Luật Xúc Phạm Trẻ Em / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Bac.edu.vn

Cấm Xúi Giục Trẻ Em Xúc Phạm Danh Dự Người Khác

1. Tước đoạt quyền được sống của trẻ em.

2. Bạo lực, lạm dụng trẻ em.

3. Xâm hại tình dục trẻ em.

4. Bỏ mặc, bỏ rơi, đánh tráo, bắt cóc trẻ em.

5. Bóc lột trẻ em.

6. Tổ chức, hỗ trợ trẻ em tảo hôn.

7. Sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; xúc phạm danh dự người khác.

8. Cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình.

9. Không cung cấp hoặc che giấu, ngăn cản việc cung cấp thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho cơ quan, tổ chức, gia đình, nhà trường, cá nhân có thẩm quyền.

10. Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em.

11. Bán, cho hoặc không ngăn chặn trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích thích có hại cho trẻ em.

12. Cung cấp dịch vụ, sản xuất, sao chép, lưu hành, vận hành, phát tán, sở hữu, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi, trò chơi và những sản phẩm khác có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em.

13. Công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trẻ em không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em mà không được sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ trẻ em và của chính bản thân trẻ em từ đủ bẩy tuổi trở lên.

14. Lợi dụng việc nhận chăm sóc thay thế trẻ em để xâm hại trẻ em; lợi dụng chế độ, chính sách của nhà nước và sự hỗ trợ giúp đỡ của tổ chức, cá nhân cho trẻ em để trục lợi.

15. Đặt cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, dễ gây cháy, nổ gần cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em hoặc đặt cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, điểm vui chơi, giải trí của trẻ em gần cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, dễ gây cháy, nổ.

16. Lấn chiếm, sử dụng sai mục đích, trái quy định của pháp luật cơ sở hạ tầng dành cho việc học tập, vui chơi, giải trí và hoạt động dịch vụ bảo vệ trẻ em.

17. Từ chối, không thực hiện trách nhiệm hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời việc hỗ trợ, can thiệp, điều trị đối với trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm, bị tổn hại tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự.

18. Chính phủ quy định chi tiết thực hiện các điều này.

Quyền Trẻ Em Là Gì? Quyền Trẻ Em Theo Pháp Luật Việt Nam

Quyền trẻ em là gì? Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định về quyền trẻ em như thế nào? Liên hệ thực tế về quyền trẻ em ở Việt Nam và các nước trên thế giới.

Quyền trẻ em là những quyền con người được áp dụng dành riêng cho trẻ em, ở mỗi độ tuổi khác nhau thì trẻ em được hưởng quyền và gánh vác những nghĩa vụ khác nhau. Việc xem xét quy định và thực hiện quyền trẻ em phải xuất phát từ quan điểm của trẻ em, vì vậy quyền trẻ em là những đặc lợi mà trẻ em được hưởng theo quy định của pháp luật.

Các quyền cơ bản của trẻ em được quy định cả trong pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng. Các quyền cơ bản của trẻ em được quy định trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em 1989 gồm bốn nhóm quyền: quyền được sống còn, quyền được phát triển, quyền được bảo vệ, quyền được tham gia.

Ở Việt Nam, các quyền cơ bản của trẻ em được quy định trong luật trẻ em mới nhất năm 2021 hiện hành còn hiệu lực. Luật đã quy định các quyền của trẻ em Việt Nam như sau:

Bất cứ trẻ em nào cũng đều có các quyền bất khả xâm phạm và được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các Điều kiện sống và phát triển.

Tất cả mọi trẻ em nào cũng đều có quyền khai sinh khi sinh ra và khai tử khi chết đi, có họ tên riêng, có dân tộc, quốc tịch, được xác định giới tính của mình theo quy định của pháp luật.

Trẻ em được nhà nước quan tâm chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh như trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí khi đi khám chữa bệnh trong điều kiện tốt nhất.

Hiện nay, các cá nhân, các tổ chức, các sở ban ngành từ địa phương đến trung ương đã quan tâm đầu tư xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho các em được tham gia vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt dộng văn hóa, thể thao, tạo ra các sân chơi bổ ích, hấp dẫn, phù hợp với từng lứa tuổi trong việc đảm bảo cho trẻ em được thực hiện các quyền vui chơi, giải trí của trẻ em theo quy định pháp luật. đều có quyền vui chơi, giải trí;được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi mà không bị hạn chế

Trong hiến pháp của nhà nước cũng đã quy định về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo thì trẻ em cũng có các quyền này, có thể theo hoặc không theo một tôn giáo nào và phải được bảo đảm an toàn, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em theo quy định của pháp luật

Không phân biệt về độ tuổi thì pháp luật hiện nay cho phép các trẻ có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản và định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật.

