Luật Sử Dụng Facebook / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Làm Thế Nào Để Sử Dụng Facebook Đúng Pháp Luật

Facebook nói riêng và mạng xã hội nói chung nó là một không gian ảo. Tuy nhiên thực tế đã cho thấy, hậu quả của nó là thật. Chúng ta từng chứng kiến một hotgirl bị tung clip sex lên mạng khiến cô bị trầm cảm, bị lăng mạ và xúc phạm danh dự nhân phẩm, chúng ta từng thấy việc loan tin thịt lợn nhiễm dịch tả châu phi sai sự thật khiến thị trường thực phẩm bị ảnh hưởng, thương nhân không bán được hàng,…Xuất phát từ những hậu quả nghiêm trọng đó, Luật An ninh mạng ra đời nhằm điều chỉnh hành vi sử dụng mạng xã hội một cách đúng pháp luật.

Cụ thể tại Điều 8 Luật An ninh mạng 2018 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trên môi trường mạng

Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng

1. Sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi sau đây:

a) Hành vi quy định tại khoản 1 Điều 18 của Luật này;

b) Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

c) Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;

d) Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;

đ) Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;

e) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

2. Không đưa bí mật cá nhân, bí mật gia đình lên facebook.

Phàm là bí mật thì nên được giấu kín và được bảo vệ. Bởi đó là quyền bí mật đời tư của bất cứ ai. Tuy nhiên, nếu người vi phạm có hành vi ưa lên mạng những thông tin thuộc bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật gia đình và đời sống riêng tư thì đó là hành vi vi phạm pháp luật theo Điểm d, khoản 1 Điều 17 của Luật An ninh mạng.

Điều 17. Phòng, chống gián điệp mạng; bảo vệ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng

1. Hành vi gián điệp mạng; xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng bao gồm:

d) Đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trái quy định của pháp luật;

Khi người dùng có những hành vi vi phạm trên mạng xã hội như Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước; xâm phạm quyền hình ảnh,….thì buộc phải gỡ bỏ thông tin khi có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng đồng thời phải chịu trách nhiệm theo quy định.

Trách nhiệm ở đây có thể là trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự tùy thuộc vào lỗi vi phạm. Việc gỡ bỏ phải được thực hiện trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm có yêu cầu của lực lượng chuyên trách.

Điều 16. Phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

1. Thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:

a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;

b) Chiến tranh tâm lý, kích động chiến tranh xâm lược, chia rẽ, gây thù hận giữa các dân tộc, tôn giáo và nhân dân các nước;

c) Xúc phạm dân tộc, quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, vĩ nhân, lãnh tụ, danh nhân, anh hùng dân tộc.

2. Thông tin trên không gian mạng có nội dung kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng bao gồm:

a) Kêu gọi, vận động, xúi giục, đe dọa, gây chia rẽ, tiến hành hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo lực nhằm chống chính quyền nhân dân;

b) Kêu gọi, vận động, xúi giục, đe dọa, lôi kéo tụ tập đông người gây rối, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức gây mất ổn định về an ninh, trật tự.

3. Thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống bao gồm:

a) Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;

b) Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

4. Thông tin trên không gian mạng có nội dung xâm phạm trật tự quản lý kinh tế bao gồm:

a) Thông tin bịa đặt, sai sự thật về sản phẩm, hàng hóa, tiền, trái phiếu, tín phiếu, công trái, séc và các loại giấy tờ có giá khác;

b) Thông tin bịa đặt, sai sự thật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp, chứng khoán.

5. Thông tin trên không gian mạng có nội dung bịa đặt, sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

6. Chủ quản hệ thống thông tin có trách nhiệm triển khai biện pháp quản lý, kỹ thuật để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này trên hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý khi có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng.

7. Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp quy định tại các điểm h, i và l khoản 1 Điều 5 của Luật này để xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.

8. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng và chủ quản hệ thống thông tin có trách nhiệm phối hợp với cơ quan chức năng xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.

9. Tổ chức, cá nhân soạn thảo, đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này phải gỡ bỏ thông tin khi có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

4. Đảm bảo đời sống riêng tư của trẻ em trên facebook

Không chỉ riêng người lớn mà trẻ con cũng có quyền được giữ bí mật về đời tư, hình ảnh nhằm đảm bảo an toàn cho con em. Trên thế giới đã từng xuất hiện nhưng tội phạm bắt cóc trẻ em nhờ thông tin của chính bố mẹ công bố trên facebook. Hơn bao giờ hết, việc đảm bảo quyền và sự an toàn cho trẻ em được đề lên hàng đầu.

