Luật Phá Sản Ở Đức / Top 14 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Bac.edu.vn

Kinh Nghiệm Sửa Đổi Luật Phá Sản Ở Singapore

Chuyện phá sản bắt nguồn từ việc một con nợ không trả được một số tiền vay nên bị một hoặc nhiều chủ nợ đưa ra tòa và buộc phải giải quyết, bán hết của cải để thanh toán nợ nần. Không trả được đầy đủ thì con nợ sẽ bị tòa phán quyết là “phá sản” và một khi đã bị liệt vào hạng này thì hầu như thông thường người ấy không còn làm ăn gì được nữa. Về mặt xã hội thì dường như mấy chữ “tán gia bại sản” đã là một dấu ấn cực kỳ xấu, khó gột rửa được và cái “gông” này sẽ bị tròng vào cổ con nợ… suốt đời!

Dĩ nhiên là trong số những con nợ bị phá sản này là những người thực sự “xấu” nghĩa là đã cố ý lường gạt bằng con đường làm ăn bất chính, nhưng cũng có những người “tốt” nhưng đã không may trong việc làm ăn nên gặp thất bại. Thông cảm với điều đó, ai cũng mong rằng những người “tốt” này cần được giúp đỡ và tạo cơ hội để họ có thể trở lại cuộc sống bình thường hầu có thể tiếp tục đóng góp cho xã hội. Vấn đề bức xúc đầu tiên của nhà làm luật là làm sao để gạn lọc những thành phần tốt, xấu một cách phân minh? Thêm vào đó, theo đà tăng tốc trên thương trường thì số vụ kiện tụng phá sản ngày càng tăng nhanh và vấn đề bức xúc thứ hai là làm sao để giúp tòa án khỏi bị “ngộp” vì không đủ phương tiện và khả năng để xét xử cho kịp.

Sửa đổi luật phá sản năm 1995

Hai điểm đặc biệt nhất trong lần sửa đổi này là: Thứ nhất, bộ luật đưa ra một khung hình mới cho phép con nợ tình nguyện đề nghị một phương cách dàn xếp trả nợ với chủ nợ, và chấp nhận để cho một đệ tam nhân đứng ra giải quyết, thay vì tất cả các đối tượng phải kéo nhau ra tòa án phá sản như trước đây.

Điểm thứ hai là việc tòa án chấp nhận trao nhiều quyền hạn hơn cho người Quản lý viên Tòa án (Official Assignee) trong quá trình thi hành án lệnh. Người “quản tòa” này là một nhân viên tòa án thuộc cấp dưới của vị thẩm phán, nay được trao quyền phán xét ai “xấu” ai “tốt” để có thể quyết định cho xóa án sau một thời gian, mà không cần phải trình lên thẩm phán như trước.

Hai điểm bổ sung này tương đối đã giúp giảm bớt gánh nặng cho tòa án, tuy nhiên dường như mọi người vẫn thích kéo nhau ra tòa mà chẳng có mấy ai chịu nhờ đến các đệ tam nhân để giúp xét xử vì chi phí tốn kém khá cao.

Bộ luật phá sản Singapore lại được sửa đổi một lần nữa vào năm 1999 nhằm mục đích khuyến khích doanh nhân liều lĩnh hơn trên thương trường và đồng thời tiếp tục duy trì một môi trường sinh hoạt có kỷ luật và đạo đức. Nói chung là nhà nước muốn giúp cho con thuyền kinh tế Singapore có thêm nhiều tay chèo liều lĩnh và tài ba, khi chuyển hướng tiến vào giai đoạn kinh tế tri thức trước mặt.

Sửa đổi luật phá sản năm 1999

Một số thay đổi mới được đưa ra trong lần bổ sung 1999 về bốn mặt sau đây:

Giúp chủ nợ và con nợ giải quyết tranh chấp theo hình thức tự nguyện dễ dàng hơn bằng cách:

Tăng thời gian đề giúp con nợ có thể thu nhập dữ liệu và trình bày đề nghị giải quyết với chủ nợ, từ 28 lên 42 ngày;

Ấn định khung giá về chi phí mà một đệ tam nhân (phải là kế toán viên hay luật sư) có thể tính để tránh những bảng giá… cắt cổ.