Tất cả mọi trẻ em đều có các quyền giữ gìn bí mật và bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư của mình, bí mật cá nhân của trẻ em và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư. Không có ai có quyền hạn chế các quyền này trừ trường hợp pháp luật có những quy định khác.

Đây cũng là một trong những quyền rất quan trọng để trẻ em có thể thực hiện thêm các quyền khác nếu quyền này được bảo đảm thực hiện thì trẻ cũng có các quyền được chung sống với cha mẹ của mình và được những người thân cha mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. không ai có quyền cách ly cha mẹ con trừ trường hợp cách ly cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Khi phải cách ly cha, mẹ, trẻ em được trợ giúp để duy trì mối liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ, gia đình, trừ trường hợp không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em để đảm bảo trẻ em được phát triển toàn diện tốt nhất.

Đối với những trẻ em cơ nhỡ, không nơi nương tựa thì nhà nước cho phép trẻ em được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về con nuôi khi không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em và không bị ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ em.

Tất cả mọi trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục. Mọi hành vi xâm hại đến trẻ em đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Tất cả mọi trẻ em đều có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em . Mọi hành vi gây tổn hại cho trẻ em tùy theo tính chất mức độ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Các cá nhân, tổ chức đều có trách nhiệm bảo vệ trẻ em dưới mọi hình thức để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt. Khi phát hiện các hành vi vi phạm cần trình báo ngay đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết xử lý theo quy định của pháp luật.

Vấn nạn ma túy đang ngày càng phức tạp và gây ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội nên tất cả mọi cá nhân, tổ chức cần bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức sử dụng, sản xuất, vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Để không bị ảnh hưởng đến thế hệ tương lai cho đất nước.

Tất cả mọi trẻ em có quyền được nhà nước bảo vệ trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính. khi trẻ em có các hành vi vi phạm thì sẽ được bảo đảm quyền được bào chữa và tự bào chữa, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; được trợ giúp pháp lý, được trình bày ý kiến, không bị tước quyền tự do trái pháp luật; không bị tra tấn, truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể, gây áp lực về tâm lý và các hình thức xâm hại khác nhằm cho trẻ em cũng được bảo vệ khi hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.

Do trẻ em chưa phát triển hoàn thiện về mặt sinh học nên trẻ em có quyền được ưu tiên bảo vệ, trợ giúp dưới mọi hình thức để thoát khỏi tác động của thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang để tạo điều kiện cho trẻ em phát triển tốt nhất.

Tất cả các trẻ em khi là công dân Việt Nam được bảo đảm an sinh xã hội để giảm thiểu rủi ro về thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, ốm đau, tai nạn theo quy định của pháp luật phù hợp với Điều kiện kinh tế – xã hội nơi trẻ em sinh sống và Điều kiện của cha, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ em theo quy định của pháp luật

Hiện nay, cả thế giới đang trong công cuộc cách mạng công nghệ 4.0 nhất là trẻ em đang trong độ tuổi khám phá nên trẻ em cũng có quyền được tiếp cận thông tin đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền tìm kiếm, thu nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật và được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với độ tuổi, mức độ trưởng thành, nhu cầu, năng lực của trẻ em để phù hợp với mọi lứa tuổi.

Để tạo điều kiện cho các trẻ em khuyết tật hòa nhập với cộng đồng, bỏ qua tâm lý tự ti bỏ qua mặc cảm để đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thì trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật; được hỗ trợ, chăm sóc, giáo dục đặc biệt để phục hồi chức năng, phát triển khả năng tự lực và hòa nhập xã hội hội nhập với quốc tế.

Đất nước ta luôn có những chính sách pháp luật hỗ trợ cho những trẻ em không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, trẻ em lánh nạn, tị nạn được bảo vệ và hỗ trợ nhân đạo, được tìm kiếm cha, mẹ, gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên nhằm chung tay với thế giới để bảo vệ trẻ em phát triển toàn diện.