Điều 21: Hiến pháp 2013 quy định:

1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.

2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.

Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.

Theo đó, trẻ em có quyền được giữ bí mật cá nhân, đời sống riêng tư và các quyền khác khi tham gia trên không gian mạng. Cha mẹ của các em cần phải đảm bảo được việc công bố thông tin con cái lên mạng xã hội không được gây nguy hại cho trẻ em. Cụ thể được quy định tại Điều 29 Luật an ninh mạng 2018

Điều 29. Bảo vệ trẻ em trên không gian mạng

1. Trẻ em có quyền được bảo vệ, tiếp cận thông tin, tham gia hoạt động xã hội, vui chơi, giải trí, giữ bí mật cá nhân, đời sống riêng tư và các quyền khác khi tham gia trên không gian mạng.

2. Chủ quản hệ thống thông tin, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng có trách nhiệm kiểm soát nội dung thông tin trên hệ thống thông tin hoặc trên dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp để không gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em; ngăn chặn việc chia sẻ và xóa bỏ thông tin có nội dung gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em; kịp thời thông báo, phối hợp với lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an để xử lý.

Như vậy, đôi lúc chính vì sự vô tư của cha mẹ mà làm cho con cái gặp nguy hiểm đó là một điều đáng buồn.

LSX là thương hiệu hàng đầu về dịch vụ luật sư tranh tụng Việt Nam

Nội dung tư vấn pháp luật mà LSX cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo. Để có những những tư vấn rõ ràng và cụ thể hơn, hãy liên hệ với chúng tôi ngay

‘Sử Dụng Ảnh Của Ánh Linh Trên Facebook Nguyễn Hải Dương Là Phạm Luật’

Đó là ý kiến của luật sư Nguyễn Kiều Hưng- Hãng Luật Giải Phóng.

Theo luật sư Hưng, việc các tổ chức, cá nhân tự ý lấy hình ảnh cá nhân của nạn nhân Ánh Linh trong vụ thảm sát ở Bình Phước đăng tải trên các phương tiện truyền thông và trang cá nhân của mình là vi phạm pháp luật. “Điều 31 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định: Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh – Luật sư Hưng cho biết.

Căn cứ khoản 2, khoản 3, Điều 25 Bộ luật Dân sự, khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền: Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.

Tuần qua, bất chấp sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông, rất nhiều cơ quan báo chí đưa thông tin liên tục, hỗn loạn về những tình tiết xung quanh vụ án giết người tại Bình Phước. Chính vì việc báo chí khai thác quá sâu những tình tiết vụ án và nhất là đăng tải hình của nạn nhân Ánh Linh mà mới đây tại buổi trao đổi về tình hình thông tin trước cuộc họp giao ban báo chí hằng tuần tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn đã chỉ đạo: “Nên dừng ngay những thông tin bên lề vụ án mạng ở Bình Phước”.

Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, thông tin rõ về vụ án mạng nói trên là cần thiết, nhưng thông tin đó phải là thông tin tích cực, mang tính giáo dục, cảnh tỉnh, hỗ trợ cho quá trình tố tụng, có ích cho xã hội… “Tôi không đồng tình với quan điểm của bất cứ các cơ quan báo chí nào cho rằng cần phải làm “ầm ĩ” mọi thông tin về vụ án đau lòng này. Báo chí đừng bàng quan, vô cảm trước nỗi đau và mất mát của người khác, đừng nhẫn tâm dẫn dắt công chúng mua vui bằng những tình tiết ly kỳ của tội ác”- ông Tuấn nhấn mạnh trên báo VietNam.net.

Nay vụ án đã chuyển sang giai đoạn tố tụng, việc báo chí thông tin bừa bãi gây áp lực dư luận đối với cơ quan điều tra, gây rối loạn thông tin là vi phạm nghiêm trọng. Tất cả các cơ quan báo chí nên chấm dứt việc xâm phạm quyền nhân thân, tự cho mình quyền tài phán trái pháp luật, gây dư luận xấu ảnh hưởng đến giáo dục và đạo đức xã hội.

