh vai trò trung tâm của Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) theo đó CCP sẽ dẫn dắt “một hệ thống lãnh đạo an ninh quốc gia uy quyền, hiệu quả và tập trung”.

Theo tờ New York Times, hầu hết các chuyên gia về pháp lý Trung Quốc đánh giá luật giống như “tuyên bố trừu tượng về các nguyên tắc mang mục đích cổ vũ mọi công dân và tổ chức Trung Quốc cảnh giác với các mối đe dọa đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc.”

Theo nhận xét của tờ South China Morning Post, luật này khẳng định vai trò còn tương đối mới của Ủy ban An ninh quốc gia Trung Quốc, vốn được thành lập từ kết quả của nghị quyết Hội nghị Trung ương ba Đảng Cộng sản Trung Quốc hồi tháng 11/2013. Đứng đầu ủy ban là Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người đang đồng thời giữ rất nhiều chức vụ quan trọng gồm chủ tịch nước, tổng bí thư, chủ tịch Quân ủy Trung ương và là lãnh đạo cao nhất của nhiều hội đồng, ủy ban và nhóm chỉ huy khác.

Phó Chủ tịch Ủy ban lập pháp của NPC, bà Zheng Shuna phát biểu rằng luật An ninh Quốc gia được thông qua vì sự cần thiết do tình hình an ninh của Trung Quốc ngày càng căng thẳng, “phức tạp hơn bao giờ hết trong lịch sử.” Cộng sản Trung Quốc muốn tập hợp sự lãnh đạo an ninh quốc gia xung quanh Tập Cận Bình và ghi nhận rằng quyền lực tập trung là tốt cho cả đảng và đất nước.

Theo Diplomat, Tập Cận Bình chắc chắn muốn một khuôn khổ pháp lý trước khi Trung Quốc có bước phát triển chính trị chưa từng thấy. Bước phát triển đó là sự chuyển đổi nền kinh tế Trung Quốc từ định hướng đầu tư nước ngoài sang hình mẫu kích cầu nội địa vì lý do tốc độ tăng trưởng đã chậm lại. Bước phát triển đó còn bao gồm sự chuyển mình của quân đội, chuyển sang vai trò toàn cầu do tranh chấp chủ quyền trong khu vực và chủ nghĩa khủng bố ở Trung Quốc.

Lợi ích quốc gia cốt lõi mở rộng

Bà Zheng Shuna phát biểu tại buổi họp báo rằng luật an ninh quốc gia “nhằm duy trì các lợi ích cốt lõi của quốc gia cũng như các lợi ích quan trọng khác”. Để bảo vệ lợi ích quốc gia cốt lõi đó, Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố trung thành với con đường phát triển hòa bình nhưng “sẽ không bao giờ từ bỏ các lợi ích của mình hoặc hy sinh các lợi ích quốc gia có tính cốt lõi.”

Zheng cho rằng khái niệm “lợi ích quốc gia cốt lõi” được thể hiện trong Điều 2 của luật An ninh quốc gia và nhắc lại, đó là “chế độ chính trị; chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế bền vững của xã hội và các lợi ích quan trọng khác.”

New York Times cho rằng “cho dù Zheng nói khái niệm đó rõ ràng thì thực sự rất mờ ám.” Từ năm 2004, quan chức Bắc Kinh bắt đầu sử dụng ngày càng nhiều từ để nhắc đến “lợi ích quốc gia cốt lõi” khi để chỉ những vấn đề mà Trung Quốc chú ý tới, từ vấn đề Đài Loan, Tây Tạng hay Tân Cương. Thậm chí, trong phát biểu kết thúc Đối thoại Kinh tế và Chiến lược Mỹ – Trung 2009, Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc còn đưa ra khái niệm “lợi ích quốc gia cốt lõi” rộng hơn của Zheng nhiều.

“Trung Quốc sẽ trích dẫn luật này, cùng với nhiều luật nội địa khác để biện minh cho những hành động” ở Biển Đông, Bonnie Glaser, cố vấn cấp cao về châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), Washington, nói. Tờ South China Morning Post cho biết quân đội Trung Quốc dự kiến tăng cường hiện diện ngoài khơi để bảo vệ “những lợi ích ở nước ngoài”, có thể sử dụng hành động quân sự nếu cần thiết.

Nhiều học giả cho rằng định nghĩa quá rộng và quá trừu tượng mà Zheng dẫn ra từ luật an ninh quốc gia sẽ càng làm cho nó không có ý nghĩa trong đối thoại ngoại giao. “Lợi ích cốt lõi không còn là khái niệm sử dụng trong ngoại giao nữa vì nó thực ra rất mơ hồ”, Zhu Feng, một giáo sư về chính sách đối ngoại của Đại học Nam Kinh, nhận định.

Tờ New York Times dẫn lại lời các tác giả là nghiên cứu viên của Ủy ban Đánh giá An ninh và kinh tế Mỹ – Trung trong một báo cáo đệ trình lên Quốc hội Mỹ, cho rằng “tuyên bố nhiều về lợi ích cốt lõi giúp cho giới hoạch định chính sách Trung Quốc có sự linh hoạt để nhấn mạnh các vấn đề đặc biệt xảy ra chứ không chỉ giới hạn ở vấn đề Đài Loan, Tây Tạng hay Tân Cương.”

Một đạo luật an ninh quốc gia mơ hồ và bao trùm như vậy sẽ giúp giới lãnh đạo Trung Quốc “một công cụ linh hoạt hơn để thực hiện ‘giấc mơ Trung Hoa'” trong bối cảnh hiện nay, Diplomat cũng có nhận định tương tự.

Minh Châu

Trung Quốc Thông Qua Luật An Ninh Quốc Gia Hong Kong

Trung Quốc đã thông qua đạo luật an ninh gây tranh cãi mang lại cho họ quyền lực mới đối với Hong Kong, làm sâu sắc thêm mối quan ngại về các quyền tự do của thành phố này.

Tháng trước Trung Quốc tuyên bố sẽ áp đặt luật an ninh quốc gia, trong đó hình sự hóa bất kỳ hành động ly khai, lật đổ, khủng bố hoặc thông đồng với các lực lượng nước ngoài.

Động thái này được đưa ra sau các cuộc biểu tình dần dà trở nên bạo động vào năm ngoái – nổ ra do một đạo luật khác – trở thành một phong trào dân chủ.

Giới chỉ trích lo ngại luật mới có thể là mối đe dọa lớn hơn đối với bản sắc của Hong Kong.

Họ cảnh báo luật này sẽ làm suy yếu nền độc lập tư pháp của Hong Kong và phá hủy các quyền tự do của thành phố, vốn không tồn tại ở Trung Quốc đại lục.

Hong Kong được Anh trao trả lại cho Trung Quốc năm 1997, nhưng với một thỏa thuận duy nhất về đảm bảo các quyền tự do nhất định.

Dự luật an ninh quốc gia đã châm ngòi cho các cuộc biểu tình ở Hong Kong và thu hút sự lên án quốc tế kể từ khi được Bắc Kinh công bố vào tháng Năm.

Nhưng Trung Quốc nói rằng luật này cần thiết để xử lý các hoạt động ly khai, lật đổ, khủng bố và thông đồng với nước ngoài – đồng thời bác bỏ những lời chỉ trích mà họ gọ là can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc.

Luật an ninh đã được thông qua nhanh chóng để có hiệu lực trước thứ Tư, đánh dấu kỷ niệm ngày Hong Kong được Anh trao trả cho Trung Quốc. Ngày này thường được đánh dấu bằng các cuộc biểu tình chính trị quy mô lớn.

Luật an ninh quốc gia đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc nhất trí thông qua vào sáng thứ Ba và dự kiến sẽ được bổ sung vào Luật cơ bản của Hong Kong cuối ngày 30/6.

Các nhà hoạt độn Nathan Law và Agnes Chow cũng nói sẽ rời khỏi đảng này.

Luật an ninh quốc gia là gì?

Trung Quốc chưa chính thức xác nhận luật an ninh quốc gia đã được thông qua, và văn bản của dự luật cũng chưa được công khai, nhưng một số chi tiết đã được tiết lộ.

Luật này quy định tội hình sự đối với bất kỳ hành động ly khai, lật đổ chính quyền trung ương, khủng bố và thông đồng với nước ngoài hoặc các lực lượng bên ngoài.

Chính phủ Hong Kong sẽ được yêu cầu thực hiện hầu hết các biện pháp cưỡng chế theo luật mới, nhưng Bắc Kinh sẽ có thể bác bỏ chính quyền Hong Kong trong một số trường hợp.