Bạn đang xem chủ đề Luật Thơ Đường được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung Luật Thơ Đường hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
T
hơ Ðường Luật phổ biến trên thi đàn Việt Nam xưa, xuất xứ từ đời Ðường (618-907) bên Tàu, có luật lệ nhất định, thường gọi là Thơ Luật để phân biệt với Thơ Cổ Phong xuất hiện trước đời Ðường không có luật lệ nhất định.
T
hơ Luật có 4 thể: Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, Ngũ Ngôn Bát Cú, Thất Ngôn Tứ Tuyệt, Thất Ngôn Bát Cú. Thất Ngôn Bát Cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng lại được các Cụ ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, trào phúng, xướng họa, thù tạc, chúc mừng quan hôn, khai bút đầu Xuân… Lúc đầu làm bằng chữ Hán, đến đời Trần, Hàn Thuyên là người đầu tiên làm bằng chữ Nôm, nên Ðường luật còn gọi là Hàn Luật. Từ đó thể Thất Ngôn Bát Cú trở thành độc tôn trên thi đàn, ngay trong các kỳ thi cũng luật lệ căn bản của thể thơ này:
I. BỐ CỤC: Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có 4 phần:
1- Mạo: là mào đầu (vào bài) còn gọi là Ðề, gồm:
– Phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề.
– Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống.
2- Thực hay Trạng: gồm câu 3 + 4: giải thích, khai triển tựa đề.
3- Luận: gồm câu 5+6: bàn luận ý nghĩa của bài.
4- Kết: gồm câu 7+8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ.
II. LUẬT LỆ CĂN BẢN:
1- Vần: là bộ phận chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt là âm tiết trừ đi phụ âm đầu nếu có.
Ví dụ: “tà, hoa, nhà, gia, ta” trong bài Qua Ðèo Ngang có cùng một vần “a”.
Vần có vần bằng, vần trắc, độc vận, ép vận. Trong thất ngôn bát cú chỉ gieo 1 vần, gọi là độc vận rơi vào 5 chữ cuối của 5 câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần trắc, 5 chữ này tránh trùng nhau, phải hiệp vận cho đúng nếu gieo sai gọi là lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép.
Ghi chú:
Vần có cước vận (vần ở cuối câu), và yêu vận (vần ở lưng câu).
Vần điệu: Ðiệu là đều đặn, là số chữ đều đặn trong mỗi câu thơ, như điệu thất ngôn mỗi câu 7 chữ, điệu lục bát gồm 1 câu 6, 1 câu 8. Riêng điệu ca trù mỗi câu bao nhiêu chữ cũng được, trừ câu chót bắt buộc 6 chữ.
Nhịp điệu: Nhịp là cách ngắt đoạn đều đặn trong câu thơ. Nhịp điệu là cái dáng đi khi mau khi chậm trong thơ.
Tiết tấu: tiết là đốt, là đoạn ngắn, tấu là đánh nhạc, là đọc cao lên.
Thi nhạc (gồm vần, điệu, nhịp, tiết tấu): Nhà thơ dùng âm thanh (tượng thanh), dùng sự thay đổi của của âm, độ cao thấp của thanh, sự đều đặn của vần điệu nhịp điệu, sự nhịp nhàng của tiết tấu… làm cho bài thơ đọc lên như một bản nhạc gọi là thi nhạc.
2. Ðối: là phép đặt 2 câu thơ đối nhau gồm có:
Ðối chữ: bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối động từỳ…
Ðối ý: ví dụ cảnh dưới núi đối cảnh bên sông, cảnh động đối cảnh tĩnh như trong 2 câu thực của bài Qua Ðèo Ngang.
Trong thể thơ này, 2 câu thực phải đối nhau, 2 câu luận phải đối nhau.