“Hiệu ứng thông tin báo chí đã từng xảy ra trong vụ án Lê Văn Luyện giết người. Khi bị cáo này bị đưa ra xét xử, có nhiều thanh thiếu niên đến tham dự phiên toà vẫy tay chào bị cáo có vẻ như “ngưỡng mộ”. Thật nguy hiểm nếu điều này lặp lại. Là cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, chúng tôi sẽ ngăn chặn sự lạm quyền này. Tất cả các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp của báo chí đều có chế tài xử lý và cần được thực hiện nghiêm túc” ông Tuấn nói.

Đại Lộc TH

Đọc tin pháp luật mới nhất trên Vì Công Lý. Để phản ánh thông tin hoặc gửi câu hỏi tư vấn pháp luật miễn phí, vui lòng gửi đến vicongly.com@gmail.com hoặc gọi Tổng đài 1900 6665.

Pháp Luật Và Nghệ Thuật Sử Dụng Pháp Luật

Vừa qua đã xảy ra sự kiện bắt quả tang, xử phạt hành vi vi phạm pháp luật của công dân, khiến đông đảo dư luận bức xúc và bàn tán xôn xao. Vụ việc đã đăng tải và tiếp tục được đăng tải trên báo chí, truyền hình, đài phát thanh và các phương tiện thông tin, đó là việc anh thợ điện Nguyễn Cà Rê đem đổi 100 đô la lấy 2.260.000 đồng tại một tiệm vàng, bị cơ quan điều tra công an thành phố Cần Thơ chặn bắt và bị Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ ra quyết định tịch thu số tiền đồng và xử phạt hành chính 90 triệu đồng. Tiệm vàng – Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất, Thương mại Thảo Lực, nơi đổi tiền cho anh Rê bị Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ ra quyết định xử phạt hành chính 295 triệu đồng, cộng với hình phạt bổ sung: tịch thu 100 đô la, 19.910 viên đá nhân tạo và 20 viên kim cương.

Về phía các nhà chức trách thực thi pháp luật thì cho rằng, hành vi vận dụng pháp luật của địa phương vụ việc là đúng với quy định của Nghị định 96/2014 NĐ/CP. Anh Nguyễn Cà Rê đã có đơn xin Ủy ban nhân dân thành phố miễn hình phạt vì gia đình anh hiện rất nghèo túng. Ông chủ tiệm vàng Thảo Lực đã chấp hành hình phạt nhưng tham vấn luật sư để cân nhắc làm đơn khởi kiện vì cho rằng quyết định xử phạt hành chính của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ là trái pháp luật.

Câu hỏi thứ nhất: Thế nào là đúng

pháp luật?

Việt Nam hiện có quan hệ buôn bán, giao lưu với rất nhiều nước trên thế giới. Việc người Việt Nam có ngoại tệ (đô-la Mỹ, Canada, Úc, euro của châu Âu, đồng yên của Nhật, đồng rúp của Nga, nhân dân tệ của Trung Quốc) là chuyện phổ biến hiện nay. Nguồn ngoại tệ trong dân là do người đi lao động nước ngoài gửi về hoặc do kiều bào ở nước ngoài gửi về biếu tặng người thân trong gia đình họ. Người nước ngoài đến du lịch tại Việt Nam cũng thường dùng ngoại tệ để mua bán, trả chi phí dịch vụ cho người Việt Nam. Sử dụng tiền tệ của nhau trong buôn bán, giao lưu, nhằm tiết kiệm chi phí trong chuyển đổi ngoại tệ và tránh lệ thuộc vào đô-la Mỹ hiện đang là xu thế của các nước trên thế giới. Nga và Ấn Độ, Nga và Trung Quốc đã có thỏa thuận dùng nội tệ của mỗi nước để thanh toán với nhau. Việc người dân Việt Nam có ngoại tệ không phải là chuyện hiếm. Việc đổi tiền Việt Nam sang tiền nước ngoài để chu cấp cho con đi học ở nước ngoài, hoặc để đi du lịch, công tác hoặc đổi ngoại tệ sang tiền đồng để trang trải cuộc sống là nhu cầu của không ít người Việt Nam. Luật pháp hiện hành không cấm người Việt Nam sở hữu ngoại tệ, nhưng không phải ai cũng biết việc hoán đổi tiền đồng (VND) sang ngoại tệ hoặc ngược lại, phải tiến hành tại các ngân hàng. Hơn nữa, việc hoán đổi ngoại tệ tại các ngân hàng đòi hỏi nhiều thủ tục và với giá thấp hơn giá thị trường tự do. Vì vậy, việc hoán đổi ngoại tệ ngoài quy định của pháp luật, mà dư luận gọi là đổi chui, là hiện tượng có xuất hiện trong đời sống. Thực tiễn cuộc sống đòi hỏi phải phân biệt hành vi hoán đổi ngoại tệ để trang trải cuộc sống với hành vi buôn bán ngoại tệ nhằm mục đích sinh lợi. Nhiều người dân cho rằng, hành vi của anh Nguyễn Cà Rê chỉ là hành vi đổi ngoại tệ, không phải là hành vi mua, bán ngoại tệ.