2. Tạo điều kiện cho người phá sản tiếp tục làm ăn

Trước đây thì trong thời gian bị phá sản, muốn tiếp tục làm ăn (làm thành viên hội đồng quản trị hoặc giám đốc trong một công ty), thì con nợ phải đệ đơn xin tòa án cứu xét rất lâu dài và khó khăn. Nay họ chỉ cần người “quản tòa” cho phép mà không cần đưa lên tòa án.

3 Giải quyết xóa án phá sản nhanh chóng và đơn giản hơn

Kể từ năm 1995, người “quản tòa” được quyền quyết đoán xóa án phá sản sau một thời gian tối thiểu là năm năm. Nay thì thời hạn này được rút xuống còn ba năm. Trước đây thì chỉ được xét tòa án với những món nợ dưới 250.000 đô-la Singapore, nay mức xét xử được nâng lên 500.000 đô-la Singapore, tăng số người có thể được xóa án lên nhiều hơn.

Thủ tục giải quyết và xin phép xóa án cũng được đơn giản hóa. Nay không còn đòi hỏi phải thông qua những cuộc hòm rườm rà của tất cả các chủ nợ mà chỉ cần qua thư từ, bưu điện. Sau khi chủ nợ chấp nhận những đề nghị thanh toán số nợ còn lại, một khi giải quyết xong nợ nần thì người “quản tòa” có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận là con nợ đã xóa án phá sản.

Trước đấy chỉ cần nợ 2.000 đô-la Singapore là người ta có thể kéo nhau ra tòa kiện phá sản. Lần sửa đổi năm 1999 nâng mức này lên 5.000 đô-la Singapore. Mục đích là để khuyến khích các đối tượng tìm cách giải quyết ôn hòa bằng những hình thức khác thay vì sẵn sàng đưa nhau ra tòa, để rồi nhiều cá nhân hoặc công ty bị tuyên bố phá sản chỉ vì những món nợ tương đối nhỏ.

Những bổ sung năm 1999 được đưa ra với một mục đích tìm cách giúp người “tốt” chẳng may sa cơ, được có cơ hội “làm lại cuộc đời” và đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên cũng đã có lắm kẻ lợi dụng lòng tốt này.

Trước khi luật phá sản được thay đổi thì “phá sản” dường như là một vũ khí quan trọng của chủ nợ. Không thanh toán sòng phẳng trong chuyện vay mượn thì chỉ với một món nợ nhỏ là con nợ có thể bị đưa ra tòa và một khi bị tuyên bố phá sản thì con nợ kể như là “thân bại danh liệt”. Với những thay đổi mới, chủ nợ nay không dễ dàng đưa con nợ ra tòa như xưa, và dù có bị phá sản, con nợ cũng có thể được phép làm ăn như thường! Không những thế, chỉ sau có ba năm là án có thể được xóa sạch! Từ nay “phá sản” dường như không còn là một hình phạt khắt khe như trước và người bị “phá sản” giờ cũng… nhởn nhơ khắp chốn!

Một hiện tượng khác đã xuất hiện, đó là việc chủ nợ chưa kịp ra tay kiện tụng thì con nợ đã vội vàng “xuất chiêu” trước với thế võ mới là… “tự phá sản”! Thật đơn giản, cứ vay mượn một số tiền thật lớn rồi ỳ ra không trả, làm đơn tự xin phá sản, thương thuyết với chủ nợ qua người “quan tòa” để chỉ trả một phần số tiền, rồi chỉ ba năm sau là có thể “làm lại cuộc đời”… Từ đó số trường hợp tự nguyện phá sản tăng vọt ở Singapore! Năm 1999 chỉ có 24 người được chấp nhận “tự phá sản”, và thành phàn này chỉ là một tỷ số không đáng kể trong tổng số án phá sản ở Singapore. Chỉ trong 8 tháng đầu năm 2003, trong số 17.640 người Singapore đang gặp kiện tụng nợ nần có 3.505 người đệ đơn xin tự phá sản ở Singapore và trong đó đã có 500 trường hợp “tự phá sản” được chính thức chấp nhận nghĩa là đã tăng 20 lần so với năm 1999. Tỷ lệ “tự phá sản” tăng vọt lên gần 15% tổng số án phá sản cả nước trong vòng 8 tháng của năm 2003. Không chỉ ở Singapore, tình hình tại Hồng Kông còn tệ hơn nữa. Năm 1998, luật phá sản được thay đổi, cho phép người phá sản được tự động xóa án sau bốn năm thay vì tám năm. Số người “tự phá sản” từ đó đã tăng vọt từ 33 (1997) lên đến 23.655 người (2002)!