S
au đây xin mời quý vị thưởng thức những cặp đối thần sầu của các thi sĩ tiền bối:
* Thi hào Nguyễn Trãi:
- Hương cách gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh
- Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về
- Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh nữa nước non quanh
* Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
- Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
- Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
(Làm Lẽ)
(“Cố đấm ăn xôi” và “Làm mướn không công” là 2 câu tục ngữ)
- Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
(Không Chồng Mà Chửa)
(Trong Hán tự, chữ THIÊN nếu kéo nét phẩy nhô lên thì thành ra chữ PHU là chồng. Chữ LIỄU nếu thêm nét ngang thì thành ra chữ TỬ là con)
- Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
(Thiếu Nữ)
- Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo
(Chùa Quán Sứ)
(“suông không đấm” và “đếm lại đeo” đều có nghĩa nói lái rất tục)
- Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
(Sư Hổ Mang)
- Gió giật sườn non kêu lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
(Kẽm Trống)
* Thi sĩ Nguyễn Khuyến:
- Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh ánh trăng loe
- Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo
- Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
* Thi sĩ Trần Tế Xương:
- Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
Thi không ngậm ớt thế mà cay
- Ðì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om sòm trên vách bức tranh gà
- Chí cha chí chát khua giày dép
Ðen thỉ đen thui cũng lụa là
- Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi
- Sỉ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi
- Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
- Ví cho thi đỗ làm quan lớn
Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu
- Tiễn chân cô mất hai đồng lẻ
Sờ bụng thầy không một chữ gì
(“Gà phải cáo” và “Cố đấm ăn xôi” là 2 câu tucỳ ngữ)
3. Luật: tức thanh luật là quy tắc xếp đặt thanh bằng (B) thanh trắc (T) cho mỗi chữ trong một câu thơ theo lệ:
“Nhất tam ngũ bất luận”: bất luận là không ràng buộc,
“Nhị tứ lục phân minh”: phân minh là rõ ràng bắt buộc đồng thời phải tuân theo thanh: “nhị bằng tứ trắc lục bằng”, hay ngược lại: “nhị trắc tứ bằng lục trắc”
ngôn bát cú luật bằng vần bằng:
Câu 1: BBTTTBB
Câu 2: TTBBTTB
Câu 3: TTBBBTT
Câu 4: BBTTTBB
Câu 5: BBTTBBT
Câu 6: TTBBTTB
Câu 7: TTBBBTT
Câu 8: BBTTTBB
ngôn bát cú luật trắc vần bằng:
Câu 1: TTBBTTB
Câu 2: BBTTTBB
Câu 3: BBTTBBT
Câu 4: TTBBTTB
Câu 5: TTBBBTT
Câu 6: BBTTTBB
Câu 7: BBTTBBT
Câu 8: TTBBTTB
Â
m là tiếng động phát ra khi đọc một nguyên âm. Thanh là độ cao thấp của âm. Mỗi âm trong tiếng Việt có 6 bực độ quy định bởi 6 dấu: 2 thanh BẰNG gồm trầm (dấu huyền) và phù (không dấu), bốn thanh TRẮC gồm thượng (dấu sắc, dấu ngã), và khứ hay nhập (dấu hỏi, dấu nặng).
T
rong một câu thơ, tất cả những chữ cùng một thanh nên thay đổi bực độ.
T
rong bài thất ngôn, chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ, đáng là bằng mà đổi ra trắc gọi là khổ độc (nghĩa là khó đọc). Trong 1 câu thơ, chữ nào đáng đặt tiếng bằng mà lại đặt tiếng trắc, hay đáng đặt tiếng trắc mà lại đặt tiếng bằng thì gọi là thất luật.
4. Niêm: nghĩa là dán cho dính lại. Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp xếp các câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu, hay nói một cách khác NIÊM là sự liên lạc về âm luật của 2 câu thơ với nhau. Trong bài Ðường Luật, hai câu 1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau.
H
ai chữ thứ hai cùng một thanh đượỳc sắp xếp như sau đây hay ngược lại:
Chữ thứ 2 câu 1: trắc
Chữ thứ 2 câu 2: bằng
Chữ thứ 2 câu 3: bằng
Chữ thứ 2 câu 4: trắc
Chữ thứ 2 câu 5: trắc
Chữ thứ 2 câu 6: bằng
Chữ thứ 2 câu 7: bằng
Chữ thứ 2 câu 8: trắc
Nếu không theo đúng như thế gọi là thất niêm.
III. VÍ DỤ: một bài thơ mẫu:
Qua Ðèo Ngang
Bước tới Ðèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một cảnh tình riêng ta với ta.