Pháp luật luôn phải xuất phát và phải phù hợp với thực tế cuộc sống. Nhưng nội dung Nghị định 96/2014/NĐ – CP có rất nhiều điều khoản chưa phù hợp với thực tế cuộc sống, không phù hợp với chính sách quản lý ngoại hối hiện hành của nước ta. Việc căn cứ vào Nghị định 96/2014/NĐ – CP để xử phạt mọi hành vi chuyển đổi ngoại tệ không qua ngân hàng là trái với thực tế cuộc sống. Nghị định 96/2014/NĐ – CP, qua thực tế vận dụng đã bộc lộ nhiều nhược điểm, đòi hỏi phải tiến hành sửa đổi ngay nhằm mục đích ổn định xã hội.

Câu hỏi thứ hai: Thế nào là hình phạt

thỏa đáng?

Xử phạt không đơn thuần nhằm mục đích trừng trị, mà còn nhằm răn đe, giáo dục người vi phạm. Để đạt được mục đích này thì hình phạt được tuyên phải tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm đã gây ra. Việc đánh giá mức độ nguy hiểm do hành vi vi phạm gây ra cho xã hội đòi hỏi người cầm cân nảy mực phải cân nhắc rất kỹ, phải hết sức khách quan và phải đặc biệt tránh định kiến, đánh giá, nhận định mang tính cảm tính.

Về mức xử phạt tiền thì luật pháp thường quy định người vi phạm phải đền bù mọi tổn thất đã gây ra, hoặc bị phạt với mức bằng hoặc gấp đôi số tiền vi phạm. Nghị định 96/2014/NĐ – CP không quy định mức xử phạt tiền theo quy tắc lấy giá trị vi phạm làm xuất phát điểm, mà chỉ quy định mức phạt tối thiểu đến mức tối đa. Điều này dẫn đến lập luận cho rằng, giá trị hành vi vi phạm chỉ là 2.260.000 đồng mà bị phạt đến 90 triệu đồng, tức nhiều gấp 50 lần trị giá số tiền đổi vẫn được các nhà thực thi pháp luật cho là đúng pháp luật, với lý do là nó nằm trong khung hình phạt do Nghị định 96/2014/ NĐ – CP quy định. Rõ ràng đây là bất cập lớn của Nghị định 96/2014/NĐ – CP.

Câu hỏi thứ ba: Việc viện cớ cửa hàng vàng không có đầy đủ giấy tờ về nguồn gốc xuất xứ để tịch thu các mặt hàng bày bán là thỏa đáng?

Các cơ quan thực thi pháp luật từng có ý định thiết lập kỷ cương mới bằng cách quy định mọi việc mua bán đều phải có hóa đơn, nhằm tránh thất thu thuế và gian lận trong mua bán. Ý định này không có tính thực thi ở nước ta. Vì vậy, pháp luật hiện hành của nước ta chưa đòi hỏi mọi việc mua bán đều phải có hóa đơn, kể cả việc mua bán vàng bạc tại các tiệm vàng. Việc viện cớ tiệm vàng Thảo Lực không xuất trình đầy đủ nguồn gốc của các sản phẩm bày bán để tịch thu, xử phạt là đòi hỏi không có căn cứ pháp lý, nếu không muốn nói đó là việc dùng pháp luật để bắt chẹt người dân. Tin tức gần đây cho biết, ông Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ đã có quyết định trả lại cho chủ tiệm vàng 20 viên kim cương và 19.910 viên đá nhân tạo. Việc trả lại tài sản bị tịch thu trái pháp luật là đương nhiên. Hành vi sửa sai của nhà thực thi pháp luật rất đáng được khuyến khích. Cùng với đó, đầu tháng 11/2018, nhà chức trách thành phố Cần Thơ đã huỷ bỏ hình thức xử phạt 70 triệu đồng đối với hành vi “kinh doanh hàng hoá không rõ nguồn gốc, xuất xứ”, điều chỉnh tổng mức phạt từ 295 triệu đồng thành 225 triệu đồng. Tuy nhiên, với cách xử lý này, dư luận hoài nghi đặt câu hỏi, vì sao Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ vẫn duy trì một mức xử phạt cao đối với tiệm vàng Thảo Lực. Không lẽ vì việc hoán đổi tiền với giá trị hơn 2 triệu đồng, lại bị phạt với số tiền gấp cả trăm lần? Nếu những người thực thi pháp luật không có hướng xử lý hài hòa hơn vụ việc, thì sẽ là khiên cưỡng, vì nó trái với mục đích của hình phạt như đã nêu trên.