Như vậy pháp luật đã quy định những quyền cơ bản của trẻ em và đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Bài Tuyên Truyền Về Luật Trẻ Em

Trang chủ

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

BÀI TUYÊN TRUYỀN VỀ LUẬT TRẺ EM

 Ngày 5-4-2016 tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã biểu quyết thông qua Luật Trẻ em 2016 thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Theo đó, Luật Trẻ em năm 2016 gồm 7 chương với 106 điều. Luật đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thúc đẩy việc thực hiện ngày càng tốt hơn những quyền cơ bản của trẻ em mà Việt Nam là một trong các quốc gia phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc.

    Ngày 5-4-2016 tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã biểu quyết thông qua Luật Trẻ em 2016 thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Theo đó, Luật Trẻ em năm 2016 gồm 7 chương với 106 điều. Luật đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thúc đẩy việc thực hiện ngày càng tốt hơn những quyền cơ bản của trẻ em mà Việt Nam là một trong các quốc gia phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc.

    ”Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” là câu nói bao hàm đầy đủ ý nghĩa về trẻ em . Đấy là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và mỗi gia đình. Vì vậy nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên và nhi đồng là trách nhiệm của toàn xã hội. Liên hợp quốc đã thông báo rằng: “Trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt, tất cả trẻ em trong hay ngoài giá thú đều được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau”. Nhiều thập kỷ qua, việc chăm sóc trẻ em ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đã được quan tâm ở những mức độ khác nhau, song do các yếu tố chủ quan và khách quan như thiên tai, mất mùa, chiến tranh, hoặc do trình độ dân trí thấp… trẻ em vẫn còn phải gánh chịu những nỗi đau, những thiệt thòi, trẻ em vẫn bị đói rét và vẫn bị giết hại trong những cuộc chiến, thậm chí vẫn bị bắt buộc cầm súng ra trận, hoặc phải tự lao động nuôi thân quá sớm, hoặc bị mua bán, xâm hại…

    Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, vào ngày 20/2/1990. Vào ngày 5-4-2016 tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã biểu quyết thông qua Luật Trẻ em 2016 thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Theo đó, Luật Trẻ em năm 2016 gồm 7 chương với 106 điều. Luật đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thúc đẩy việc thực hiện ngày càng tốt hơn những quyền cơ bản của trẻ em mà Việt Nam là một trong các quốc gia phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc. Luật trẻ em đã kế thừa những quy định cơ bản của Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, đồng thời sửa đổi, bổ sung rất nhiều quy định mới nhằm cụ thể hóa Hiến pháp 2013, Công ước Quyền trẻ em và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội, phát triển của trẻ em trong giai đoạn hiện nay. Được đổi tên từ Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Trẻ em phản ánh đầy đủ hơn nội dung và phạm vi của Luật. Tên gọi mới này vừa ngắn gọn vừa phản ảnh đầy đủ hơn nội dung và phạm vi điều chỉnh của luật về đối tượng đặc thù là trẻ em.

    Luật Trẻ em gồm 7 chương với 106 điều (tăng 2 Chương và 46 điều so với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004), cụ thể:

Chương I về Quy định chung; gồm 11 điều từ điều 1 đến điều 11

Chương II về Quyền và Bổn phận của trẻ em gồm 30 điều từ (từ điều 12 đến điều 41),

Chương III về  chăm sóc và giáo dục trẻ em; gồm từ 5 điều từ điều 42 đến điều 46

Chương IV về Bảo vệ trẻ em gồm 27 điều từ điều 47 đến điều 73

Chương V. Về sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em gồm 5 điều từ điều 74 đến điều 78

Chương VI. về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em gồm 24 điều từ điều 79 đến điều 102

Chương VII. Điều khoản thi hành gồm 4 điều từ điều 103 đến điều 106.

              Luật Trẻ em có một số nội dung cơ bản, như sau:

Về định nghĩa Trẻ em, không quy định giới hạn là công dân mà thay bằng từ là Người dưới 16 tuổi. Quy định này có nghĩa mở rộng đối tượng áp dụng của Luật không chỉ trẻ em là công dân Việt Nam mà còn bao gồm cả trẻ em là người nước ngoài không phải công dân Việt Nam nhưng đang cư trú tại Việt Nam.

              Luật cũng bổ sung các khái niệm mới về bảo vệ trẻ em như: Chăm sóc thay thế, người chăm sóc trẻ em; xâm hại trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em, bạo lực trẻ em; bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em; giám sát việc thực hiện quyền trẻ em. Những khái niệm mới này nhằm thống nhất nhận thức, tạo cơ sở chuẩn mực pháp lý trong việc đánh giá các hành vi của xã hội trước thực tiễn hiện nay, cụ thể:

Bảo vệ trẻ em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Phát triển toàn diện của trẻ em là sự phát triển đồng thời cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và mối quan hệ xã hội của trẻ em.