Bà Huyện Thanh Quan
Ð
ây là bài thơ Ðường luật thất ngôn bát cú luật trắc (chữ TỚI) vần bằng (chữ TÀ). Niêm luật vần đối đúng phép. Bố cục chia làm 4 phần rõ rệt:
Mạo: giới thiệu tổng quát cảnh Ðèo Ngang.
Thực: tả cảnh Ðèo Ngang.
Luận: nhớ nước thương nhà.
Kết: tình riêng tác giả.
Về vần: Năm chữ: tà, hoa, nhà gia, ta: vần với nhau rất chỉnh.
Về đối: Hai cặp thực và hai cặp luận đối nhau chan chát: chữ đối chữờ, ý đối ý.
Về luật: Luật trắc (ở chữ TỚI). Cả 8 câu thơ đều đúng luật.
Về niêm: Rất chặt chẽ: chữ TỚI niêm với chữ CẢNH cùng là trắc, chữ CÂY niêm với chữ KHOM cùng là bằng, chữ ÐÁC niêm với chữ NƯỚC cùng là trắc, chữ NHÀ niêm với chữ CHÂN cùng là bằng.
IV. KẾT LUẬN:
tắc căn bản, khi làm thơ có nhiều thi gia đôi lúc không răm rắp tuân theo trăm phần trăm mà bài thơ vẫn hay, vì tác giả đặt cái thần/ hồn của bài thơ cao hơn luật tắc. Ví dụ như bài “Thu Vịnh” của Nguyễn Khuyến gieo vần “ao” nhưng câu 2 lại gieo vần “iu”:
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
V
à bài “Tổng Vịnh Truyện Kiều” của Chu Mạnh Trinh gieo vần “ương” nhưng câu 4, câu 8 lại gieo vần “ang” là “chàng” và “vàng”:
Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương
Sắc tài chi lắm để làm gương
Công cha bao quản liều thân thiếp
Sự nước xui nên phụ với chàng
… Ðem bắt đồng cân đáng mấy vàng.
Chữ “chàng” tuy gieo không chính vận, nhưng khi đọc lên… nó phát ra một âm thanh nghe não nề, trầm buồn, vang dội trong tâm hồn ta.
B
ài “Thu Ðiếu” của Nguyễn Khuyến về bố cục, tác giả say mê “tả cảnh” suốt cả 8 câu; còn về vần thì trong 5 chữ : “veo, teo, vèo, teo, bèo”, đã có đến 2 chữ “teo” trùng nhau vốn là điều cấm kỵ trong 1 bài thơ luật, nhưng ở đây cụ Tam Nguyên Yên Ðỗ vẫn mạnh dạn sử dụng, vì Cụ thấy 2 từ ngữ ấy (tẻo teo, vắng teo) diễn đạt được tình cảm của Cụ. Ðiều này cho thấy Cụ là một nhà Nho phóng khoáng có bản lĩnh trong sáng tạo. Và bài Thu Ðiếu xưa nay vẫn được nhiều người công nhận là một trong những bài thơ tả cảnh mùa Thu hay nhất trong thơ ca Việt Nam.
C
ũng chính vì luật tắc quá gò bó khó khăn của nó mà giới Nho sĩ Việt Nam đã bị kiềm hãm trong suốt một nghìn năm, chẳng để lại cho hậu thế được bao nhiêu bài thơ hay so với thể thơ mới. Thời tiền chiến xảy ra một trận bút chiến vang dội cả ba miền giữa thơ mới và thơ cũ, cuối cùng thơ cũ đại bại nhường thi đàn lại cho thơ mới thống trị đến ngày nay. Ngay nhà thơ Quách Tấn chuyên làm Thất ngôn bát cú với tác phẩm “Mùa Cổ Ðiển”, về sau cũng từ giã nhảy qua thể Thất ngôn tứ tuyệt với thi tập “Ðọng Bóng Chiều”.
N
gày nay, thể Thất Ngôn Bát Cú được nhiều người làm sống lại bằng những hình thức cách tân noi theo bước chân tiền phong của các nhà thơ tiền bối có bản lĩnh sáng tạo như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… mạnh dạn từ bỏ phong cách quý phái, đài các, cung đình: ưa xài điển tích, thích dùng Hán tự, vọng ngoại, vong bản, bắt chước, sáo mòn… để trở về với tình tự cội nguồn dân tộc Việt Nam đầy sinh động và sáng tạo của mình.
VINH HỒ Sưu tầm 18/11/2008
5
/
5
(
1
bình chọn
)
Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại. Hôm nay ATP Academy đã tổng hợp những thông tin giúp bạn làm thơ Đường Luật một cách dễ dàng và đúng luật.
Định nghĩa thể thơ Thất ngôn bát cú
Thất ngôn bát cú là thể thơ thông dụng trong các thể thơ Đường Luật được các nhà thơ Việt Nam rất ưa chuộng. Đây là hình thức lấy câu thơ bảy chữ làm đơn vị nhịp điệu.
Ra đời từ rất sớm ở Trung Quốc, bắt nguồn từ thơ bảy chữ cổ phong (thất ngôn cổ thể), đến đời Đường, thơ thất ngôn bát cú phát triển rầm rộ.
Thể thơ thất ngôn bát cú có bố cục bốn phần, mỗi phần ứng với hai câu đảm nhận nhưng nhiệm vụ cụ thể. Hai câu đề giới thiệu về thời gian, ko gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khải quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao. Ở một số trường hợp, phần thực và luận có chung nhiệm vụ vừa tả thực vừa luận, ví dụ như hai câu thực và luận trong bài “Muốn làm thằng cuội của ” của Tản Đà:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi!
Luật thơ Đường Luật thất ngôn bát cú (TNBC)
Hình thức 1 bài thơ ĐL TNBC gồm có 6 yếu tố:
Số chữ, số câu hạn định: Một bài thơ ĐLTNBC tổng cộng có 56 chữ , gồm 8 câu mỗi câu 7 chữ.
Luật bằng trắc:
Các câu trong bài thơ ĐLTNBC phải theo quy luật bằng trắc rất chặt chẽ. Chữ thứ 2 của câu đầu bài thơ nếu là thanh trắc thì bài thơ theo luật trắc, còn nếu là thanh bằng thì bài thơ theo luật bằng. Bài thơ không theo đúng luật bằng trắc là bài thơ thất luật.
Niêm
– Chữ thứ 2 của câu 2 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 3 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 4.– Chữ thứ 2 của câu 4 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 5 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 6.– Chữ thứ 2 của câu 6 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 7 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 8.
– Chữ thứ 2 của câu 8 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 1 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 2.
Nếu bài thơ không thoả bất kỳ điều kiện nào trong tất cả điều kiện trên thì gọi là thất niêm.
4. Đối: Trong bài thơ ĐLTNBC, các câu 3-4 và 5-6 đối với nhau từng cặp một. Đối phải bao gồm cả đối ý, đối từ và đối thanh. Bài thơ có phần đối không chỉnh thì không phải là bài thơ ĐLTNBC hoàn hảo, còn nếu không đối thì không gọi là thơ ĐL (có người gọi nó là thơ Thất ngôn bát cú).
5. Vần
Vần được gieo ở cuối các câu chẵn của bài thơ ĐL. Chữ cuối câu 1 có thể cùng vần hoặc không vần. Trong toàn bài thơ chỉ dùng 1 vần duy nhất (gọi là độc vận).Vần có 2 loại: chính vận và thông vận– Chính vận là vần gồm những chữ có âm y hệt nhau, chỉ khác phụ âm đầu và dấu giọng. Thí dụ: trường, sương, dương, thương…
– Thông vận là vần gồm những chữ có âm tương tự. Thí dụ: lùng, chung, không, công, tòng, đông, hồng …Nếu dùng chữ mà âm nghe không giống lắm, miễn cưỡng mà dùng tạm thì gọi là cưỡng vận.
Nếu dùng chữ có âm hoàn toàn khác nhau thì gọi là lạc vận.
Trong 1 bài thơ ĐL có thể dùng cả chính vận lẫn thông vận, cưỡng vận chỉ dùng trong trường hợp bất đắc dĩ và nên dùng ít thôi. Nếu có lạc vận là bài thơ hỏng.
6. Nhịp điệu Thơ ĐL được ngắt nhịp ở chữ thứ 2 hoặc thứ 4 của câu, hoàn toàn khác với 2 câu bảy chữ trong thể thơ song thất lục bát của Việt Nam ngắt nhịp ở chữ thứ 3 và thứ 5. So sánh:
Bước tới đèo Ngang _ bóng xế tà
Cỏ cây chen đá _ lá chen hoa
hay:
Nhớ nước _ đau lòng con quốc quốc
Thương nhà _ mỏi miệng cái gia gia(Bà huyện Thanh Quan)
với:
Chìm đáy nước _ cá lờ đờ lặn
Lửng da trời _ nhạn ngẩn ngơ sa(Ôn Như Hầu)
Nước thanh bình _ ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ _ từ đây(Đoàn Thị Điểm)
Bài thơ ngắt nhịp không đúng cũng không gọi là thơ ĐL.
KỸ THUẬT LÀM THƠ ĐL TNBC
Bố cục bài thơ ĐLTNBC
Bài thơ ĐLTNBC có 4 cặp câu tạo thành 4 phần: đề, thực, luận, kết
– Đề: gồm 2 câu đầu. Câu 1 là phá đề dùng để mở bài, câu 2 là thừa đề tiếp nối với câu 1 nói lên đầu đề của bài .
– Thực hay Trạng: 2 câu 3-4 dùng giải thích đầu bài, nếu là tả cảnh thì mô tả cảnh sắc, nếu vịnh sử thì nêu công trạng đức hạnh của nhân vật, v.v…
– Luận: 2 câu 5-6 nói lên cảm xúc, ý kiến khen chê hay so sánh, v.v…
– Kết: 2 câu cuối tóm ý nghĩa cả bài.
Luật bằng trắc trong bài thơ ĐLTNBC – Luật trắc vần bằng
T T B B T T B (vần)
B B T T T B B (vần)
B B T T B B T
T T B B T T B (vần)
T T B B B T TB
B T T T B B (vần)
B B T T B B T
T T B B T T B (vần)
– Luật bằng vần bằng
B B T T T B B (vần)
T T B B T T B (vần)
T T B B B T T
B B T T T B B (vần)
B B T T B B T
T T B B T T B (vần)
T T B B B T T
B B T T T B B (vần)
– Luật trắc vần trắc
T T B B B T T (vần)
B B T T B B T (vần)
B B T T T B B
T T B B B T T (vần)
T T B B T T B
B B T T B B T (vần)
B B T T T B B
T T B B B T T (vần)
– Luật bằng vần trắc
B B T T B B T (vần)
T B B B T T (vần)
T T B B T T B
B B T T B B T (vần)
B B T T T B B
T T B B B T T (vần)
T T B B T T B
B B T T B B T (vần)
Bất luận và khổ độc
Giữ đúng luật bằng trắc của bài thơ ĐL rất khó, làm hạn chế việc sử dụng từ ngữ và diễn đạt ý tưởng nên trong thơ ĐL có thêm luật “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”, tức là trong 1 câu thơ ĐL không cần giữ đúng luật bằng trắc ở các chữ thứ 1, 3 hay 5, nhưng chữ thứ 2, 4 và 6 thì tuyệt đối không thể du di được .
Tuy vậy khi sử dụng luật bất luận, chữ theo luật là trắc mà đổi sang bằng thường thì không sao, nhưng nếu bằng mà đổi sang trắc đôi khi đọc nghe không êm tai, phải nên tránh .
Những chữ thứ 5 của câu lẻ và chữ thứ 3 của câu chẵn nếu theo luật đáng là bằng mà lại đổi thành trắc theo luật bất luận thì gọi là khổ độc.
Một bài thơ bị nhiều lỗi khổ độc sẽ kém giá trị!
Âm điệu tiết tấu bài thơ ĐL
Một bài thơ theo đúng hết quy định bằng trắc của luật thơ đôi khi đọc lên nghe vẫn không xuôi tai, đó là vì sử dụng không khéo các tiếng trầm bổng. Mặc dù chữ có dấu huyền (trầm bình thanh) và chữ không dấu (phù bình thanh) đều là thanh bằng, chúng lại không tương đương nhau về mặt cao thấp khi đặt trong câu.
Để câu thơ đọc nghe du dương réo rắt tránh dùng chỉ toàn một loại thanh mà cần phải thay đổi, xen kẽ các thanh này với nhau trong các vần liên tiếp, hoặc trong các chữ trong câu.
Các lỗi thông thường trong bài thơ ĐL TNBC
– Trùng vận:
Thơ ĐL chỉ dùng độc vận, nếu 1 chữ vần được dùng lặp lại ở 2 câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng. Tuy nhiên nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau, không phạm lỗi.
– Trùng từ:
Cùng 1 chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ.
Dùng lại chữ 1 lần thì tạm chấp nhận, dùng lại 2, 3 lần thì bài thơ kém. Trong trường hợp sử dụng mỹ từ pháp điệp ngữ thì không tính là lỗi.
– Phong yêu hạc tất
Bài thơ ĐL chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong 1 câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi phong yêu hạc tất
– Bình đầu
Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt.
Nguyễn Trung Phong
Một thoáng mơ hồ
Thời gian lặng lẽ lại thầm trôi
Gánh nặng tâm tư tưởng hết rồi
Một thoáng vô tình ta chợt thấy
Trong lòng ẩn hiện chẳng là tôi
Đúc kết
Kiến thức ngày nay số 668 (ra ngày 10/03/2009) có đăng bài “Thơ tứ tuyệt: những đặc trưng thi pháp thể loại” của chúng tôi Nguyễn Công Lý. Tác giả đã cung cấp cho bạn đọc những kiến thức cơ bản nhất của thể thơ tứ tuyệt, đặc biệt là tứ tuyệt Đường luật, loại “hàn lâm” nhất. Để tham gia dự thi và thưởng thức các tác phẩm trong cuộc thi Tứ tuyệt mở rộng của KTNN, việc tham khảo những kiến thức này thiết nghĩ cũng là điều cần thiết. Trong bài viết, tác giả cho biết (dẫn theo nguồn tư liệu từ nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi) thể thơ tứ tuyệt Đường luật “được cắt (ngắt) ra từ thơ bát cú Đường luật nên có 5 cách ngắt khác nhau”. Đó là: ngắt 4 câu trên, ngắt 4 câu giữa, ngắt 4 câu dưới, ngắt 2 câu đầu và hai câu cuối, ngắt câu 1 và 2 cùng câu 5 và 6. Phần bàn về kết cấu và vần của thể thơ này hoàn toàn đáng tin cậy nhưng phần chỉ dẫn của tác giả dành cho bạn đọc về niêm và luật thì chúng tôi vẫn thấy rất băn khoăn. Xin được trao đổi cùng tác giả và rất mong các bậc cao minh chỉ giáo thêm.
Tác giả viết:
“Về niêm, bài tứ tuyệt Đường luật yêu cầu câu 1 niêm với câu 4; câu 2 niêm vói câu 3, tức các chữ (tiếng) ở vị trí 2 và 4 (thơ ngũ ngôn) hay 2,4 và 6 (thơ thất ngôn) có thanh bằng hoặc trắc giống nhau, theo lệ “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ (lục) phân minh” mà thi pháp thơ Đường luật đòi hỏi.
“Về luật, bài tứ tuyệt Đường luật cũng yêu cầu luật bằng trắc như bài bát cú Đường luật. Muốn biết bài thơ viết theo luật trắc hay bằng thì xem chữ (tiếng) thứ 2 của câu một thuộc thanh nào, nếu là thanh trắc thì luật trắc và nếu là thanh bằng thì luật bằng.
Để tiện bàn luận, chúng tôi xin giới thiệu các vị trí cần phải phân minh của thơ ngũ ngôn bát cú và thất ngôn bát cú Đường luật ( theo “Việt Nam văn học sử yếu” – Dương Quảng Hàm) để bạn đọc tham khảo.
Về hai điểm kể trên chúng tôi xin có ý kiến như sau:
Vì “được cắt (ngắt) ra từ thơ bát cú Đường luật ” nên sự phối thanh của thơ Tứ tuyệt (Đường luật) hoàn toàn do luật phối thanh của thơ bát cú quy định, nó là một dạng “mệnh đề kéo theo”. Do vậy, quan niệm “bài tứ tuyệt Đường luật yêu cầu câu 1 niêm với câu 4; câu 2 niêm vói câu 3″ là chưa thỏa đáng vì không hợp logic và cũng không đúng với thực tế. Ta thấy rằng, theo 5 cách ngắt kể trên thì có 4 cách sẽ tạo ra bài tứ tuyệt có câu 1 cùng thanh với câu 4, câu 2 cùng thanh với câu 3 ở các vị trí cần phải phân minh (được “mặc định” khi ta lựa chọn cách ngắt) còn cách “ngắt câu 1 và 2 cùng câu 5 và 6” thì bài tứ tuyệt sẽ có câu 1 giống câu 3 và câu 2 giống câu 4, không thỏa mãn yêu cầu như tác giả viết
Về luật, chúng ta cũng không thể xác định bài tứ tuyệt là luật bằng hay luật trắc thông qua việc “xem chữ (tiếng) thứ 2 của câu một thuộc thanh nào” cũng vì những lý do trên. Xem hai bảng trên ta dễ dàng nhận thấy nếu bài tứ tuyệt ngắt 4 câu giữa của bài bát cú luật bằng thì tiếng thứ hai của câu 1 sẽ mang thanh trắc và nếu ngắt từ bài bát cú luật trắc thì nó sẽ mang thanh bằng. Chưa kể, nếu chấp nhận cách hiểu này thì chúng ta sẽ phải đề ra 10 loại luật thơ tứ tuyệt (ứng với 5 cách ngắt ) rất phức tạp. Theo chúng tôi, chỉ cần xem xét luật thơ tứ tuyệt căn cứ vào luật thơ bát cú sau khi đã chọn cách ngắt là đơn giản và chính xác nhất. Tất cả những ai đã nắm vững luật thơ thất ngôn bát cú đều dễ dàng suy luận.(*) (Khi giới thiệu các bài thơ minh họa cho mỗi loại tứ tuyệt Đường luật, giáo sư Dương Quảng Hàm luôn lưu ý người đọc “so – sánh với biểu thất ngôn bát cú” tương ứng ).
Cuối cùng, xin gửi đến mọi người một thắc mắc phát sinh mà bản thân chưa thể tìm ra lời giải đáp. Trong số 5 bài thơ tác giả Nguyễn Công Lý dùng để minh họa cho 5 cách ngắt để tạo nên bài tứ tuyệt Đường luật thì 4 bài có sự phối thanh ở những vị trí phân minh hoàn toàn chính xác với “biểu thất ngôn bát cú” (đấy cũng là những bài thơ mà giáo sư Dương Quảng Hàm đã dùng trong “Việt Nam văn học sử yếu” ) . Riêng bài “Hạnh An bang phủ” mà tác giả Nguyễn Công Lý dùng làm ví dụ cho loại tứ tuyệt ngắt 4 câu dưới thì chúng tôi thấy hoàn toàn không phù hợp với luật phối thanh của bài ngũ ngôn tứ tuyệt nào.
Hạnh An Bang phủ – Trần Thánh Tông
Bài thơ này chẳng những không niêm 1- 4, 2-3 như 4 câu cuối của bài ngũ ngôn bát cú mà ngay cả tương quan B – T, T – B ở các vị trí 2 và 4 trong thơ ngũ ngôn cũng bị bỏ qua.
Phải chăng cha ông chúng ta khi sáng tác theo thể thơ tứ tuyệt Đường luật đã có thể phá cách đến mức chấp nhận “bất luận” hoàn toàn? Vì không đủ khả năng tra cứu trên diện rộng, chúng tôi không thể đưa ra một kết luận nào. Rất mong các nhà nghiên cứu cho ý kiến.
NGUYỄN ĐỨC THẠCH
Gv Trường THPT Chu Văn An – Ninh Thuận
MẸO NHỎ ĐỂ NHỚ LUẬT PHỐI THANH CỦA THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ
Thể thơ thất ngôn bát cú về phối thanh có luật bằng và luật trắc , tổng cộng là 56*2 vị trí. Ghi nhớ chính xác các thanh bằng – trắc của 128 vị trí không phải là điều dễ dàng. Trong hầu hết các trường hợp, để tìm hiểu luật phối thanh, người ta phải sao chép lại tất cả các vị trí. Tuy nhiên, nếu biết kết hợp tất cả những hiểu biết về niêm luật của thể thơ này và phân tích một cách hợp lý chúng ta vẫn có thể dễ dàng “phục hồi” được luật phối thanh để sử dụng mà không cần sự trợ giúp của bất cứ tài liệu nào. Tôi xin giới thiệu một cách ghi nhớ khá đơn giản để mọi người cùng tham khảo.
LUẬT PHỐI THANH CỦA THƠ THẤT NGÔN BÁT
Chúng ta có thể phân tích luật phối thanh theo các bước sau :
Theo nguyên tắc “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh” ( thực ra thì NGŨ & THẤT cũng phải phân minh) khi làm thơ thất ngôn bát cú người ta cần theo đúng luật ở các vị trí 2,4,6. Đây cũng là các vị trí mà chúng ta buộc phải nhớ khi muốn xem xét bài thơ có đúng luật hay không
BẢNG 1
Luật bằng Luật trắc
BẢNG 2 Luật bằng Luật trắc
I – Xem BẢNG 2 ta dễ dàng nhận thấy vị trí số 2 luôn khác thanh với vị trí số 4 & số 6 (*). Do đó, luật phối thanh ở các vị trí nói trên trong mỗi câu chỉ có thể là B-T-B hoặc T-B-T mà thôi. Theo luật thơ, ta biết rằng mỗi bài TNBC có 4 cặp niêm (tiếng thứ 2 của chúng cùng thanh ) là 1=8, 2=3, 4=5, 6=7 (**). Như vậy, những câu niêm với nhau chắc chắn sẽ giống nhau ở cả 3 vị trí 2,4,6.
Từ (*) và (**) chúng ta có thể suy ra cách ghi nhớ các vị trí 2,4,6 rất đơn giản.Thay vì phải nhớ 24 vị trí cho mỗi bảng ta chỉ cần ghi nhớ vị trí số 4 của 8 câu là đủ.Với luật bằng thì tiếng thứ tư sẽ là trắc (và ngược lại), sau đó cứ 2 câu sẽ đổi luật 1 lần theo trình tự 1, 2-3, 4-5, 6-7, 8 .
II – Sau khi đã xác định được các vị trí 2,4,6 chúng ta sẽ ghi tiếp vị trí thứ 7 cho mỗi dòng thơ. Phối thanh của câu thứ 7 ở cả hai luật đều giống nhau Những câu có gieo vần (1,2,4,6,8) tiếng thứ 7 sẽ mang thanh bằng, các câu không gieo vần sẽ mang thanh trắc, chúng ta dễ dàng nhớ được điều này. (Nhớ 1 cách thô sơ nhất, thứ tự từ trên xuống sẽ là B-B-T-B-T-B-T-B).
(Trong thực tế, để sang tác hay tìm hiểu luật thơ TNBC người ta chỉ cần biết đến BẢNG 3 là đủ. Việc xác định các vị trí còn lại thực chất chỉ là để cho đủ luật mà thôi)
III- Sau khi đã xác định xong các vị trí 2,4,6,7 chúng ta có thể dễ dàng tìm ra các vị trí còn lại nếu chịu khó so sánh BẢNG 3 với luật phối thanh đầy đủ của thể thơ này
LUẬT BẰNG LUẬT TRẮC
Từ CÁI ĐÃ BIẾT ( 2 ,4 , 6, 7 ) sẽ suy ra được CÁI CHƯA BIẾT (1 ,3,5)
***************************
TÓM TẮT CÁCH LÀM.
2. Ghi vị trí thứ 2 và thứ 6 vào (trái ngựoc với vị trí thứ 4) (Khi đã thành thạo, ta sẽ có thể ghi nhớ theo hàng ngang vì các vị trí 2 4 6 trong mỗi câu chỉ có 2 trường hợp B – T – B và T – B -T)
3. Bổ sung vị trí thứ 7 ( các câu có gieo vần, 1- 2- 4- 6- 8, sẽ mang thanh bằng)
Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Luật Thơ Đường xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất trên website Bac.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!