Câu hỏi thứ tư: Việc khám xét tiệm vàng Thảo Lực có hợp pháp?

Luật pháp hiện hành nước ta quy định chỉ được phép khám người, khám nơi ở, nơi làm việc trong trường hợp phạm pháp quả tang hoặc trong trường hợp có căn cứ pháp lý nghi đang cất giấu đồ vật, hoặc tiêu hủy chứng cứ phạm pháp, hoặc che giấu người đang bị truy nã, hoặc trốn tránh pháp luật. Đây là điều mà mọi viên chức thực thi pháp luật phải luôn ghi nhớ và chấp hành đúng. Việc lạm dụng quyền khám xét người, nhà ở, nơi làm việc là hành vi xâm phạm quyền công dân.

Việc cán bộ điều tra thành phố Cần Thơ nhân việc bắt quả tang hành vi đổi ngoại tệ trái pháp luật để khám xét và tịch thu tài sản của tiệm vàng là sự vận dụng pháp luật một cách méo mó, cứng nhắc, nếu không muốn nói đó là hành vi lạm dụng quyền lực.

Những bài học rút ra:

Thông qua vụ việc xảy ra ở thành phố Cần Thơ, có thể rút ra hai bài học lớn: Bài học về công tác lập pháp, lập quy và bài học về thực thi pháp luật.

Bài học thứ nhất: Về công tác lập pháp, lập quy

Các nhà quản lý có kinh nghiệm đều cho rằng, rối loạn trước hết là rối loạn về kỷ cương phép nước. Vì vậy, công việc hàng đầu của công tác quản lý là phải không ngừng chăm lo cho việc hoàn thiện nền pháp luật. Nhà nước, một mặt phải đảm bảo cho mọi mặt hoạt động của Nhà nước, của xã hội đều có pháp luật làm căn cứ, đồng thời phải thường xuyên rà soát, kiểm tra để kịp thời loại bỏ, sửa đổi những bất cập hoặc bổ sung những điều còn thiếu của pháp luật đã ban hành. Trong những năm gần đây, công tác lập pháp đã được Quốc hội đặc biệt quan tâm. Nhà nước đã xây dựng nên nền pháp luật làm căn cứ pháp lý cho việc quản lý xã hội trong tình hình mới, nhiệm vụ mới. Tuy vậy, nền pháp luật của nước ta hiện chứa đựng trong nó hai bất cập lớn:

+ Nhiều quy định của Hiến pháp chưa được pháp luật hóa, đặc biệt là các luật về bảo vệ quyền nhân thân và quyền công dân;

+ Hệ thống văn bản dưới luật do các cơ quan hành pháp ban hành để thi hành luật chứa đựng nhiều trùng lặp, mâu thuẫn, chồng chéo, khó nhớ, khó thực hiện. Theo Bộ Tư pháp, vẫn còn văn bản dưới luật được ban hành với nội dung trái Hiến pháp, trái luật. Các văn bản dưới luật này gây ra khó khăn không đáng có đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, đến đời sống của công dân. Nhưng rất tiếc là các biện pháp ngăn chặn và quy trách nhiệm đối với những tổ chức, viên chức đã ban hành các văn bản trái Hiến pháp, trái luật chưa được quy định cụ thể. Việc rà soát và kịp thời sửa đổi văn bản pháp quy trái pháp luật cũng chưa được quy định thành nhiệm vụ thường xuyên, mà danh từ chuyên môn gọi là công tác “hệ thống hóa pháp luật” của các cơ quan quản lý nhà nước.

Dư luận đề xuất, đã đến lúc cần có pháp luật quy định công dân được quyền khởi kiện và đòi bồi thường thiệt hại do văn bản trái pháp luật gây ra đối với công dân, đối với các tổ chức. Nếu điều luật này được ban hành thì đó là biện pháp quan trọng, mang tính khả thi cao để đảm bảo tốt hơn nhân quyền và quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, đó cũng là biện pháp hữu hiệu nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn việc tổ chức và cá nhân tùy tiện trong ban hành các văn bản dưới luật để thi hành luật. Đây cũng là cách huy động xã hội tham gia giám sát hoạt động lập pháp, lập quy của các cơ quan nhà nước.