Chăm sóc thay thế là việc tổ chức, gia đình, cá nhân nhận trẻ em về chăm sóc, nuôi dưỡng khi trẻ em không còn cha mẹ; trẻ em không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang nhằm bảo đảm sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.

              Người chăm sóc trẻ em là người đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc trẻ em, bao gồm người giám hộ của trẻ em; người nhận chăm sóc thay thế hoặc người được giao trách nhiệm cùng với cha, mẹ của trẻ em cấp dưỡng, chăm sóc, bảo vệ trẻ em.

Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức gây tổn hại khác.

Bạo lực trẻ em là hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập; xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi và các hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của trẻ em.

Bóc lột trẻ em là hành vi bắt trẻ em lao động trái quy định của pháp luật về lao động; trình diễn hoặc sản xuất sản phẩm khiêu dâm; tổ chức, hỗ trợ hoạt động du lịch nhằm mục đích xâm hại tình dục trẻ em; cho, nhận hoặc cung cấp trẻ em để hoạt động mại dâm và các hành vi khác sử dụng trẻ em để trục lợi.

              Bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em là hành vi của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em.

Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em không đủ điều kiện thực hiện được quyền sống, quyền được bảo vệ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền học tập, cần có sự hỗ trợ, can thiệp đặc biệt của Nhà nước, gia đình và xã hội để được an toàn, hòa nhập gia đình, cộng đồng.

              Thứ hai, Về quyền của trẻ em: Từ điều 12 đến điều 46, bao gồm 25 điều về các nhóm quyền cuả trẻ em và 5 điều về bổn phận của trẻ em Các điều được sắp xếp theo 4 nhóm quyền cơ bản của trẻ em về sống, phát triển, bảo vệ và tham gia. Những quy định này kế thừa Luật BVCS và GD TE năm 2004, nhưng có bổ sung 13 điều quy định mới nhằm cụ thể hóa quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời làm hài hòa với Công ước quyền trẻ em và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay.

              Luật trẻ em năm 2016, kế thừa Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, các bổn phận của trẻ em được quy định cụ thể phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân của Hiến pháp 2013, trẻ em có bổn phận đối với gia đình, nhà trường, cộng đồng, xã hội, quê hương, đất nước. Đặc biệt (điều 41) quy định về bổn phận đối với bản thân trước khi có trách nhiệm với người khác, các em cần biết quý trọng giá trị của bản thân và có trách nhiệm tự bảo vệ mình.

Thứ ba, về chăm sóc và giáo dục trẻ em được qui định từ điều 42 đến điều 46 bao gồm các quy định có tính nguyên tắc, tổng quát về chính sách của nhà nước nhằm bảo đảm về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, làm cơ sở cho hoạch định chính sách bảo đảm thực hiện các nhóm quyền và phát triển của trẻ em.               Về bảo đảm chăm sóc, Luật trẻ em năm 2016 quy định mang tính nguyên tắc về các biện pháp cơ bản nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận với chăm sóc, giáo dục sức khỏe. Trong đó có quy định chính sách đối với trẻ trong giai đoạn đầu đời (thông qua thực hiện các biện pháp chăm sóc bà mẹ mang thai), chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt chăm sóc trẻ em dưới 36 tháng tuổi; vấn đề  phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em; chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục phù hợp với độ tuổi theo quy định của pháp luật; xóa bỏ phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em; (ưu tiên đối với các vùng khó khăn, miền núi, các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt), để trẻ em được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh và điều kiện vệ sinh cơ bản. Nhà nước hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế phù hợp với độ tuổi, (điều 43)

Thứ tư, về bảo vệ trẻ em (từ điều 47 đến điều 73), khắc phục hạn chế của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, chưa quy định một cách rõ ràng các biện pháp bảo vệ trẻ em ba cấp độ, Luật trẻ em năm 2016 quy định cụ thể biện pháp bảo vệ trẻ em từ phòng ngừa, hỗ trợ đến can thiệp cùng với trách nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân để bảo đảm trẻ em được an toàn, được hỗ trợ và can thiệp kịp thời khi có nguy cơ hoặc đang bị xâm hại. Luật cũng quy định các loại hình, điều kiện hoạt động, thẩm quyền thành lập, cấp đăng ký, đình chỉ, chấm dứt hoạt động đối với cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Ngoài ra, Luật còn quy định việc áp dụng các hình thức chăm sóc thay thế đối với trẻ em nhăm bảo đảm trẻ em được sống trong môi trường gia đình và được chăm sóc thay thế khi bị mất môi trường gia đình hoặc không thể cùng cha đẻ, mẹ đẻ.

Luật Trẻ em quy định cụ thể các nội dung về các cấp độ bảo vệ trẻ em (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp) và trách nhiệm thực hiện; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.

              Một trong những điểm mới nổi bật của luật Trẻ em là quy định cụ thể các yêu cầu bảo vệ trẻ em; các cấp độ bảo vệ trẻ em; trách nhiệm cung cấp, xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.

Có  cấp độ bảo vệ trẻ em đó là phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp. Các biện pháp bảo vệ này được quy định một cách cụ thể, cùng với trách nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để bảo đảm trẻ em được an toàn, được hỗ trợ và can thiệp kịp thời khi có nguy cơ hoặc đang bị xâm hại.

Quy định về chăm sóc thay thế nhằm bảo đảm trẻ em được sống trong môi trường gia đình và được chăm sóc thay thế khi không còn trong môi trường đó hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Trên cơ sở hệ thống hóa các nguyên tắc áp dụng đối với người chưa thành niên trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính theo các văn bản pháp luật hiện hành, luật đã cụ thể hóa các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.

Các biện pháp phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp được quy định cụ thể, cùng với trách nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc bảo vệ trẻ em. Luật quy định các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em ở cả ba cấp độ, không chỉ dừng lại ở việc can thiệp đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.  Luật Trẻ em quy định cụ thể trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã.

                   Quy định về chăm sóc thay thế nhằm đảm bảo trẻ em được sống trong môi trường gia đình và được chăm sóc thay thế khi bị mất môi trường gia đình hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ để vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Tại Chương IV của Luật Trẻ em quy định các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Nội dung này được xây dựng trên cơ sở hệ thống hóa các nguyên tắc áp dụng đối với người chưa thành niên trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính được quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành, đồng thời bổ sung các nguyên tắc được quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các điều ước quốc tế về tư pháp đối với trẻ em mà Việt Nam là thành viên.

Thứ năm, về quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề về trẻ em (từ điều 74 đến điều 78), Luật quy định phạm vi, hình thức trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em và các biện pháp bảo đảm sự tham gia của trẻ em trong gia đình cũng như bảo đảm sự tham gia của trẻ em trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Đặc biệt Luật trẻ em năm 2016 quy định điều 77 về tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em là Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và cũng là tổ chức giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyên vọng của trẻ em. Luật trẻ em năm 2016 quy định (điều 79 đến điều 102) cụ thể trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; việc tổ chức phối hợp liên ngành giữa các cơ quan, tổ chức, giữa các địa phương trong việc giải quyết các vấn đề trẻ em, thực hiện quyền trẻ em.

         Để triển khai thi hành Luật trẻ em, Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2017/NĐ-CP để hướng dẫn thực hiện Luật trẻ em, và còn tiếp tục ban hành những thông tư hướng dẫn trong thời gian tới./.

Tweet

Tin khác

Quy chế thi THPT Quốc gia năm 2020

An toàn trên mạng cho trẻ em

An toàn trên mạng cho trẻ em

QUY ĐỊNH MỨC HỖ TRỢ TIỀN ĂN; HỖ TRỢ CHO GIÁO VIÊN QUẢN LÝ HỌC SINH VÀ CẤP DƯỠNG NẤU ĂN CHO HỌC SINH BÁN TRÚ;

QUY ĐỊNH MỨC HỖ TRỢ TIỀN ĂN; HỖ TRỢ CHO GIÁO VIÊN QUẢN LÝ HỌC SINH VÀ CẤP DƯỠNG NẤU ĂN CHO HỌC SINH BÁN TRÚ;

BÀI TUYÊN TRUYỀN PHÒNG CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI

BÀI TUYÊN TRUYỀN PHÒNG CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI

Quy định chính sách hỗ trợ cho học sinh, giáo viên Trường Trung học phổ thông Chuyên Lào Cai

Quy định chính sách hỗ trợ cho học sinh, giáo viên Trường Trung học phổ thông Chuyên Lào Cai

BÀI TUYÊN TRUYỀN VỀ LUẬT TRẺ EM

3 Phút Cùng Luật Sư: Để Trẻ Em Làm Youtube Như Thế Nào Thì Không Phạm Luật?

Khoảng 5 năm trở lại đây, trào lưu Youtube bắt đầu nở rộ với các kênh Youtube cá nhân mọc lên nhiều như nấm. Các Youtuber đa số là những bạn trẻ, nắm bắt được các xu hướng và thị hiếu của người xem. Đặc biệt, có nhiều youtuber chỉ là những đứa bé chưa lên 10, thậm chí còn có bé chỉ mới 4,5 tuổi. Đây là độ tuổi dưới tuổi lao động nhưng đã có thể kiếm tiền từ hình ảnh của mình. Hành động này có bị xem là vi phạm pháp luật không? Mời bạn đọc cùng gặp gỡ anh Quốc Dũng – luật gia, chuyên viên tư vấn luật của văn phòng luật sư Li và Đồng sự.

Trẻ em làm youtube kiếm tiền và những tích cực-tiêu cực.

Hành động quay và đăng tải hình ảnh của con em với mục đích tạo kênh Youtube và kiếm tiền từ đó có được xem là hành vi vi phạm pháp luật hay không thưa anh?

Luật gia Quốc Dũng: Theo như chúng ta được biết, trẻ em là đối tượng đặc biệt được pháp luật bảo vệ từ mọi mặt và các qui định pháp luật về việc sử dụng các hình ảnh, thông tin riêng tư cũng hết sức chặt chẽ.

Trước hết, tính hợp pháp của hành vi trên của các bậc phụ huynh cần thỏa mãn 02 điều kiện về sự cho phép/ đồng ý từ con trẻ từ 07 tuổi trở lên và về nội dung hình ảnh, video đăng tải đó không được vi phạm điều cấm pháp luật và chính sách riêng của Youtube (như mang tính khiêu dâm, đồi trụy hoặc ảnh hưởng khác đến việc quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nói riêng hay các cá nhân khác trong cộng đồng nói chung). Nếu không thỏa mãn 01 trong 02 điều kiện trên thì hành vi quay và đăng tải ấy được xem như đã vi phạm pháp luật.

Youtuber nhí kiếm tiền từ Youtube có xem là vi phạm luật lao động hay không?

Cha, mẹ; người giám hộ của trẻ em phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo qui định pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của trẻ. Trách nhiệm pháp lý sẽ được đặt ra khi cha, mẹ, người giám hộ có những hành vi trái pháp luật để trẻ em tham gia kiếm tiền mà không xuất phát từ sự tự nguyện của trẻ, không vì lợi ích trẻ, lợi dụng hay có các hành vi khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển, các quyền của trẻ em theo qui định pháp luật. Tùy vào tính chất, mức độ của hành vi trái pháp luật nêu trên có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự theo pháp luật hiện hành.

Khi trẻ em làm youtube có nên khuyến khích?

Theo ý kiến cá nhân, luật gia cảm thấy thế nào về việc để các bé quá nhỏ xuất hiện nhiều trên mạng để kiếm tiền và nổi tiếng quá sớm?

Luật gia Quốc Dũng: Tôi cũng đồng tình với một số chuyên gia về tâm lý của lứa tuổi thanh thiếu niên rằng những đứa trẻ nếu tiếp xúc với tiền bạc sớm sẽ dễ mất cơ bản, sau này rất khó khăn trong việc dạy bảo, trẻ cũng mất đi những nét hồn nhiên, ngây thơ của lứa tuổi. Bé nào có bản lĩnh sống tốt thì có thể còn đứng được, nhưng nếu bản lĩnh kém thì chắc chắn sẽ trượt dài trong những thói hư tật xấu. Ở lứa tuổi nhỏ, các em chưa đủ sức để đối đầu với những mặt trái trong giới giải trí, ngoài ra trẻ em nếu nổi tiếng quá sớm sẽ bị ảnh hưởng nhất định về mặt nhân cách, đôi khi mắc bệnh tự mãn.

Thật ra, nếu thật sư con em chúng ta sinh ra sở hữu các năng khiếu, nhanh nhạy, hoạt bát cần nên được đầu tư, đào tạo kĩ, như vậy tương lai sẽ rộng mở hơn.

Việt Khuê Bài, clip: Như Quỳnh – Nguyễn Quang