Trước đà này, tháng 3/2002, Bộ Tư pháp Singapore đã cho áp dụng cách phân loại những trường hợp người tự phá sản vào hai “vùng”: “Vùng xanh” cho những người chân chính, hợp tác tốt đẹp với người “quản tòa” và trả nợ đều đặn như đã hứa, và “vùng đỏ” cho những kẻ lừa đảo không tôn trọng thỏa thuận thanh toán nợ nần. Khi đã bị liệt vào “vùng đỏ” thì rất khó để cho các “quản tòa” đề nghị xóa án, nghĩa là vấn đề xóa án sau ba năm không còn là chuyện tự động như mọi người nghĩ. Tuy vậy con số người tự phá sản cũng còn tăng mạnh, và số nợ mất đứt tại các ngân hàng Singapore trong 8 tháng đầu năm 2003 đã lên đến 116,4 triệu đô-la Singapore, tăng 48% so với vùng kỳ năm ngoái.

Vì Sao Luật Phá Sản Lại… Phá Sản?

Vì sao Luật Phá sản lại… phá sản?

Luật Phá sản hiện hành chỉ mới bảo vệ chủ nợ mà chưa quan tâm đến con nợ.

Gần 61.000 doanh nghiệp giải thể hoặc ngừng hoạt động trong năm 2013, theo Tổng cục Thống kê. Con số này khiến cho không ít người phải giật mình. Nhưng điều đáng băn khoăn là rất hiếm trường hợp tuyên bố phá sản trong khi Việt Nam đã có Luật Phá sản 2004.

Muốn phá sản cũng khó

Có nhiều lý do khiến việc tuyên bố phá sản chưa phổ biến. Một phần là do phá sản mang đến áp lực tâm lý nặng nề cho chủ doanh nghiệp khi cộng đồng chưa xem phá sản là chuyện bình thường trong kinh doanh. Thậm chí, nhiều trường hợp còn bị hình sự hóa các quan hệ dân sự. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là do Luật Phá sản hiện hành còn nhiều điểm bất hợp lý.

Cái giá phải trả quá lớn cũng chi phối đến động cơ phá sản của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp thuộc khu vực phi nhà nước sẽ bị cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp trong thời hạn từ 1-3 năm kể từ ngày công bố phá sản. Sự trừng phạt đối với lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước còn khắc nghiệt hơn khi họ vĩnh viễn không còn cơ hội sửa sai.

Một nút thắt khác là trình tự xử lý phá sản của Luật Phá sản hiện hành được cho là “quy trình ngược”, tức là xử lý tài sản trước khi tòa án tuyên bố phá sản, dẫn đến doanh nghiệp rơi vào tình trạng sống dở chết dở.

Nhìn chung, Luật Phá sản hiện hành được các chuyên gia đánh giá là chỉ mới bảo vệ và đảm bảo công bằng cho chủ nợ nhưng lại chưa thực sự quan tâm đến con nợ. Trong khi đó, trên thế giới, đặc biệt là Mỹ, pháp luật phá sản được xây dựng để bảo vệ những doanh nghiệp thua lỗ. Theo đó, những tổ chức, cá nhân kinh doanh thua lỗ được quyền mở thủ tục phá sản và được khuyến khích tiếp tục theo đuổi công việc kinh doanh sau đó.

Ở Nhật, Luật Phá sản còn quy định sự phục quyền. Công ty phá sản vào bất cứ lúc nào đều có thể yêu cầu tòa án ra lệnh phục quyền khi đáp ứng được các quy định của pháp luật. Lệnh này được ban hành sẽ hủy bỏ tất cả các quyền đòi nợ khi đã trả tiền lãi, trừ một số khoản nợ như nợ thuế, các khoản tiền phạt hình sự.

Ngoài ra, Nhật quy định tình trạng phá sản đối với pháp nhân là không có khả năng trả nợ khi khoản tiền nợ lớn hơn tài sản có của pháp nhân đó. Điều này giúp các doanh nghiệp bị mất cân đối tài chính tạm thời có thể xoay xở trả nợ nhằm tránh tình trạng phá sản hàng loạt. Trong khi đó, theo pháp luật Trung Quốc, khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán khoản nợ đến hạn thì sẽ bị xem xét khả năng phá sản.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng cần có thái độ khoan dung đối với những doanh nghiệp đăng ký mở thủ tục phá sản. Theo quan điểm kinh tế, cơ chế phá sản là quá trình phân bổ lại nguồn lực từ nơi kém hiệu quả sang nơi hiệu quả hơn. Ngược lại, để tồn tại những doanh nghiệp “chết mà chưa chôn” trở thành những “xác chết biết đi” sẽ gây ra sự hao phí nguồn lực xã hội và ách tắc trong quản lý cũng như hạn chế cơ hội phục hồi của nền kinh tế nói chung.

Kỳ vọng vào Dự thảo Luật Phá sản

Chính vì những điểm chưa hợp lý nói trên ở Luật Phá sản hiện hành mà Dự thảo Luật Phá sản đã được đưa ra bàn luận nhằm giúp doanh nghiệp “đã chết” được “chôn” và có cơ hội làm lại từ đầu.

Cụ thể, Khoản 1, Điều 5 quy định “chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đến hạn”.

Theo Công ty Luật Phước & Partners, việc bổ sung quy định về thời gian so với Luật hiện hành là một “giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp trả nợ”, còn thời hạn bao lâu tùy thuộc vào nhà làm luật khi cân nhắc lợi ích giữa con nợ và chủ nợ.

Luật Phá sản của Nga cũng có quy định về thời hạn tương tự, trong khi Trung Quốc cho phép chủ nợ khởi kiện vụ án phá sản ngay khi doanh nghiệp không trả được nợ.

Trả lời báo giới, Luật gia Vũ Xuân Tiền cho rằng nên kéo dài thời gian trên thành 6 tháng vì 3 tháng quá ngắn để con nợ có thể xoay xở nguồn tiền.

Quy trình xử lý tài sản ngược nói trên cũng được đảo lại trong dự thảo lần này. Theo đó, sau khi tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản rồi mới tiến hành thanh lý và chia tài sản của doanh nghiệp. Điều này được đánh giá là một thay đổi rất quan trọng để giải quyết sự bất hợp lý hiện nay.

Mặc dù vẫn còn nhiều bất đồng về khái niệm “mất khả năng thanh toán”, “tình trạng phá sản” và một số điều khoản khác, nhưng với những sửa đổi quan trọng trên, chúng ta có quyền kỳ vọng rằng Luật Phá sản mới sẽ không tiếp tục bị . . . phá sản như Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 và 2004.

Hoàng Điền

Nhịp cầu đầu tư

Thủ Tục Phá Sản Theo Luật Phá Sản 2014

(TBKTSG) – Ngày 19-6-2014, Luật Phá sản mới đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2023 (Luật Phá sản 2014), được kỳ vọng là sẽ giúp “cởi trói” về mặt thủ tục cho việc phá sản doanh nghiệp vốn là một hệ quả tất yếu của quá trình cạnh tranh.

(TBKTSG) – Ngày 19-6-2014, Luật Phá sản mới đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2023 (Luật Phá sản 2014), được kỳ vọng là sẽ giúp “cởi trói” về mặt thủ tục cho việc phá sản doanh nghiệp vốn là một hệ quả tất yếu của quá trình cạnh tranh. Các thủ tục phá sản

Luật Phá sản 2014 có rất nhiều thay đổi so với Luật Phá sản 2004, đặc biệt đã thay thế tổ quản lý, thanh lý tài sản bằng quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; đã quy định thủ tục phá sản rút gọn, thủ tục phá sản của tổ chức tín dụng và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người quản lý doanh nghiệp; đã hoàn thiện các quy định về giao dịch đáng ngờ, cũng như đã có sự phân chia rạch ròi về mặt quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tiến hành thủ tục phá sản. Nhiều khía cạnh khác nhau về mặt thủ tục cũng đã được thay đổi và có tính khả thi cao hơn so với quy định cũ.

Khác với cách tiếp cận của Luật Phá sản 2004, thủ tục phá sản quy định trong Luật Phá sản 2014 chỉ bao gồm hai thủ tục chính là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản. Thanh lý tài sản được thực hiện sau khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản chứ không còn là một thủ tục riêng biệt được tiến hành trước khi ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản như trước nữa. Đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, không nhất thiết phải thực hiện lần lượt hai thủ tục này để được phá sản. Thủ tục mở thủ tục phá sản (điều 42 và các điều tiếp theo) là bước đệm cho việc mở các thủ tục này.

Việc có tình trạng mất khả năng thanh toán là cơ sở để chủ nợ, người lao động, người đại diện theo pháp luật hay người quản lý của doanh nghiệp, cổ đông nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp (điều 5) và là căn cứ để thẩm phán ra quyết định mở thủ tục phá sản (khoản 2, điều 42). Tuy vậy, cần lưu ý tình trạng mất khả năng thanh toán không nhất thiết sẽ dẫn tới việc mở thủ tục phá sản.

Thực vậy, trong khoảng thời gian kể từ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho tới khi tòa án ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp có thể khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán (chẳng hạn có được nguồn thu đáng kể từ việc thực hiện hợp đồng hay được cấp một khoản tín dụng mới). Ngay cả khi mất khả năng thanh toán và đã bị chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp vẫn có cơ hội đạt được thỏa thuận với chủ nợ này về việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (điều 37).

Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và tuyên bố phá sản

Hội nghị chủ nợ có thể đưa ra nghị quyết đề nghị áp dụng biện pháp phục hồi kinh doanh đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán (điểm b, khoản 1, điều 83). Sau đó, doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cùng với chủ nợ, quản tài viên hay doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản để làm cơ sở cho thẩm phán xem xét và triệu tập hội nghị chủ nợ. Nếu hội nghị chủ nợ ra nghị quyết thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thì thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận nghị quyết này (điều 87 và các điều tiếp theo).

Các biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh khá đa dạng, bao gồm: huy động vốn; giảm nợ, miễn nợ, hoãn nợ; thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh; đổi mới công nghệ sản xuất; tổ chức lại bộ máy quản lý, sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất; bán cổ phần cho chủ nợ và những người khác; bán hoặc cho thuê tài sản và các biện pháp khác không trái quy định pháp luật.

Dễ nhận thấy đây là một danh sách mở, các bên có thể xem xét khả năng áp dụng các biện pháp khác ngoài danh sách này giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động. Nghị quyết của hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có thể xác định thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu không xác định, thời hạn là ba năm kể từ ngày hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản khi (i) doanh nghiệp không còn tài sản để thanh toán lệ phí nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hay chi phí phá sản, (ii) hội nghị chủ nợ đã được hoãn nhưng khi triệu tập lại vẫn không đáp ứng điều kiện theo quy định, (iii) hội nghị chủ nợ không thông qua được nghị quyết trong lần họp đầu hay không tổ chức lại được hội nghị chủ nợ để thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hay không thông qua được nghị quyết về phương án này, hoặc (iv) doanh nghiệp không xây dựng được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh trong thời hạn quy định, không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc vẫn mất khả năng thanh toán khi hết thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

Như vậy, Luật Phá sản 2014 mở ra nhiều cánh cửa hơn cho doanh nghiệp để rút khỏi thị trường một cách hợp pháp.

Hơn nữa, điều 37, Luật Phá sản 2014 để ngỏ khả năng thương lượng giữa chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán về việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, điều luật này không đề cập cụ thể về các biện pháp mà hai bên có thể đàm phán để khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp như chuyển nợ thành phần vốn góp/cổ phần, thay đổi vị trí ưu tiên thanh toán của khoản nợ có bảo đảm hay khoản nợ không có bảo đảm, chuyển khoản nợ có bảo đảm thành khoản nợ không có bảo đảm và ngược lại, tăng hoặc giảm vốn góp…

Mặt khác, Luật Phá sản 2014 chỉ đề cập đến trường hợp doanh nghiệp chủ động chấm dứt hợp đồng đang có hiệu lực (điều 61 và 62) chứ không có quy định nào về giá trị pháp lý của điều khoản trong hợp đồng ký với doanh nghiệp cho phép phía bên kia đơn phương chấm dứt hợp đồng khi phát hiện doanh nghiệp mất khả năng thanh toán vốn được sử dụng rất phổ biến trong thực tế. Thêm vào đó, vẫn còn quá ít quy định về trách nhiệm pháp lý của người quản lý doanh nghiệp trước và trong thủ tục phá sản.

Theo ThoibaokinhteSaigon

Sơ Đồ Phá Sản Theo Luật Phá Sản 2014

Đề tài: Sơ đồ phá sản theo Luật phá sản 2014Luật Phá sản năm 2014Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2023, trình tự, thủ tục nộp đơn, thụ lý và mở thủ tục phá sản; việc xác định nghĩa vụ về tài sản và biện pháp bảo toàn tài sản trong quá trình giải quyết phá sản; thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh; tuyên bố phá sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản được tiến hành theo Luật số 51/2014/QH13 do Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014. Luật thay thế cho luật phá sản 2004, gồm 14 chương với 133 điều.Theo khoản 1,2 điều 4 Luật Phá sản:Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản.Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.1. SƠ ĐỒ PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014`Thông báo quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản theo điều 43Tòa án nhận đơn, xem xét đơn theo

điều 8, 31, 32Thông báo nộp lệ phí phá sản, tạm ứng phí phá sản theo điều 38Thñ tôc phôc håi (tõ §iÒu 68 ®Õn §iÒu 74)Thñ tôc thanh lý [§iÒu 79; §iÒu 80 (K1, K2)]Thủ tục phục hồi Chương 7Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản DN, HTX theo điều 5, 26, 27, 28, 29Chuyển TA có thẩm quyền theo điều 33Trả lại đơn Theo điều 35Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn/ Trả lại đơnTheo điều 34, 36 Tòa án quyết định mở/không mở thủ tục phá sản theo điều 42Tuyên bố DN, HTX phá sản trong trường hợp đặc biệt theo Điểm a Khoản 1 Điều 105Quyết định mở thủ tục phá sản theo khoản 2 điều 42Thụ lý đơn kể từ ngày nộp lệ phí, tạm ứng phí phá sản theo điều 39, 40Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên theo khoản 2 điều 37Thương lượng trước khi thụ lý theo điều 37Giải quyết, kháng nghị quyết định

Có Nên Khai Phá Sản Ở Mỹ, Bankruptcy?

Khai phá sản ở Mỹ là một quy trình pháp lý mà thông qua đó một cá nhân hoặc một thể chế như công ty, tập đoàn không thể trả nợ cho các chủ nợ tìm kiếm giải pháp cho một phần hoặc toàn bộ số nợ.

Ví dụ như bạn lỡ làm ăn thất bại với số vốn vay từ ngân hàng thì bạn có thể khởi xướng và tiến hành tiến trình khai phá sản ra tòa.

Hoặc khi mà nợ thẻ tín dụng của bạn lên quá cao. Bạn bị mất việc làm, không thể chi trả nổi các khoản nợ, tiền nhà, tiền điện thì một trong những giải pháp được tính đến đó là khai phá sản.

1. Hiểu rõ về khai phá sản ở mỹ

Việc khai phá sản sẽ giúp bạn được xóa một phần nợ hoặc toàn bộ nợ tùy trường hợp, ngoại trừ nợ tiền học (student loan), nợ thuế, nợ tiền cấp dưỡng (child support).

Việc khai phá sản (File for Bankruptcy) luôn được coi là một giải pháp cuối cùng cho bạn hoặc cơ sở kinh doanh của bạn.

Có nhiều công ty như United Airlines, hoặc General Motors khai phá sản để tái cơ cấu lại nợ mà lần kinh doanh như bình thường. Việc khai phá sản sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tài chính của bạn hoặc công ty của bạn.

Có nhiều bạn nghĩ rằng khai phá sản cá nhân thì bạn sẽ được miễn trừ hết các khoản nợ.

Điều đó là không đúng, mà bạn vẫn phải trả nợ nhưng theo các hình thức khác nhau tùy thuộc vào dạng mà bạn khai phá sản theo Chapter 7, Chapter 13, hoặc Chapter 11.

2. Khai phá sản theo Chapter 7

Người mượn nợ sẽ được xóa các nợ không được bảo đảm (unsecured debts) như nợ thẻ tín dụng. Nhà và xe không nằm trong trường hợp này.

Nợ có bảo đảm (secured debt) là khoản nợ được hỗ trợ bởi tài sản thế chấp như xe và nhà. Có nghĩa là bạn mượn tiền ngân hàng để mua xe hoặc mua nhà thì cái nhà và xe của bạn là tài sản thế chấp.

Bạn phải dùng một số tài sản (assets: property or cash) như xe hoặc ngôi nhà thứ hai để trả cho chủ nợ.

Thông thường người mượn nợ không cần phải trả gì hết tại vì theo luật có một số tài sản được miễn trừ khi khai phá sản theo Chapter 7 như: vật dụng trong nhà, áo quần, quỹ hưu trí…

Hoặc có thể hiểu rõ là tài sản đó có cần thiết cho cuộc sống, sinh tồn của bạn hay không. Ngoài ra bạn còn phải hội đủ các điều kiện về thu nhập theo theo luật để được khai phá sản theo dạng này.

3. Khai phá sản theo Chapter 13

Thông thường bạn phải có một kế hoạch từ 3 đến 5 năm để trả nợ. Nếu bạn thực hiện được kế hoạch này thì các khoản nợ còn lại sau 5 năm sẽ được miễn trừ.

Nếu bạn muốn giữ lại các tài sản bảo đảm (secured debts) như nhà, xe thì nên khai theo dạng này. Nếu như thu nhập của bạn cao hơn thu nhập trung bình thì thủ tục sẽ khó khăn hơn những người khác.

Các khoản nợ được bảo đảm như nhà và xe không được quá hơn $1,149,525 và khoản nợ không được bảo đảm như thẻ tín dụng không được quá $383,175.

Nếu không được thì bạn có thể chuyển sang Chapter 7 thì nhà cửa, xe sẽ bị chủ nợ tịch thu hay N gười Việt mình còn nói là bị ngân hàng kéo nhà hoặc kéo xe .

4. Khai phá sản theo Chapter 11

Việc khai phá sản theo Chapter 11 gần giống như Chapter 13 nhưng dành cho cơ sở kinh doanh, công ty, hoặc tập đoàn.

Việc khai phá sản này cho phép cơ sở kinh doanh của bạn tái cơ cấu lại cơ sở kinh doanh. Và công ty của bạn phải có bản kế hoạch để trả nợ một phần hoặc được xóa hết nợ.

Cơ sở kinh doanh của bạn cũng có thể khai phá sản theo Chapter 7 nhưng bạn bắt buộc phải thanh lý tài sản của công ty để trả nợ nên khai phá sản Chapter 11 có thể giúp bạn tái cơ cấu nợ để vực dậy công ty.

5. Điều gì xảy ra khi bạn “File for Bankrupcy”

Bạn sẽ được đặt vào tình trạng “automatic stay” có nghĩa là các chủ nợ của bạn không thể sử dụng các phương pháp như trừ tiền lương, rút tiền từ tài khoản ngân hàng, kéo nhà hoặc kéo xe của bạn trong giai đoạn này.

Bạn sẽ phải tốn phí vài trăm đô la để thuê luật sư khai phá sản theo Chapter 7, Chapter 13, và tốn $2000 đô la mỹ để khai phá sản theo Chapter 11.

Bạn phải tham gia các lớp học về tư vấn tín dụng (credit couseling) 180 ngày trước bạn khai cũng như các lớp học của chủ nợ.

6. Ảnh hưởng tài chính của việc khai phá sản ở mỹ

Nếu như bạn không thể trả nợ tín dụng, tiền viện phí hoặc k hông có nhiều tiền (equity) trong ngôi nhà, xe thì khai phá sản được coi như một cách để làm lại cuộc đời.

Nếu như khai theo Chapter 7, 11 thì bản báo cáo tín dụng việc bạn khai phá sản lên đến 10 năm trong khi chỉ 7 năm ở Chapter 13.

Có nhiều tài sản được miễn trừ (exempt) nếu khai phá sản như: đá quý, tranh, chứng khoán, tiền mặt…

Việc khai phá sản không có ích nếu như c ó thể trả nợ trong 5 năm hoặc s ố nợ của bạn không được miễn trừ như nợ tiền học, nợ thuế, nợ tiền cấp dưỡng…

Điểm tín dụng của bạn sẽ bị rớt điểm và trong 7 đến 10 năm bạn rất khó mươn vốn để làm ăn, kinh doanh, mua nhà, hoặc mua xe.

Vì vậy nhiều người Mỹ khi ra làm ăn, kinh doanh như cho thuê nhà, mở tiệm nước, tiệm nails đều thành lập các công ty để được lợi thuế và tránh tình trạng bị thưa kiện.

Bên cạnh đó nếu việc làm ăn thua lỗ họ có thể khai phá sản mà không ảnh hưởng gì tới cuộc sống và tài sản của mình.

Việc khai phá sản là một quyết định rất quan trọng, ảnh hưởng tới tương lai tài chánh. Khi có ý định về khai phá sản, bạn cần liên lạc với một luật sư trả theo phí để tham khảo, được tư vấn cụ thể hơn.