Bài học thứ hai: Vận dụng pháp luật phải trở thành nghệ thuật của quản lý

Vụ việc xảy ra ở thành phố Cần Thơ đã cung cấp hai bài học đặc biệt bổ ích về công tác lập pháp, lập quy và nghệ thuật vận dụng pháp luật. Bài học này nên được nghiên cứu, phân tích rộng rãi trong các cơ quan và cán bộ, viên chức để góp phần đổi mới hoạt động lập pháp, lập quy và thực thi pháp luật ở nước ta.

Luật sư Lê Đức Tiết

Luật Quản Lý Sử Dụng Tài Sản Công

Gọi đặt hàng 24/24 từ thứ 2 đến thứ 7: 0909 366 858

Ngày 21-6-2017, tại kỳ họp thứ 3 khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14. Luật này quy định về quản lý nhà nước đối với tài sản công; chế độ quản lý, sử dụng tài sản công; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng tài sản công.

Bên cạnh đó, Chính phủ, Bộ Tài chính cũng ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng tài sản công, sắp xếp lại, xử lý tài sản công;… Cụ thể như: Nghị định số 29/2018/NĐ-CP ngày 05-3-2018 Quy định trình tự, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; Thông tư số 57/2018/TT-BTC ngày 05-7-2018 Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 29/2018/NĐ-CP ngày 05-3-2018 của Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xác lập quyê và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; Thông tư số 45/2018/TT-BTC ngày 07-05-2018 Hướng dẫn chế độ quản lý, tính hao mòn, khấu hao tài sản cố định tại cơ quan, tổ chức, đơn vị và tài sản cố định do nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý không tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;…

Nội dung cuốn sách bao gồm các phần chính như sau:

Để các cơ quan, đơn vị nắm bắt kịp thời và thực hiện tốt việc mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công, lập dự toán ngân sách nhà nước, thanh quyết toán thu chi ngân sách, nhà xuất bản Tài Chính cho biên soạn và phát hành cuốn sách có độ dày 400 trang,giá 350,000đ/1 cuốn

Nội dung cuốn sách bao gồm những phần chính sau:

Nội dung cuốn sách, trình bày dưới dạng văn bản tra cứu:

Phần thứ hai: Đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản nhà nước;

Phần thứ tư: Điều chuyển, bán, thanh lý tài sản nhà nước và quản lý, sử dụng hóa đơn bán tài sản nhà nước;

Phần thứ năm: Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập;

Phần thứ sáu: Chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định;

Nội dung quyển sách gồm có các phần như sau:

Ngày 30/12/2016, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 342/2016/TT-BTC Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21-12-2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước. Thông tư số 342/2016/TT-BTC có hiệu lực thi hành từ ngày 13/02/2017. Theo Thông tư này, việc chi ngân sách bằng hình thức lệnh chi tiền được thực hiện theo quy trình: Đơn vị sử dụng ngân sách lập dự toán kèm hồ sơ, chứng từ theo chế độ quy định gửi cơ quan tài chính; Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ cơ quan tài chính lập lệnh chi tiền gửi Kho bạc Nhà nước; Kho bạc Nhà nước kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của lệnh chi tiền. Kho bạc Nhà nước kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của lệnh chi tiền và xử lý theo 02 hướng: 1- Trường hợp lệnh chi tiền hợp lệ, hợp pháp: trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày nhận lệnh chi, Kho bạc thực hiện xuất quỹ ngân sách, chuyển tiền vào tài khoản hoặc chi tiền mặt cho đối tượng thụ hưởng; 2- Trường hợp lệnh chi tiền không hợp lệ, hợp pháp: trong vòng 01 ngày kể từ ngày nhận lệnh chi, Kho bạc gửi thông báo cho cơ quan tài chính biết để xử lý.Nhằm cung cấp đến quý độc giả những quy định nêu trên, cuốn sách có độ dày 400 trang,giá 350,000đ/ 1 cuốn

Sách Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật ngân sách nhà nước (Thông tư số 342/2016/TT-BTC Ngày 30/12/2016 của Bộ Tài chính ban hành Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước.)

Nội dung cuốn sách bao gồm các phần chính như sau: